Năm 2002 đi Trung Nguyên, tôi đã may mắn gặp một ni cô dùng máu chép mấy bộ kinh.
Đây là hành động hi hữu, trong sử Phật giáo Trung Quốc không có nhiều.Ni Diệu Dung năm nay 28 tuổi (xuất gia đã ba năm), trước khi xuất gia cô đã dùng máu chép kinh.
Hiện đang chép bộ kinh “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm’’ cả thảy có 36 vạn từ, đã hoàn thành 6 vạn từ.
Kế đến sẽ chép kinh Pháp Hoa.
Một Phật tử là Bác sĩ viện trưởng Y Khoa, thấy vậy nói:– Phải dùng máu toàn thân mới chép xong mấy bộ kinh này, như thế thì máu cô cũng đổi mới hết…Cô sinh trong gia đình đầm ấm, dung mạo mỹ miều, mẹ tính hiền thiện.
Cô tốt nghiệp Đại Học Y nổi tiếng, là bác sĩ Quân Y cấp bậc Trung úy.
Sau khi tốt nghiệp hành nghề được hưởng chế độ rất ưu đãi, lương bổng cực cao nhưng những điều này chẳng ngăn được chí xuất gia của cô.Dưới sự hướng dẫn kiên nghị của người mẹ phi phàm, cô đến núi Thanh Nguyên tỉnh Giang Tây, được Hòa thượng Thể Quang đạo cao đức trọng xuống tóc cho.Chùa Vân Môn là đạo tràng cô thường ở tu hành.
Cô bắt đầu công tác gánh phân, bước vào con đường khổ hạnh.
Vị nữ nhân tài Phật giáo có nhiều hạnh nguyện hi hữu này xuất hiện vào thế kỷ 21 trong thời đại hôm nay, nhiều người nghe danh, rất khâm phục tán thán.
Tôi và mấy vị tín đồ Giang Tây cùng các đệ tử quy y Hòa thượng Thể Quang, có dịp ngụ nơi đây hơn mười ngày, đích thân chứng kiến cảnh ni Diệu Dung tu hành, khiến những người từng học Phật mười mấy năm, tuổi gần 60 như chúng tôi phải thầm xấu hổ vì thấy mình còn kém xa.Có lần dùng cơm xong, mọi người đứng dậy chuẩn bị bỏ đi, ni Diệu Dung phát hiện chén của cư sĩ nọ ăn bỏ mứa thừa rất nhiều, ni lập tức bưng chén lên nói.– Đạo hữu ăn không hết để tôi ăn giùm, ông chẳng nên bỏ đồ dư lãng phí như thế.Nói xong liền ăn hết.
Cư sĩ Diệu Lợi cảm động bảo:– Sư Diệu Dung thật hết biết! Vì quý tiếc từng hạt thức ăn, chịu khó ăn đồ thừa của người, chúng tôi phải học tập gương cô đó!Sư Diệu Kiến ngồi chung bàn nói:– Chuyện này mà nhằm gì, đồ người khác nhổ bỏ vì chê ăn không ngon, cô thấy được là lượm ăn sạch hết.Tôi bảo: – Cô giống hạnh ngài Tuyên Hóa ở Mỹ rồi! (Phải biết cô là bác sĩ rất chú trọng vệ sinh nhưng làm thế để cảnh tỉnh người, vì không muốn phí phạm)Sư Diệu Dung mỉm cười nói:– Thức ăn chúng ta dùng đây quả thực ngon tốt hơn nhiều so với thức ăn của các tu sĩ ở Tây Tạng.
Có qua Tây Tạng hành đạo rồi, thì thức ăn nào cũng nuốt được hết, có nếm khổ gì thì cũng không thấy khổ nữa.Cô kể lúc mình mới xuất gia làm Sa-di, nhận công tác phải gánh phân, do thường ra vào nhà xí và đồng ruộng, dù có mang hài cũng khó tránh giẫm đạp trên phân, nên lúc lên điện, để tỏ lòng cung kính, cô cởi hài bỏ bên ngoài chỉ mang vớ vào điện, nhưng vì hằng ngày thời gian lên điện tương đối dài, lâu dần, chân bị nhiễm lạnh, hai chân và đầu gối bị thủng nặng, đau đến đi đứng khó khăn.Sư nói:– Đây là nghiệp chướng bản thân hiện tiền, nhưng mỗi ngày tôi vẫn phải cắn răng chịu đựng để công tác.Sau đó, bịnh ngày càng nghiêm trọng, trong núi thiếu thuốc men thích hợp nên cô phải về nhà mẹ.
