Lần đầu gặp, tôi thấy Mã huynh đang phóng sinh chim trong Niệm Phật Đường cùng với một pháp hữu khác.Mã huynh hiện nay hơn 40 tuổi, là một đại hán Sơn Đông điển hình, tướng mạo giống như nhân vật Võ Tòng đánh hổ trong truyện Thủy Hử.Ông mày rậm mắt to, vóc dáng cường tráng, tính cách hào sảng, giọng nói như chuông ngân, nội lực mạnh mẽ, nhìn rất oai phong, khí thế.Câu chuyện tu hành của Mã huynh cũng lắt léo, ly kỳ… có thể dùng câu “lãng tử hồi đầu” để mô tả.
Ông luyện võ từ nhỏ, sau đó đi lính, thân thể rất vạm vỡ, khang kiện.Sau khi giải ngũ, ông ở nhà.
Khi luyện võ có một số anh em tới tìm, dần dần lập thành một băng nhóm xã hội đen.
Huyện Hoàn Đài nổi danh là nơi ăn chơi, có nhiều vũ trường, nhà hát, quán bar, thanh lâu… Hễ nơi nào các dạng ăn chơi, đấu đá… càng phát, thì thế lực xã hội đen càng mạnh.Mã huynh rất giỏi võ lại thông minh khôn khéo, sau nhiều lần tỉ thí, ông nhanh chóng đạt được “vương vị” và nổi danh trong giới xã hội đen.
Ông tự lập đảng phái, làm trùm một cõi, thế lực ngày càng mạnh, nghề nghiệp cũng phát tương đương, có đệ tử, thuộc hạ rất nhiều, mười phần oai phong dũng mãnh.Một ngày vào năm 2003, ông đến phố Đại Tập, huyện Hoàn Đài dạo chơi, tình cờ nhìn thấy một ông già bán tượng Quan Âm, chẳng biết chất liệu tượng thế nào, nhưng ông vừa nhìn lòng đã rất hoan hỉ.
Thế là ông lại gần hỏi giá, ai ngờ tới 180 đồng! ông thấy mắc quá nên bỏ đi.Một tháng sau khi dạo chơi tiếp ông cũng gặp lão già đó.
Lần này lão hạ giá xuống còn 100 đồng, nhưng ông vẫn thấy giá cao, nên không chịu mua.Bản thân là trùm giang hồ, nắm quyền sinh sát trong tay, theo bình thường nếu thích thì ông đã cưỡng đoạt từ lâu rồi, nhưng đây là tượng Quan Âm, nên ông không dám giở thói giang hồ ngông nghênh.Qua nửa tháng sau, ông đi chơi, lại gặp ông già ấy nữa.
Thấy tượng Quan Âm vẫn chưa bán đi.
Lần này không đợi ông hỏi, lão già tự động mở lời:– xem chừng tượng Phật này và ông có duyên dữ a, thôi thì lão chỉ tính giá 60 đồng, xem như vừa bán vừa tặng đó nha!Nghe vậy ông liền móc tiền ra trả rồi đem tượng về nhà đặt trên bàn trong phòng ngủ của mình, sau đó ngồi ngắm tới ngắm lui, lòng rất hoan hỉ.Một tối nọ, sau khi nhậu say bí tỉ, vừa về tới nhà là ông lăn ra ngủ một giấc.
Khoảng 4 giờ sáng ông thức dậy uống nước, nhìn thấy tượng Quan Âm trên bàn, ông chợt nẩy ra ý nghĩ lạ lùng: “Nghe nói Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn, linh ứng phi thường, chẳng biết điều này có thực chăng?… Nếu như có thực, thì hôm nay xin Bồ tát hãy hiển linh, cho tôi trông thấy rõ ràng thì tôi mới tin!”… (ông vốn là một người vô thần, chưa từng biết khom lưng cúi đầu trước ai, ông chẳng hề tin mấy cái thuyết nhân quả hay là có quỷ thần gì cả.
