Lời giới thiệuBa tập Báo ứng hiện đời rất được độc giả ưa thích, tái bản liên tục.
Nhiều, bạn khuyên tôi viết tiếp.
Nhưng tôi nghĩ, có viết nhiều cho lắm thì vẫn là chuyện nhân quả, mà các độc giả thông minh sáng trí, chỉ cần xem một-hai cuốn là có thể hiểu rõ Phật lý và biết cách hành trì thế nào để tạo hạnh phúc cho mình và người… Còn đối với người không có thiện căn, thì dù có đọc nhiều đến mấy họ cũng không hành theo, hoặc chỉ lo sùng mộ thần thông, ham biết tiền kiếp hậu kiếp, còn điểm chÍnh là ăn chay, hành thiện dứt ác, tịnh hóa thân khẩu ý… thì họ không lưu tâm.
Chưa kể đến những vị đọc mà khó chấp nhận, hoặc chẳng tin và không thèm tiếp thu…Hiện nay những người mê thần thông, ưa hướng ngoại tìm cầu… có rất nhiều, đa số còn chạy khắp nơi tìm Hòa thượng Diệu Pháp và tôi.
Thậm chỉ ở Giang Tô, Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Ngũ Đài Sơn v.
v… đều có người giả mạo, xưng là Hòa thượng Diệu Pháp (Vì vậy quý độc giả chẳng nên đi tìm gặp ngài! )Nếu như đọc sách mà không biết hồi quang phản chiếu, phát tâm sám hối, y giáo phụng hành, thì cho dù quý vị có gặp Bồ-tát Quán Âm hay Bồ-tát Di Lặc… thì cũng chẳng ích chi, vì chằng biết sửa sai, không chịu hồi đầu hướng thiện…Nhằm hạn chế bớt tình trạng (người gạt lường, mạo danh) như đã nêu, tôi cho mời nữ cư sĩ Quả Hồng, bảo cô đem các câu chuyện tu hành, những điều thấy nghe hữu ích… biên tập thành sách, giúp người đọc thâm tín nhân quả, từ bỏ điều ác, vui hành thiện, đồng thời cũng muôn nhắc nhờ rằng: bản chất môi người von có sẵn thần thông trí huệ (giống như nữ cư sĩ Quả Hồng vậy), chẳng nên tìm cầu ở bên ngoài…Nếu mọi người chịu y theo pháp Phật, phát huy giới định huệ, chân chính tu hành… thì sẽ có đủ trí huệ độ người.
Những vị thầy “mắt sáng” này có khắp nơi, rất nhiều.
Chỉ cần bạn kiên định: lấy giới làm thầy, quyết tâm “đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, thiền tịnh song tu”, thì cuối cùng sẽ khai mở trí tuệ của mình, khi “thấy năm uẩn là không, liền vượt qua tất cả khổ ách ”…Quả Khanh hổ thẹn kính ghi20/7/2008Tự thuật của Quả HồngThời ấu thơ bé tí, tôi thường đứng trước gương suy nghĩ: “Người trong gương này là ai? Là tôi ư?”… nhưng, y từ sinh đến tử thay đổi theo biến hóa vô thường, vậy tôi thực sự ở đâu? Vấn đề này từng ám ảnh khiến tôi lao tâm khổ trí suy nghĩ nhiều năm, mãi tới khi tôi biết đến Phật giáo thì mới hiểu rõ minh bạch: “Tôi trong gương chỉ là một thể xác, một lớp vỏ ngoài (giống như căn nhà vậy) mà chủ nhà mới thực sự là tôi, xưa nay vốn đầy đủ Phật tính”.Bắt đầu từ đó, tận đáy lòng sâu thẳm, tôi khao khát tìm ra chân lý bất biến vĩnh hằng của vũ trụ nhân sinh trong Phật pháp.Năm tôi 18 tuổi, trong nước dấy lên phong trào tập luyện khí công cực thịnh, cho đây là cách “rèn thân luyện thể” lý tưởng.
Tôi cũng bắt đầu hùa theo học khí công, trong đây tôi thấy môn “Tỉnh công” hay và thích hợp nhất, vì có cho niệm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”.
Có lẽ đây cũng là nhân duyên kiếp trước, bời tôi vừa nghe đến danh hiệu này thì thân tâm khoan khoái, tinh thần phấn khởi.Thế là hằng ngày sớm tối tôi đều niệm danh hiệu Ngài, siêng năng luyện tập tĩnh tọa.