Bác sĩ chẩn khám nói cô bị phong thấp nan y, dần dần bệnh từ phong thấp sẽ chuyển đến tim, gây nên chứng bại liệt.Cô nghe xong không sợ hay hoảng kinh chi, chỉ là trong lòng bất an, vì thấy mình tuổi còn trẻ, chưa làm được chuyện gì giúp cho chúng sinh, mà vướng phải bại liệt thì càng lụy người phải lo, như thế thiệt là… “sống khống bằng chết!”Sau đó, cô khấn nguyện trước Bồ-tát.– Đệ tử chẳng cầu huyễn thân trường tồn, tật bệnh hồi phục, chỉ xin kéo dài hơi thở của mạng sống tội lỗi này, dùng máu huyết chép kinh, hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong pháp giới đồng thành Phật đạo.
Chép kinh xong, đệ tử có chết cũng không tiếc.Cô nói:-Tôi dùng kim châm vào mười ngón tay lấy máu, không đủ dùng nên phải lấy ống chích rút máu từ cánh tay, mẹ tôi chẳng nỡ nhìn, cũng không chịu giúp tôi lấy máu, lảng tránh ra ngoài làm việc.
Nhưng lúc tôi chép kinh, mẹ tôi vô cùng kinh ngạc khi phát hiện toàn thân tôi đang phóng kim quang (mà bản thân tồi không hề hay biết và hoàn toàn không nhìn thấy).
Đây có thể là nhờ Phật lực gia hộ, khiến mẹ tôi có chút cảm ngộ.Lúc tôi chép xong bốn quyển kinh máu, thì hai chân hết phù thủng, khôi phục bình thường.
Thật là Phật Bồ-tát xót thương gia hộ, khiến tôi có được mạng sống mới, tôi cảm kích đến rơi lệ, không sao báo đáp cho cùng.Tôi chỉ biết âm thầm phát thệ: “Nguyện đem thân này cúng dường Phật Bồ-tát, hằng giữ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh cúng dường Phật Bồ-tát.
Nguyện từ đây đến tận vị lai, đời đời kiếp kiếp vì chúng sinh mà sống, vì chúng sinh mà chết”.Hôm sau, đi y viện kiểm tra, bác sĩ rất kinh ngạc, ông tuyên bố tôi hoàn toàn hồi phục.Ni Diệu Dung nói: – Khi mẹ thấy tôi hết bệnh bà rất mừng, đồng thời thái độ quan tâm lo lắng cũng thay đổi.Bà nghiêm nghị bảo:– Sư Diệu Dung, bệnh cô đã lành, hãy mau thu xếp về chùa.
Cô là người xuất gia, ở mãi nơi nhà tôi không tiện.Đương nhiên khi nghe những lời lạnh nhạt chẳng có chút tình người như vậy tôi thật khó tiếp thu, phải gắng kìm chế để nước mắt không trào ra, tôi giận dỗi nói:– Con đi liền đây!Thế là tôi gom góp hành lý đơn giản, bước ra kêu xe.
Khi xe sắp chạy, tôi ló đầu ra cửa xe thưa với mẹ:– Quách cư sĩ, tôi để chìa khóa nhà ở trên bàn đấy!Xe chạy rồi, từ sinh ra đến giờ tôi mới nhìn thấy hai hàng lệ nóng từ khóe mắt mẹ tuôn trào…Tới ga, lên hỏa xa ngồi.
Trong lúc xe lao vun vút, tâm tôi dần bình tĩnh lại, Hai mắt tôi càng lúc càng mờ vì lệ nhạt nhòa…“Ôi mẹ ơi! Con gái đã hiểu lòng mẹ rồi! Mẹ sợ con luyến thế quên về, sẽ tu hành bê trễ.
