Bất kỳ chuyện gì cũng có nhân quả, thỉ như khi ta khởi niệm yêu thương, xét ra giữa phu thê và huynh đệ, đều không giống nhau.
Chẳng hạn như người vừa mới gặp, trong tiền kiếp họ vốn là phu thê hay người yêu từng đã có tình sâu, đời trước từng hẹn thề phát nguyện: cầu được mãi mãi bên nhau… thì đời này có thể sẽ cùng tiếp nối tiền duyên.
Còn nếu đời trước hai bên chỉ là huynh đệ tỷ muội, khi gặp lại cũng có cảm giác vừa nhìn đã thương, nhưng vì không có duyên phu thê nên sẽ không đi đến hôn nhân.Bài văn này do A Minh tự thuật kinh nghiệm “nhất kiến chung tình” đã xảy ra với một phụ nữ Tạng, nguyên văn như sau:Lần đầu khi tôi đến chùa của Thượng sư (ở Tây Tạng), do hằng ngày bận học, nên tôi tiếp xúc toàn tu sĩ Tạng, không có liên hệ với người dân.Ba năm sau, tôi buông bỏ công tác chuyên môn nơi đất Hán, tìm đến tự viện Tạng, xin y chỉ Thượng sư là bậc tu trì đại viên mãn.
Hai vị Thượng sư đều rất vui, mặc dù tôi không phải là người xuất gia, nhưng các Ngài vẫn ưu tiên cho phép tôi vào ở trong Bế quan viện (nơi cư ngụ của các Tăng sĩ Tạng) ở cùng ích Tây, sau do tôi muốn học Tạng ngữ, nên các ngài đồng ý cho tôi được ra khỏi Bế quan viện mà không cần xin phép.Mới đầu tôi định tìm một thầy giáo ở ngoài, do trong Viện phiên dịch quá bận, sau đó tôi được học với vị Kham bố của tự viện (là Tăng quan ở Tây Tạng), nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe kém nên ông đến đất Hán trị bệnh và đă giới thiệu một Tăng sĩ Tạng khác kèm cho tôi.Vị Tăng sĩ này tên Tam Đan, là cháu trai ngài Phật sống Kiệt Tôn, cha thầy là anh ruột ngài Phật sống.
Nhà thầy có sáu trai hai gái, trong sáu trai đã xuất gia hết năm người, nhưng trừ thầy ra thảy đều hoàn tục, còn hai cô gái thì một vị đã đi lấy chồng, còn một cô là em út hiện đang sống chung với ba mẹ.Tôi và Tam Đan, một học Hán ngữ, một học Tạng ngữ, cùng giúp nhau trau giồi, do chúng tôi rất chăm chỉ chịu khó nên đều tiến bộ rất nhanh.Do ở Bế quan viện ẩm thực rất tệ nên Tam Đan thường làm thức ngon cho tôi dùng.
Chẳng bao lâu thì mùa đông đến.
Một tối nọ tôi thấy Tam Đan và cháu ngoại đang thu xếp hành lý, tôi liền hỏi thăm, thầy đáp:Theo lịch Tạng thì năm mới sắp đến, nhà chúng tôi ngày mai thỉnh chư tăng đến tụng kinh mấy ngày cầu tiêu trừ chướng ngại, chúc năm mới cát tường như ý…Thầy còn ân cần mời tôi nhất định phải tới nhà thầy, vì ngày mai có tiệc rát ngon.Hôm sau, tôi vẫn chưa đến nhà thầy, có hai điều khiến tôi ngại: Một là sợ Tam Đan bận rộn, tôi không muốn làm phiền.
Hai là lòng tôi có chút xấu hổ, tới nhà thầy thế này khác nào mình tới kiếm ăn? Vả lại, tôi có thói quen ít khi tụ tập chung vui với người lạ.Hôm sau nữa tôi cũng không đi.
Khi mặt trời sắp lặn, cháu ngoại Tam Đan tìm tới, tha thiết mời tôi đến nhà họ dùng cơm, tôi không đi thì cháu cứ kéo lôi mãi, vì vậy tôi đành đi đến chỗ họ.Vừa bước vào cửa, tôi thấy Tam Đan cùng các Tăng sĩ khác đang cùng nhau ăn uống chuyện trò.
Vừa thấy tôi sư liền mời tôi ngồi cạnh.
Tôi từ chối mãi không được bèn ngồi xuống nền đất cạnh thầy (theo phong tục đương địa thì người tại gia không được ngồi ngang hàng với người xuất gia).Cháu ngoại Tam Đan vội mang đến cho tôi một bát ê hề thức ăn, lúc này Tam Đan giới thiệu tôi cùng với mọi người, rất nhiều tu sĩ khen tôi có lòng thành đến Tạng cầu pháp, công đức rất lớn (mặc dù khi họ nói tôi nghe không hiểu, nhưng vẫn có thề đoán sơ đại ý) tôi nghe họ khen chỉ biết lễ phép cúi đầu, mặt và tai nóng bừng vì xấu hổ.Mấy tiếng đồng hồ sau, các tu sĩ dần dần rời đi.
Tam Đan bèn dẫn hết người thân: Bao gồm cha mẹ, chị, em… đang làm việc trong bếp… ra giới thiệu với tôi.
Lúc tôi vừa nhìn thấy em gái út Tam Đan, thì bỗng có cảm giác kỳ lạ như có luồng điện chạy qua, điều này bao năm rồi chưa từng có, lúc đó tôi hơi mất tự chủ, khiến tách trà đang cầm trên tay rơi xuống… đồng thời tôi phát hiện: Mắt cô út kia cũng lộ vẻ kinh ngạc và rực sáng, hình như cô cũng có cảm giác giống hệt như tôi.Sau