Lực gia trì của Bồ-tát Quan Thế Âm thật bất khả tư nghị, “ngàn xứ cầu ngàn xứ ứng”, Ngài đã mấy lần giúp tôi vượt qua cửa ải khó khăn trong đời sống, điều này càng khiến tôi tăng thêm niềm tin kiên định đối với việc trì danh Ngài.Từ đó bất kể tôi đi đâu làm gì, hễ vừa ra khỏi cửa là tôi luôn niệm Phật Quan Thế Âm (niệm thầm hoặc niệm ra tiếng), đồng thời cũng âm thầm hạ quyết tâm, nguyện học theo, noi theo tinh thần đại từ đại bi của Bồ-tát Quan Thế Âm (tinh tấn tu hành làm lợi chúng sinh).Người hướng dẫn tôi tập khí công và đặt chân vào con đường học Phật chân chính, đó là Ân sư cư sĩ Quả Khanh.Lần đầu tụng Kinh Kim Cang, khi đọc đến câu:Tất cả pháp hữu viNhư mộng huyễn bọt sóng,Như sương như điện chớp,Cần phải quán như thế…Thì trong tâm tôi chấn động không kềm được, trăm mối cảm xúc đan xen khiến tôi bật khóc to.
Tôi khóc vì nhiều năm nay mình trầm mê trong lục đạo luân hồi, quên mất diện mục bản lai, giống như đứa trẻ bị lạc đường không ai trợ giúp, bất kể gắng sức thế nào cũng tìm không ra lối về.
Bây giờ nhờ duyên lành mà được tiếp xúc với Phật pháp, khiến tâm trí tôi phát sáng, như vừa dẹp xong rừng cỏ mịt mù, tìm ra được hướng đi chân chính cho kiếp nhân sinh…Tôi tự nhủ mình phải nắm ngay thời cơ, quay bước về nhà, dốc sức tu hành để sớm đạt giác ngộ…Dưới sự hướng dẫn của ân sư Quả Khanh, tôi bắt đầu tụng “Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” trong Kinh Lăng Nghiêm, tụng chú Lăng Nghiêm và quỳ lễ Đại sư Tuyên Hóa.
Tuy ngài đã viên tịch, nhưng ngài từng tuyên bố: “Những ai dù chưa thấy mặt nhưng có khát vọng muốn làm đệ tử ngài, thì thành tâm lễ bái ngài một vạn lễ, liền có thể thành đệ tử ngài”.
Vì thế mà tôi chí thành lễ bái… tròn nguyện rồi, thì thành đệ tử ngài Tuyên Hóa.Ngài Tuyên Hóa là vị cao tăng mà tôi hết mực sùng kính – một vị thầy luôn xả thân vì người, đem thân làm gương, nghiêm trì giới luật – Sáu tôn chỉ tu hành ngài đặt ra: “không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không vọng ngữ”… đã trở thành quy luật tu hành chuẩn mực cho tôi, giúp tôi giám sát từng khởi tâm động niệm của chính mình.Kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật thuyết Bát Nhã Tam Muội, các kinh điển Đại thừa v.v… luôn nhắc nhở chúng ta phải đối với thầy như với Phật.
Trong quá trình đảnh lễ ngài Tuyên Hóa, tôi nhiều lần nằm mơ, thấy được Bồ-tát Quan Thế Âm gia trì, giống như những gì mô tả về Bồ- tát Quan Thế Âm trong Phẩm Phổ Môn, tôi cảm thấy nội tâm hết sức thanh tịnh, cho nên tôi một mực xem ngài Tuyên Hóa là hóa thân của Bồ-tát Quan Thế Âm.Đọc “Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” của ngài Tuyên Hóa giảng, giúp tôi hiểu rõ bốn điều tu căn bản là phải đoạn dâm, đoạn sát, đoạn trộm, đoạn dối… Bốn điều này tương quan với nhau rất chặt chẽ.
Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới trộm cắp và vọng ngữ (nói láo)… Muốn ra khỏi tam giới, thì phải tu trong từng khởi tâm động niệm, phải nghiêm trì giới luật…Tính trọng yếu của giới luật, trong kinh Phật ghi rất nhiều.