Chính mẹ hướng dẫn con đi trên con đường học Phật, là mẹ bảo vệ hạnh xuất gia cho con.
Mẹ chứng kiến con xuống tóc làm ni mà chưa từng rơi giọt lệ nào, chỉ vì muốn con kiên định tâm đạo.
Mẹ yên tâm nha mẹ.
Như mũi tên một khi đã bắn ra không bao giờ quay về, con đã bước vào đường tu thì sẽ không quay trở lại, con sẽ tẩy tâm đổi mặt, mãi mãi hoằng pháp lợi sinh cho đến ngày tạ thế”…Hiện nay do nhiều chúng cư sĩ thỉnh cầu, ni Diệu Dung đã chọn một địa điểm thích hợp, chuẩn bị xây một ngôi kiến trúc tại Trung Nguyên, dự định sẽ thu nhận chư cư sĩ cao tuổi nghỉ hưu, cho họ trú ngụ, hướng dẫn họ niệm Phật nghe kinh, pháp, tu hành.Đây là đạo tràng dành cho tập thể cư trú, lo hết tất cả từ ăn, ở, thuốc men, cho đến vãng sinh.
Các bác sĩ, hộ lý cùng những phục vụ viên… hoàn toàn là tình nguyện phụng hiến.Chư cư sĩ đến ở chỉ cần đóng phí thức ăn (do gia đình quyến thuộc cung cấp) phần còn lại đạo tràng bao thầu hoàn toàn phi lợi nhuận) do nhân viên bác sĩ hộ lý không cần đền đáp nên phí y liệu cũng rất thấp.
Đương nhiên đây chỉ là ý tưởng sơ bộ của ni Diệu Dung, vẫn cần tập thể đồng tu trợ lực góp tâm góp sức hoàn thành tốt việc này.Ni Diệu Dung đã mời hòa thượng Diệu Pháp và tôi đến thường trụ ở đây, hỗ trợ cộng đồng đại chúng tu hành.
Nếu như có thể kiến thiết nhanh đúng như dự tính thì sư phụ và tôi cùng các huynh đệ rất sẵn lòng giúp ni Diệu Dung, cùng mọi người tụ hội ở đây, dụng công tu tập thành đạo bồ đề.Bài văn dưới đây tôi viết theo danh xưng ngôi thứ nhất, để mọi người tiện đọc, (thể văn giống như tự thuật) nhằm giới thiệu chuyện thực về sư Diệu Dung từ sinh ra đến xuất gia, giúp mọi người hiểu rõ hơn về vị ni ưu tú trong Phật giáo và có thể rút ra từ trong đây chút cảm ngộ.Tác giả Quả khanh xin giải thích riêng:Sư Diệu Dung là câu chuyện có thật hoàn toàn.
Sau khi tôi biết rõ những gì sư trải qua rồi; rất cảm kích nên quyết định viết ra để khuyến khích bạn đạo tu hành.
Do chưa được sư cho phép nên tôi quyết định “hóa danh” (nghĩa là tên và địa danh đều đổi, không ghi thật), tôi nghĩ làm vậy sẽ không gây ảnh hưởng hay quấy rầy gì đến việc thanh tu của sư.Mục đích của tôi không phải để ca tụng công đức sư, bởi vì khả năng của sư sẽ còn tiến xa hơn rất nhiều.
Tôi viết câu chuyện này, vì muốn chia sẻ cùng bạn đọc “nét đẹp của người tu”, tôi muốn chấn chỉnh lại những quan niệm sai lầm, hiểu trật về người xuất gia.Không những tôi hi vọng ni “Diệu Dung” có thể đại diện cho hình ảnh các tu sĩ nữ giới, mà còn hi vọng ngày càng có nhiều phần tử trí thức gia nhập vào sự nghiệp hoằng pháp Phật giáo, cùng góp sức giúp cải thiện phong khí xã hội, dùng đức trị nước, dùng lực tu để báo ân.Bởi vì trong nước ta hiện còn rất nhiều người hiểu sai về giới xuất gia (bao gồm cả tôi mười năm về trước) luôn ngộ nhận, cho rằng những người xuất gia là hạng trốn đời, trốn việc, trốn bổn phận, ưa sống biếng lười cầu an, toàn những kẻ thất tình thất chí, tâm bị tổn thương, vì mê tín hay do tướng mạo xấu xí khó kết hôn, hoặc do gia cảnh quá bần hàn nên phải đi xuất gia để kiếm cái ăn, cái mặc v.v…Những hạng người này không dính dáng gì tới sư Diệu Dung.