Nhưng trước đây khi luyện võ ông cũng thường ngồi tĩnh tọa, song đấy chỉ là luyện khí công mà thôi)…Ông vừa vái thầm như thế xong, tự ngẫm nghĩ rồi tủm tỉm cười, sau đó thì quay về giường ngủ tiếp, nhưng mà ngủ không được…Đang nhắm mắt mơ mơ màng màng, thì đột nhiên ông nhìn thấy tượng Bồ tát Quan Âm như đang phóng quang, ánh sáng màu vàng rực nhưng tỏa chiếu rất ôn nhu, ông nhìn ánh kim quang lấp lánh lòng cảm thấy dễ chịu khôn cùng… Bỗng ông giựt mình bừng tỉnh, thì không thấy Bồ tát phóng quang nữa, nhưng hễ nhắm mắt lại, thì thấy Bồ tát lại đang phóng quang…Ông bắt đầu nghi ngờ: “Chắc tại mình uống nhiều rượu quá nên sinh ảo giác đó thôi!”… Nhưng rõ ràng tượng Bồ tát đang cười tủm tỉm, ông nhìn thấy mặt mày, ánh mắt Ngài… rất rõ.
Thế là ông hết ngủ được.Tờ mờ sáng hôm sau ông vội ra ngoài để tìm hiểu những gì liên quan đến Phật giáo, sau khi hỏi thăm mấy người bạn, mới biết gần đấy có chùa Kim Lăng, thế là ông lập tức đến đó.Đây là lần đầu ông đến chùa, ông đi vòng quanh và xá chào trước mỗi điện, nhưng chả thấy có gì thần kỳ linh ứng, trong lòng không khỏi chán nản… Nhìn thấy mớ sách thiện báo ứng nhân quả (chùa cho đọc miễn phí để kết duyên), ông liền thỉnh mấy cuốn đem về nhà xem… Đây là lần đầu tiên ông tiếp xúc với đạo, càng xem càng ưa, càng xem càng sợ…Ông nghĩ mình mấy năm nay làm toàn việc xấu, trong lòng bắt đầu hối hận hoảng sợ, nhờ đọc các chuyện nhân quả báo ứng trong sách, ông hiểu ra tất cả ác nghiệp mình tạo đều là tội đáng đọa địa ngục…Xem xong mấy cuốn thiện thư rồi, Mã huynh suy gẫm lung lắm, thế là trong lòng phát sinh thay đổi.
Kể từ đó ông tu sửa rất nhiều, hành sự không còn hung hăng dữ tợn nữa.
Nhưng là dân trong giới giang hồ, mọi sự chẳng do mình tự quyết hết, ông phải thường tham dự việc của băng đảng xã hội đen, chỉ là từ đó về sau ông có niệm Phật, bái Phật…Kế đến, ông còn thỉnh một bức hình “Quan Âm cưỡi trên con rồng đen” về treo trên vách phòng khách, rồi cao hứng, ông tới trước tượng khấu đầu mấy cái…Mãi đến một đêm thu năm 2008…Tối đó ông về nhà, khoảng chừng tám chín giờ, vừa bước vào nhà thì thấy Bồ tát Quan Thế Âm (trong hình treo nơi phòng khách đang bước ra, đứng trên không nhìn xuống ông).
Mã huynh hết hồn, vội quỳ xuống, vừa dập đầu như tế sao vừa lớn tiếng réo gọi vợ mau ra xem, lúc vợ ông chạy ra thì không còn gì, ông ngẩng đầu lên thấy Bồ tát trên không cũng biến mất…Lần này ông hết sức tỉnh táo, khẳng định trăm phần trăm mắt mình nhìn thấy rõ ràng chứ không phải là ảo giác.
Bởi vì ông đã tận mắt nhìn thấy Bồ tát Quan Âm, nhăn thần ghi khắc tận xương tủy, cảm giác xúc động này như xuyên thấu cả người ông…Lần này thì ông đã tâm phục khẩu phục, triệt để hối ngộ.
