Ô Di Hà hỏi kế là gì.Thừa Lân đáp, “Tiểu đệ đã kịp quan sát cách bài trí trại của chúng.
Ban ngày chúng còn không bố trí canh phòng, tất ban đêm sẽ không có, ta có thể tiếp cận.
Xung quanh trại chính là một loạt các lều tròn bọc da hoặc nỉ, lều nào đặt san sát lều đó.
Chỉ cần một mồi lửa là các lều đó sẽ nối tiếp nhau bắt lửa, ta không cần đánh cũng tự phá.
Tả hữu đã bắt lửa thì kẻ địch chỉ còn hai lối ra vào.
Trong khi địch hỗn loạn, ta tập kích hai huyết mạch giữa quả núi và khu rừng, ắt sẽ thắng lợi.”Hà cho là kế hay, liền sai các huynh đệ gom mồi lửa.
Lũ Nhai, Ninh còn nghi ngờ kế sách, nhưng Ô Di Hà đã quyết thì hai người họ cũng không dám trái lời.Canh ba đêm đó, cả hội Ô Di Đạo, hai mươi ba người, chia làm hai đạo chính, chặn hai chính lộ ra vào của trại.
Cổ Mạnh Ninh cùng năm nỏ thủ từ xa bắn tên tẩm bùi nhùi phóng hỏa, trúng cả ba trại chính.
Khi quân Hung Nô ra dập lửa thì đã quá muộn.Ở phía xa, Kiều Sinh Nhai chỉ huy các đồ đệ khua chiêng múa trống, khuếch trương thanh thế, chỉ có năm người mà địch tưởng như hàng chục quân Kim chính thống ứng cứu.
Quả nhiên, quân Hung Nô trúng kế, tản ra hai đường mà bỏ chạy.Trong cơn hoảng loạn, lính Mông Cổ chen chúc vào lối nhỏ, bị toán quân của Ô Di Hà và Kiều Sinh Nhai mai phục sẵn, giết tất thảy năm chục người ngựa.
Ô Di Hà chỉ mất tổng cộng năm binh sĩ.Ô Di Hà thu thập được bao nhiêu chiến khí, lương thực, hội quân lại với Kiều Sinh Nhai và Cổ Mạnh Ninh.
Lũ Nhai, Ninh thấy Thừa Lân còn trẻ mà đa mưu túc trí, không ghen tị mà thấy bội phục ba bốn phần.Chủ trại Mông Cổ là Thốc Mãn Lai, nhân thời cơ hỗn loạn mà dắt hai kỵ binh thân tín men đường mòn phía Nam bỏ trốn.
Ai ngờ đi một đoạn, tới gần rừng tùng, hai kẻ đã ám phục sẵn trên ngọn cây cao nhảy xuống, một chém giết chết hai kỵ binh đi cùng.Thốc Mãn Lai vội vàng quay ngựa lại thì thấy hai kẻ mặc trang áo da hươu, rõ ràng là người Nữ Chân.
“Ai?” Hắn hỏi.Người có thân thể cao lớn hơn đáp, “Ngươi sắp chết rồi, không cần biết danh tính bọn ta.”Kì thực, hai người mai phục họ Thốc chính là Hoàn Thừa Lân và Ô Di Đạo.
Thừa Lân đã tiên liệu chủ trại của quân Mông sẽ theo đường nhanh nhất phóng về Liêu Dương để tẩu thoát, y rằng ứng nghiệm.Thốc Mãn Lai mặc áo giáp phiến mỏng, tay cầm một cây kích cán đỏ son, nhuộm từ rễ cây thiến thảo, mũi kích đúc từ bạc sáng loáng, cán gắn lông đuôi ngựa hung.
Ô Di Đạo nhận ra cây kích đó, mới hô lớn, “Đó là Huyết Tiễn Kích của Chu Nhậm.
Tì tướng nhà ngươi sao dám cướp lấy, vấy bẩn nó trên tay ngươi?”“Chặn đường Thốc Mãn Lai mà chỉ có hai người, quả thực là hôm nay muốn chết rồi.” Thốc Mãn Lai múa kích, động tác đơn giản nhưng nhuần nhuyễn.
“Ta chính là em trai của Thốc Mãn Quần, liệp khuyển (chó săn) tiên phong của Húc Đồ Cung.
Ngươi là hạng tôm tép nào mà dám chặn đường ta?”Đạo ngẩng mặt lên trời, cười lớn.
“Trông nhà ngươi rong ngựa phủi áo, ta cứ tưởng gặp phải vĩ nhân nào cơ! Hóa ra chỉ là hạng tôm tép.
Phó tướng của phó tướng của phó tướng mà cứ ra vẻ như Nhạc Phi cái thế!”Thốc Mãn Lai giận tím mặt, múa kích thúc ngựa xông vào chém Ô Di Đạo.
Hắn đinh ninh hắn trên lưng ngựa, hai kẻ kia chỉ đi chân trần, dù có hai đấu một hắn cũng có lợi thế rõ ràng.
Hoàn Thừa Lân tay nắm một vốc cát, đợi ngựa tiến lại gần thì ném vốc cát đó vào mắt ngựa.
Ngựa bị hoảng hồn, đổi hướng, kích của Mãn Lai không tới được Ô Di Đạo.
Nhân thời cơ đó, Đạo