Hơn 2500 năm trước, trước khi Phật Thích Ca nhập niết bàn, ngài A-nan từng hỏi:– Lúc Phật tại thế mọi người nương Phật là thầy, vậy sau khi Ngài nhập niết bàn rồi, chúng con sẽ nương ai làm thầy?Phật dịu dàng đáp: -Ta nhập niết bàn rồi thì các con nương giới làm thầy!…Đủ thấy giới luật rất quan trọng.
Vì vậy chúng ta phải kiểm soát mình chặt chẽ, phải có đủ chánh tri chánh kiến, phá trừ mê chướng trùng trùng, hồi phục bản lai diện mục thanh tịnh, chứng đắc Phật quả vô thượng.Nhà Phật nói: “Muốn biết nhân đời trước, xem thọ báo đời này.
Muốn biết quả đời sau, xem nhân gieo hiện tại”.Hiện nay, thói đời ngày một suy, lòng người chẳng được như xưa, bây giờ là thời kỳ vật dục kim tiền, người ta vì danh vọng tư lợi, tạo lắm ác nghiệp chất chồng như: sát sinh, tà dâm, trộm cắp, nói dối gạt lường v.v… nên quả báo hiện đời cũng phát sinh theo.
Do con người sống sai trái bừa bãi, nên gặp đủ nạn tai như: đụng xe, rớt máy bay, động đất, sóng thần, cháy, lụt, gió bão v.v… khiến những ai chứng kiến phải kinh tâm, run rẩy…Trước những tai nạn khủng khiếp như thế, chúng ta cần suy nghĩ: “Là do ai hủy hoại cân bằng sinh thái, hủy hoại môi trường tự nhiên, vì sao vào thời khoa học kỹ nghệ ngày một phát triển như thế mà chúng ta lại bất lực trước sự trừng phạt của thiên nhiên?”…Chúng ta cần phải tỉnh táo, đây là cảnh cáo thiên nhiên dành cho chúng ta, nếu như nhân loại cứ mặc tình sống cuồng thì cuối cùng cũng là… tự vùi chôn mình.Làm thế nào để xây dựng gia viên hài hòa, giúp nhân loại sống hạnh phúc, làm sao để tránh thiên tai nhân họa, để chúng ta an cư lạc nghiệp? Những đáp án này đều có thể tìm được trong Phật pháp.Phật luôn nhắc chúng ta:”Nên đoạn ác tu thiện, không sát, trộm, dâm, vọng, đoạn trừ ý niệm tư lợi ích kỷ, sửa đổi hành vi tập khí thói quen tạo lỗi của mình”… như thế mới có thể hạnh phúc an lạc, giữa người với người tự nhiên sẽ sống chung hài hòa, toàn xã hội có thể phát triển tốt.Do những năm gần đây đạt được lợi ích trong quá trình học Phật, bản thân tôi và các cư sĩ bạn bè đều thâm cảm Phật pháp thật là mầu nhiệm bất khả tư nghị, nhân quả báo ứng không sai mảy may.
Vì vậy chúng tôi đem những điều thấy nghe đơn giản, biên lại thành tập, hi vọng thông qua đây mọi người thâm tín nhân quả, bỏ ác theo thiện.Sách này viết ra với mục đích hi vọng chư vị bạn đạo đọc xong sẽ kiên định niềm tin học Phật, hằng tự tỉnh kiểm soát bản thân, phụng hành theo Phật pháp.
Dùng sự “chân tu thật chứng của mình” để cải tạo vận mệnh, lìa khổ được vui, thành tựu Phật đạo, và không còn “cầu pháp ngoài tâm” , khỏi phải bôn ba đi khắp nơi truy tìm người hiểu nhân quả hay kẻ có thần thông chi nữa.Chúng ta cần nhớ kỷ, phải khắc cốt ghi tâm lờ dạy trong Kinh Kim cang “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, tất cả các Pháp của Phật đều vì trị bệnh của chúng sinh, vì những mê muội của chúng sinh mà thiết lập, vì vậy mới có câu “Pháp còn phải xả, huống chi là phi pháp”.Những tên người liên quan đến nhân vật, địa danh trong bài viết… chúng tôi đều dùng bí danh, hóa danh hoặc ẩn danh.
Ngoài ra do năng lực bản thân hạn hẹp, ngôn ngữ và văn tự trong sách ắt