Ngay đó ông liền phát thệ trước Bồ tát Quan Âm: “Từ đây con quyết sửa lỗi đổi mới, dứt khoát rời khỏi giang hồ, một lòng hướng thiện, nguyện làm lại cuộc đời!”Mã huynh tính rất dứt khoát, hễ nói là làm, vì vậy hôm sau ông triệu tập đám thuộc hạ tuyên bố giải tán, tha thiết khuyên họ từ bỏ việc xấu và giải thích: “Thiện ác có báo ứng, nhân quả không dối, gieo gì gặt đó, đừng để ác báo trổ rồi hối không kịp”…Buông bỏ dễ, làm lại rất khó.
Mã huynh vốn tính hào sảng, trọng nghĩa khí… Hồi trước thuở còn cầm đầu băng đảng xã hội đen, hễ tay này thu, thì tay kia chi ra, nên đâu có dành dụm được bao nhiêu? Vì vậy chẳng mấy chốc ông đã lâm vào cảnh phải tìm kế sống… Trước tiên thì vay mượn người, sau đó thì cũng tìm được việc trong một hãng xưởng nọ.Bắt đầu đi làm, lương lãnh thấp, lại phải lao lực nhiều, hoàn cảnh công tác mọi thứ xem như cực kỳ tệ.
Nhờ ông có sức mạnh, yêu cầu cũng không cao, đã nhận việc thì ráng làm.
Nhưng khó chịu nhất là: Phải làm, nghỉ, đúng giờ; chịu đủ luật lệ gò bó.
Chưa kể còn phải nhìn mặt thượng cấp mà sống, mà hành xử.
Hễ không cẩn thận là bị lãnh đạo mắng té tát cho mất mặt… Tình cảnh này so với thời ông làm thủ lĩnh hét ra lửa, nắm quyền uy một thời, vào ra luôn được anh em cúi đầu vâng dạ… thì đúng là cách xa trời vực.Cứ thế, suốt thời gian dài Mã huynh cắn răng chịu đựng, luôn đi làm sớm và về thật muộn… Bởi ông sợ lỡ đi đường mà gặp người quen sẽ bị họ cười chê.
Khi đến xưởng thì ông vừa làm, vừa mải miết trì chú Chuẩn đề, nên chẳng giao tiếp với ai.
Lúc về nhà thì đa số thời gian đều dành cho việc lạy sám hối trước tượng Bồ tát Quan Âm.
Ông sám hối tất cả ác hạnh xưa kia, cầu Bồ tát khoan thứ gia hộ…Như thế được hơn nửa năm, ông mới bắt đầu giao lưu cùng đám thợ trong xưởng, nhưng hễ trò chuyện là ông khuyên người hướng thiện, tin nhân quả v.v… Sau này nhờ ông cảm hóa mà trong xưởng có được hơn 70 người tin Phật, chịu thờ Phật…Một năm sau, đột nhiên ban lãnh đạo xưởng cho ông thuyên chuyển đến chỗ khác làm việc.
Công tác nơi đây tương đối thanh nhàn, mấy ngày không làm cũng chẳng ai đến hỏi, lương cũng cao hơn nhiều.
Mã huynh hiểu rõ đây là Bồ tát Quan Thế Âm che chở, ngầm giúp ông có điều kiện để tu hành tốt hơn, vì vậy ông càng thêm tinh tấn.Chùa Hoa Nghiêm mỗi năm thường tổ chức đả Thiền thất, chỉ cần lúc rảnh không làm việc thì ông đến tham gia, có khi tham dự ba Thiền thất, hành trì không chút giải đãi.Lúc này ông đã phát Thiên nhãn thông, nhìn thấu suốt rõ ràng, trong thời gian tham dự Thiền thất, ông thường thấy Thiền đường biến thành một ao sen cực lớn, trên không có rồng vàng bay lượn chung quanh, có lúc còn xuất hiện Thiên nữ đến đạo tràng, rải hoa Mạn-đà-la lên các vị đồng tu…Có lúc ông nhìn thấy các cảnh như trong kinh tường thuật, nhìn thấu xuống địa ngục, thấy vua Diêm La vừa mập vừa thấp, còn hai quỷ vô thường hắc bạch thì ốm, cao; nhưng trông dáng vẻ chẳng hung ác.