Trong Phật môn có lẽ cũng có những hạng người này, nhưng tôi chưa gặp! Còn những vị có chí xuất trần cao tột, nguyện đem thân tâm phụng hiến hoằng pháp lợi sinh như sư Diệu Dung thì có rất nhiều và tôi thường gặp luôn, các phần tử trí thức cũng không thiếu.
Tôi thường gặp họ tại các chùa Thiên Đài Sơn, Phổ Đà sơn v.v… Các tu sĩ này mỗi mỗi đều có những câu chuyện khiến người nghe phải cảm phục.
Chỉ tiếc là sách tôi đang viết thuộc dạng “Báo ứng Hiện Đời” nên không thể giới thiệu nhiều về các vị ấy Cho nên, mong độc giả khi xem hãy hiểu và thông cảm cho tâm ý của người viết.Mẹ của sư Diệu Dung rất giỏi thi thơ hội họa, là bậc nữ lưu kiên cường, đã dũng cảm khuyến khích con gái xuất gia.
Hòa thượng Thể Quang (là cao đồ ngài Hư Vân) từng tán thán bà là thánh mẫu.
(Tôi cho rằng lời này tuyệt không phải nói đùa, mà giống như ấn chứng).Xin nói rõ bài văn này là hành vi riêng của cá nhân Quả Khanh, không liên can đến sư Diệu Dung.
Nếu có điều gì khiến quý vị phải trách, thì đó là lỗi của tôi, và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sau đây là bài viết:NGUYÊN NHÂN SƯ DIỆU DUNG XUẤT GIATôi chào đời trong một gia đình công nhân phổ thông, gia cảnh cha mẹ đôi bên tương đối khác biệt, mẹ tôi là một người rất tin thờ thuyết “trên đầu ba thước có thần linh”, cực kỳ tôn trọng đạo đức gia đình theo truyền thống đông phương và trưởng thành từ trong đó, điều này có thế nói là do ảnh hưởng tổ tiên bên ngoại của mẹ tôi.Bởi dòng họ Lý có hai vị tiên hiền (nhưng tôi không rõ đời nào) là thầy của nhà vua triều Thanh, được hoàng đế ân phong là “Võ Trạng Nguyên”.
Dựa theo bối cảnh lịch sử trên, gia tộc chúng tôi đã có một thời hiển hách huy hoàng và cực thịnh.Bà ngoại kể, tổ tiên bà, rất ưa làm phúc, gia phong liêm chính.
Những năm đói kém thường mở kho bố thí, nấu cháo cứu tế, chẩn bần giải tai.
Nhờ âm đức tổ tiên, cho dù đến bà cố gia đạo tuy có suy vi, nhưng vẫn giữ y nếp xưa, theo đúng lời ông cha hằng giáo huấn: “Phải luôn dùng đức báo oán, dùng thiện đãi nhân” đây là việc đáng mừng, đáng tự hào cho dòng tộc.Bà ngoại tôi sau khi kết hôn, gia phong vẫn duy trì chánh khí, nhất là đối với con gái, lo huấn luyện nữ công thêu thùa, gia chánh khéo léo, khi cười vẫn giữ oai nghi, đi đứng nghiêm trang, hiếu kính song thân, chu đáo với khách, phải nói là tất cả con cháu đều được giáo dục kỹ lưỡng.Bà ngoại sinh sáu con: gồm ba trai, ba gái, mẹ tôi là trưởng nữ, nhờ thọ hưởng nền giáo dục tốt, nên được lợi ích rất lớn.Mẹ tôi từ nhỏ tính tình ôn nhu hiền lương, thành tín, minh lễ, đối với người khoan hậu, thông minh khéo léo, bà cùng Phật môn đặc biệt có duyên.