Có lúc không nhịn được, ông đem những điều mình thấy hỏi thầy trụ trì Thường Tịnh, thì sư phụ luôn nhắc ông:– “Phàm những gì có hình tướng đều là hư giả”… cảnh lạ dù có hiện rồi cũng hóa thành không, ngàn vạn lần chớ nên chấp trước vào đó, nếu không sẽ bị lạc tà…Do ông có túc duyên rất sâu, khả năng thần thông càng tu càng phát mạnh, sư phụ sợ ông chấp trước sẽ bị lạc ma cảnh, nên kể cho ông nghe rất nhiều chuyện người ta vì mê chấp, tham cầu thần thông, mà bị tầu hỏa nhập ma…Mã huynh cung kính thọ giáo.
Tham dự Thiền thất xong, ông nhận thấy thời mạt pháp “đạo yếu ma mạnh”, đám ngoại đạo thiên ma, yêu tà, quỷ mỵ… tàn hại bừa bãi.
Người tu nếu thiếu chút cảnh giác không cẩn thận, thì sẽ bị rơi vào cảnh quỷ ngay! Do vậy ông liền phát đại nguyện: “Cả đời con xin dâng hết cho việc hộ trì chánh pháp, hộ trì người tu!”Phát nguyện xong, ông lập tức đến Phật Sơn Cổ Tự ở Tứ Xuyên, Bành Châu, bái kiến hòa thượng Quảng Ngộ (đệ tử của đại sư Tế Trần), học pháp “Uế Tích Kim cang”.
Học xong, về nhà ông tiếp tục tu thiền định.
Pháp “Uế Tích Kim cang” thuộc Mật tông đời Đường, cũng thuộc dạng giáo ngoại biệt truyền như Thiền tông, là pháp môn phương tiện Phật Thích Ca đặc biệt khai mở, thuộc về biệt mật.
“Uế Tích Kim cang” được hóa thân Phật Thích Ca tuyên thuyết, lúc Ngài thị hiện nhập niết bàn.
Pháp này không sợ ô uế, cho nên gọi “Uế Tích Kim cang”, dùng đại thần lực hàng phục quỷ đạo, hộ trì người tu hành đời sau, còn có tên là “Đại Quyền Thần Vương Phật”.Đầu năm 2009, một tu sĩ tới tìm Mã sư huynh, vừa bước vào nhà thì đến trước Phật lễ bái, lễ xong thầy liền nói: Quả là Bồ tát Quan Thế Âm hiện hữu nơi Phật đường của ông!Thầy này là pháp sư Minh Đăng, đồ tôn của Hòa thượng Hư Vân.Thầy Minh Đăng xuất gia từ nhỏ, cả nhà vốn rất sùng mộ Phật nên từ ấu thơ thầy đã biết kính tin Phật pháp.
Lúc ở nhà, thầy thường bế quan tu hành.
Năm đó thầy bế quan, giao cho muội muội hộ thất, sắp tròn 100 ngày, thì bỗng có một bà lão vác bị đến nhà thầy gõ cửa xin ăn.
Lúc đó nhằm buổi độ ngọ (dùng trưa), phụ thân thầy đang ăn cơm, trên bàn có hai đĩa rau, ông thuận tay liền trút một đĩa cho bà già.
Bà lão bỗng ngước lên trời cười to, rồi bỏ đi…Phụ thân không để ý, cứ tiếp tục ăn cơm.
Lúc này Minh Đăng đang nhập định bỗng thấy linh ảnh Bồ tát Địa Tạng xuất hiện, bảo:– Vừa rồi Bồ tát Quan Âm đến nhà, vì sao không ra nghênh tiếp?Thầy lập tức xuất định, kêu muội muội hỏi thăm: Vừa rồi có ai đến nhà mình hay không?Muội muội đáp:– Có, là một bà lão xin ăn…Và cô kể cho thầy nghe tình huống lúc đó.
Thầy Minh Đăng liền giậm chân than:– Cha chúng ta làm lỡ mất dịp tiếp đón Bồ tát Quan Thế Âm rồi! (Trong các cổ sử Phật giáo thường kể, chư Bồ tát hay hóa hiện qua thân phận ăn mày để độ sinh, vì vậy việc này không có gì lạ).Sau khi chủ và khách đều yên vị rồi, Minh Đăng mới kể cho Mã huynh nghe, nguyên là mấy ngày trước, thầy mộng thấy Bồ tát Quan Âm nói rằng: Hiện có hai vị cư sĩ đang cần bế quan và bảo thầy hãy nên tìm đến hộ thất giúp đỡ, tận sức chăm sóc họ.
Ngài còn mách rõ tính danh và địa chỉ hai người này.
Một người ở Tế Nam là nữ, còn một người chính là Mã huynh!Sau đó hai bên cùng bàn luận Phật pháp rất tương đắc, hoan hỉ.
Kế đến thầy Minh Đăng gọi điện thoại dặn dò cho vị sư huynh ở Tế Nam lo liệu các việc cần, rồi dẫn Mã huynh theo thầy đến khu Thiền thất đặc biệt dành riêng cho người bế quan chuyên tu.Mã huynh nhập thất đến ngày thứ hai, trong định thấy đích thân tôn giả Mật tông (Stongkhapa) hiện ra, bảo:– Ngôi thất này là đất thành Phật, nhất định ông phải tu cho tốt.Mã huynh cảm thấy được khích lệ rất lớn, liền phát nguyện: Con nhất quyết tu cho đến khi đạt chánh định vô thượng.Nhập thất đến ngày 21, các chủng tử xa xưa và túc nghiệp hiện hành, đủ loại cảnh “tiền trần hậu thế” tranh nhau kéo đến, khiến phiền não bùng khởi, xâu xé, làm Mã huynh suýt phát cuồng, khó thể nhẫn thọ, chỉ muốn đứng dậy xuất quan…Trong giây phút khốn khó, lúng túng nơi ải quan sinh tử, nằm giữa lằn ranh thành bại, thì đạl sư Stongkhapa một lần nữa lại xuất hiện, Ngài giảng pháp “tâm yếu đại thừa” cho, Mã huynh nghe xong thì cuồng niệm tan dần, đột nhiên trong khoảnh khắc, cảm giác thân như có vật gì rụng rơi và hoát nhiên nhập định…Đến lúc xuất định, như có sở ngộ, Mã huynh liền nói kệ:Ngàn dặm tới đây để bế quanChỉ vì chưa thấy được trời xanhBất ngờ đất bằng rền tiếng sấm!Từ đây mê ngộ hết liên quan!Đến ngày 41, tâm khinh an hỉ lạc, pháp hỉ sung mãn, xuất định rồi ông lại nói kệ:Đảnh lễ Tối Thượng Tôn!Thích Ca Đại Hiền NhânCon nay hết mê hoặcTừ đây rõ tự tâm!Đến ngày 46, thân tâm câu vong, nhập đại chánh định, lúc xuất định, thì không còn khác biệt giữa xuất định và nhập định nữa, ông lại nói kệ:Thân chưa xuất gia, tâm xuất gia!Có tóc cũng như không tóc màTừ nay học theo Bồ tát hạnh…Áo vải thay cho áo cà sa!Tối đó công đức viên mãn, Mã huynh cười lớn ra thất.Kể từ đó ông bắt đầu hiện đại thần thông, quảng độ chúng sinh.Xin kể sơ qua hai chuyện:Năm 2009 huyện Cao Thanh có một phụ nữ được chồng lái xe chở tới chỗ Mã huynh.