Ngoại trừ thời chiến loạn bà chào đời trong chùa, sau khi bà ra đời không lâu, thì ông ngoại mua bức tranh Nhị Thập Tứ Hiếu và tượng Quan Âm (ngàn tay ngàn mắt) từ Thượng Hải đem về thờ.Ông bà ngoại và bà cố tôi đều kinh ngạc khi phát hiện mẹ tôi càng lớn càng giống hình đức Quán Thế Âm Bồ tát, có một dạo điều này thành là đầu đề bàn tán của mọi người trong lúc trà dư tửu hậu (thực là rất ngộ).Mẫu thân tôi tính tình dịu dàng ôn nhu, rất thích thi họa, tuy học chưa hết đệ ngũ nhưng bà rất có tài.Năm 1958, gia cảnh càng khó khăn, chị em tăng thành sáu người, do vậy mà mới mười bốn tuổi mẹ tôi bị bắt phải thôi học để đi làm, phụ sớt chia gánh nặng cuộc sống cùng cha, vì hiếu thuận bà ngoan ngoãn vâng lệnh, chẳng mảy may có lời than oán.
Tiếp theo đó bà nếm trải mười năm phong vũ luyện mài, phải làm nhiều việc khác nhau để sinh nhai, nhưng chẳng vì vậy mà bị thui chột tri thức đối với khát vọng về chân đế cuộc đời.Trong đoản văn “Tự ngộ”, bà viết:“Cuộc đời tôi giống như quyển sách dày, lật trang nào cũng đều có mưa cuồng bão dữ.
Muốn chọn một bến đỗ giữa phong ba, cũng phải ra sức phấn đấu trong cảnh nổi chìm.
Tuy đã nhìn thấy bờ rồi vẫn còn cách một khoảng xa, nên cần phải hướng lên, tiến tới mãi.
Cuộc đời tôi giống như thế, vẫn luôn phải cố gắng tiến bước không ngừng về miền đất Thánh, phải quỳ dài mà tiến lên”…Cả đời mẹ tôi thường nhẫn nhục gánh việc, đối với nhân sinh luôn có cái nhìn hướng thượng, thiên về nẻo sáng.Năm 1997 trải qua mấy mươi năm mài luyện chua cay, cuối cùng vận mệnh mẹ tôi cũng phát và nhìn thấy ánh mặt trời.
Đầu tháng sáu năm đó bà lên Nga My hoan hỉ nghe giảng kinh, lời dạy của Phật như trận mưa cam lộ tưới đẫm vào nộ tâm khô cằn của bà, mẹ như kẻ nghèo gặp châu báu, rơi lệ như mưa, tuy chưa quy y nhưng từ năm 1997 phát tâm ăn chay trường đến nay.Hiện tại bà là đệ tử Tam Bảo, quyết tâm ngay một đời này liễu thoát sinh tử (Xin cầu cho mười phương tất cả chư Phật, Bồ tát ba đời gia hộ mẹ tôi có thể vĩnh viễn thoát khỏi biển khổ sinh tử, viên mãn đại nguyện Bồ đề).Sau khi tham gia quân ngũ rồi, tôi mới bắt đầu học Phật.
Dưới sự dắt dìu của mẫu thân, tôi thấm nhuần pháp ích.
Học Phật không lâu thì gặp dịp bộ đội cắt giảm năm mươi vạn nhân sự, tôi vội xin từ chức, giã biệt bảy năm sống trong quân đội, chuyển về địa phương.Mặc dù điều kiện công tác đang được ưu đãi.
lãnh lương rất cao, nhưng tinh thần tôi lại cảm thấy cuộc sống khổ phiền và ngột ngạt, dần dần nhen nhúm ý muốn xuất gia.
(Có thể đây là nhân duyên đời trước của tôi, nhưng cũng có thể nói từng bước trưởng thành của tôi, đều không rời bàn tay nâng đỡ, giáo huấn dắt dìu chuẩn mực của mẫu thân).Mẹ tôi dạy:– Xuất gia không phải việc nhỏ, con phải suy nghĩ cho chín chắn rồi hãy quyết định.