Cô này làm “thần bà” (là bà đồng) điển hình, quanh năm xem bệnh, chữa trị cho người.
Trước đây cô bị hồ ly dựa xác, rất linh, nên kiếm được bộn tiền.
Tùy theo tham tâm ngày càng thịnh mà âm khí trên mình cô ngày càng lớn, kết quả đã chiêu vời thêm hai con rắn đến dựa xác nữa.Hai bên (hồ ly và rắn) gá dựa thì tránh sao cho khỏi cảnh tranh quyền? Chúng đấu nhau một hồi, do hồ ly đạo hạnh cao hơn nên đã thắng.
Nhưng hồ ly không gá dựa trên mình cô hoài, vì nhiều lúc nó phải quay về chỗ của nó.
Do vậy hai con rắn không cam tâm, chỉ đợi hồ ly vừa rời đi, thì liền gá vào thân cô này báo thù…Cô này bị giày vò lăn lộn khó chịu, đau tới chết đi sống lại.
Khi đó cô đi bệnh viện khám nhưng bác sĩ đâu thể trị loại bệnh này, vì vậy cô khám nhiều lần, tốn tiền lắm, mà chẳng có kết quả…Chứng kiến vợ bị bệnh hành nguy hiểm, chồng cô đi khắp nơi tìm người cứu, đã đến rất nhiều chỗ, nhưng không ai trị nổi, cuối cùng đành tìm đến Mã huynh.Khi xe dừng trước cổng, phụ nữ nọ sống chết gì cũng không chịu xuống xe.
Té ra hai con yêu gá trên mình cô do quá sợ Mã huynh nên phản ứng như vậy.
Mã huynh nhìn thấy chúng rất rõ, nên ông lập tức trì chú Chuẩn Đề, thỉnh thiên tướng đến thu phục hai con rắn thì cô này mới chịu vào nhà.
Lúc đó mặt mày cô tái nhợt, lộ vẻ mệt nhọc, vừa vào thì nằm dài trên đất…Mã huynh hỏi tà dựa xác:– Vì sao hại người?Con rắn dựa xác lên tiếng (qua miệng của cô), nó giải thích là chỉ định dựa vào cô xem bệnh cho người, nhưng do đấu không lại con hồ ly trên mình cô, nên thừa lúc hồ ly đi vắng, nhập vào báo thù, còn khai là bọn chúng đã hút phân nửa khí huyết trên người cô rồi, chỉ còn lần nữa thì hút sạch…Mã huynh biết rắn nói thực, vì ông quan sát thấy, nếu cứ theo đà này, bà đồng kia không sống được 20 ngày nữa.
Hai con rắn này gồm một lớn một nhỏ: Con lớn thuần trắng, còn con nhỏ màu trắng nhưng cuối thân có một lằn đen, chúng sống lâu cũng đã bảy tám trăm năm.
Do có túc thế nhân duyên với bà đồng này, lại thêm tham tâm trong lòng bà quá cao, nên mới chiêu cảm chúng tìm đến.Trong tình cảnh này, chỉ có hòa giải đôi bên mà thôi, Mã huynh hỏi con rắn:– Dựa trên thân người này, các ngươi được lợi gì?Chúng đáp:– Một là được vang danh, tiếng tăm đồn xa, còn có được nhiều đồng loại tìm tới quy phục, tăng thêm nhiều quyến thuộc, thế lực càng lớn.
Hai là, có nhiều lợi dưỡng cúng dường, hễ người bị dựa kiếm được nhiều tiền thì phải cung phụng bọn chúng, nhờ vậy mà hưởng dụng càng phong nhiêu.
Thực ra thế giới loài rắn cũng giống như nhân gian, đều có tâm tham cầu vinh danh, lợi dưỡng, nhưng ở rắn tâm tật đố