Việc này giống như “mũi tên một khi đã bắn ra vĩnh viễn không bao giờ quay trở lại”.
Nếu có chết thì cũng phải chết trên con đường hoằng pháp!Cảm ơn Phật Bồ-tát đã an bài, không bao lâu tôi được Hòa thượng Thể Quang (vị cao đức đương kim Thiền tông thu nạp), thực cảm ân sư phụ đã từ bi, hai lần tiếp kiến đều đáp ứng thỉnh cầu xuất gia của tôi.Khoảng tháng 7 năm 1999, tôi từ bỏ công tác nhiều người thèm muốn, được mẫu thân hỗ trợ, tôi bố thí hết y phục vật dụng thế tục, sửa soạn hành trang giản đơn, lên xe lửa Nam Hạ.
Mẹ tôi cần khổ một đời, chỉ có duy nhất một con gái là tôi, song bà vẫn có thể cứng rắn đúng hẹn, hộ tống tôi đến Chùa Tịnh Cư, núi Vân Cư tỉnh Giang Tây.
Ngày 28 tháng 8 năm 1999 âm lịch, tôi chính thức thế phát xuất gia, được sư phụ ban cho pháp hiệu Diệu Dung, tự Thanh Minh.Từ sau khi phụ thân mất, hai mẹ con chúng tôi nương nhau mà sống, cùng bầu bạn hơn mười năm qua.
Lúc nghỉ phép, tôi rất thích nghe mẫu thân nhắc về thời thơ ấu của mình.
Mỗi khi bà kể, căn nhà nhỏ chúng tôi luôn rộn rã tiếng cười.Do tính tôi thuở bé quá khác biệt với đa số trẻ nít, khiến mẹ tôi nếm đủ mùi đau đầu.Mẹ kể người ta thường nói con nít mới sinh rất xấu xí, nhăn nhúm.
Nhưng tôi sinh ra ấn đường no đầy, rất sáng, sống mũi hiện rõ thẳng cao, mặt mày hồng hào, hai má lúm đồng tiền, bà mụ khi phụ đỡ đã không ngừng tóm tắc:– Ôi dào! Em bé xinh đẹp quá đi!Và “em bé xinh đẹp” này mấy ngày sau đã khiến mẹ dở khóc dở cười vì màn quấy nhiễu kinh khủng.Trước tiên, vừa chào đời thì tôi khóc “oa oa” và cứ thế “tấu” mãi không ngừng (suốt một trăm ngày đêm chẳng gián đoạn), tôi cứ đêm khóc ngày nghỉ.
Mẫu thân kể tôi có thể khóc một hơi bốn tiếng đồng hồ, thành tích vượt hơn “chỉ tiêu” này cũng có mấy lần, nhất là vào nửa đêm.
Khiến hai-ba dãy nhà của các chú, dì… tôi ngụ xung quanh, đều bị tiếng khóc của tôi hành hạ.Bây giờ ngẫm nghĩ, tôi không hiểu sao lúc đó ba mẹ tôi có thể chịu đựng được? Và cam cảnh “tra tấn” như thế suốt hơn ba tháng trời ròng rã bất kể ngày đêm.
Mẫu thân tôi bản tính vốn độ lượng, mỗi khi tôi khóc bà luôn khôi hài bảo:– “Nữ ca sĩ nhí” nhà ta bắt đầu khoe “âm thanh vượt không gian” rồi!Cũng có người mách nước, bảo gia đình nên viết mấy chữ vào tờ giấy vàng như: “Thiên hoàng, địa hoàng, nhà tôi có con bé khóc hăng, quân tử đi ngang đọc mấy biến, hễ thức liền ngủ đến sáng, ngoan”…Nhưng mẫu thân cảm thấy chịu đựng được nên chẳng viết, dán chi… Lúc đó hình như tôi được thể, cứ khóc mãi không thôi.Ngay cả ban đêm, bất kể bạn thích hay không, “nữ ca sĩ nhí” tồi cứ ngân mãi âm giai, “hét cao, xướng to” cực độ, đủ trăm ngày mới đình chỉ.
Ba mẹ và láng giềng cuối cùng cũng được hưởng phút giây bình yên.
Tuy tôi khóc lâu như thế, song chẳng ai nghiên cứu.
tìm hiểu hay đem đến bác sĩ khám chi cả.Bây giờ thì tôi suy đoán: “Có thể do thấy thế gian này khổ quá nên tôi mới khóc dữ vậy đó”.
Mẹ kể khi tôi tạm lớn chút, trông rất mũm mặt bầu bĩnh, đôi mắt to tròn môi đỏ ong.
Ai cũng cưng yêu và bảo rất thích đôi mắt sáng to trong veo của tôi, mỗi lần gặp đều không nhịn được, luôn muốn dừng lại trêu tôi đôi chút, nhưng tôi khăng khăng không cho bất kỳ ai chọc phá, ngay cả phụ mẫu còn không thể, huống nữa là người ngoài.Đa số con nít ưa tụ họp chơi đùa nhưng tôi hễ bị trêu là không ưa và phản đối bằng cách khóc lên.
Tôi không hay chơi đùa với các trẻ khác, cũng không ưa ồn, đông.
Khi chụp hình kỷ niệm toàn gia, cả gia đình ai cũng chọc cho tôi cười nhưng không sao khiến tôi cười được.
Các dì tôi thường đùa, gọi tôi là “Tiểu nhi thâm độc”.Hôm nay tôi đã là người cửa Phật có thể tạm giải thích nguyên nhân tính khí của minh theo bài kệ cảnh tỉnh: “Mỗi ngày trôi qua mênh cũng giảm dần, như cá thiếu nước, nào có gì vui?” Có lẽ tư duy này tiềm ẩn trong tàng thức nên mới khiến tôi buồn khóc vì thêm một lần nữa bị bất hạnh luân hồi lưu chuyển hình như giải thích thế này có vẻ hợp hơn.Lúc được 14 tháng, tôi vào nhà trẻ, mẹ tôi mấy lần lén quan sát, thấy tôi thường im lặng ngồi một mình, cứ trơ như gỗ nhìn đám đông các bạn nhỏ (giống như tôi mới đến thế gian này chưa lâu), đám con nít với đủ trạng thái cười có, khóc có, bò có, quỳ có v.v..
Những hiện tượng hỗn tạp này, hình như khiến tôi vô phương tiếp nhận, nên đôi mày thường nhíu lại hiện vẻ căng thẳng.
Có lúc gặp bạn nhỏ chủ động tới chơi, muốn an ủi con bé cô độc như tôi, thì tôi luồn tỏ ý ưa ngồi một mình chừng như khó hòa nhập cùng đám đông.
Do vậy mà các dì tôi nói, hiện tại là “tiểu nhi thâm độc”, lớn lên là “đại nha đầu thâm độc!”.Nhưng tôi cũng thích giúp đỡ bạn.
Bạn làm rớt bánh thì tôi cúi xuống lượm đưa cho thế mà nó tưởng tôi giành ăn nên cắn tôi.
Đúng là hiểu quá sai, đồ cái thứ… lấy ác đáp thiện! Tôi oan khuất bật khóc.
Sau đó chẳng ưa chơi hợp quần nữa.Mẫu thân nói tôi từ nhỏ đã ngủ rất ít, cực ít.
Chưa từng nghỉ trưa.
Mẫu thân làm việc khoảng 6 giờ thức dậy thì tôi cũng thức theo trưa cũng chẳng ngủ.
Vào nhà trẻ buổi trưa cho ngủ ba tiếng, tôi cứ lăn qua lộn lại trên giường không ngủ, cô giáo cũng bó tay.Khoảng 3 tuổi, trí lực tôi tạm khai mở, bầu bạn cùng các câu chuyện đồng thoại thật hay do mẹ kể mà lớn lên (Nhân vật trong chuyện luôn xả thân vì người, phẩm cách chân thành, thiện lương tươi mát, cứ thế thấm sâu vào tâm linh thơ dại của tôi).Sức nhớ và lực tưởng tượng, tư duy của tôi tương đối cao.
Tôi học tập rất dễ, không hề tốn sức.
Tôi có một tật khiến mẹ rất phiền, là hồi nhỏ mỗi khi mẹ