Chẳng mấy chốc toàn bộ da cánh tay phải của Yamamoto đã bị lột ra thành một miếng mỏng duy nhất. Gã lột da đưa miếng da cho người đứng cạnh, gã này đỡ lấy bằng mấy đầu ngón tay, căng rộng chìa ra cho những người khác xem. Máu vẫn đang nhỏ giọt từ miếng da xuống. Đoạn viên sĩ quan quay qua tay trái của Yamamoto, lặp lại quy trình. Sau đó y lột da hai chân, cắt dương vật và tinh hoàn, rồi cắt tai. Kế đó hắn lột da đầu, mặt và mọi chỗ khác. Yamamoto bất tỉnh, hồi tỉnh, rồi lại bất tỉnh. Mỗi khi y ngất đi, tiếng gào thét ngưng, khi y tỉnh thì tiếng gào thét lại tiếp tục. Nhưng giọng y yếu dần, cuối cùng tắt hẳn. Suốt thời gian đó, viên sĩ quan Nga lấy gót giày vẽ vẽ những hình vô nghĩa trên cát. Đám lính Mông Cổ im lặng quan sát cảnh lột da. Mặt bọn họ vô cảm, không kinh tởm, không hào hứng, không khiếp hãi. Họ quan sát Yamamoto bị lột từng mảng da với vẻ mặt như khi ta đang tản bộ thì dừng lại ngắm một công trình xây dựng vậy.
Suốt thời gian đó tôi toàn nôn mửa. Nôn thốc nôn tháo. Ngay cả khi tưởng chừng không còn gì để nôn ra nũa, tôi vẫn cứ nôn mãi. Cuối cùng, viên sĩ quan Mông Cổ giống con gấu giơ lên cao tấm da thân của Yamamoto mà hắn vừa lột tuyệt khéo. Thậm chí hai núm vú còn y nguyên. Cho đến giờ tôi vẫn không nhìn thấy một cái gì ghê rợn đến vậy. Ai đó nhận miếng da từ tay hắn rồi trải ra cho khô như ta phơi ga trải giường. Còn lại trên mặt đất kia là cái xác của Yamamoto, một đống thịt máu me đỏ lòm, không còn một tí da nào. Khủng khiếp nhất là khuôn mặt. Từ trong vũng thịt đỏ thon thót thòi ra hai nhãn cầu to tướng trắng ớn. Miệng há hoác phô hết răng như đang thét lên. Ở chỗ vốn là cái mũi nay là hai cái lỗ nhỏ. Mặt đất chung quanh là cả một biển máu.
Viên sĩ quan Nga nhổ xuống đất rồi nhìn tôi. Rồi hắn rút cái khăn mùi soa ra khỏi túi mà lau mồm.
- Thằng này thật sự không biết gì phải không? - hắn vừa nói vừa đút mùi xoa vào túi. Giọng hắn bây giờ nghe khô khan hơn lúc nãy. - Nếu biết thì nó đã nói rồi. Cũng tội. Dù gì thì nó cũng là một tay chuyên nghiệp. Đằng nào nó cũng sẽ chết đau đớn thôi, không sớm thì muộn. Chả làm sao được. Mà nếu nó đã không biết gì thì làm sao mày lại biết cái gì.
Hắn ột điếu thuốc lên miệng rồi quẹt diêm.
- Nghĩa là chúng tao không cần mày nữa. Tra tấn mày để moi thông tin thì bằng thừa. Để cho sống làm tù binh cũng vô ích. Chúng tao muốn dứt điểm vụ này một cách tuyệt đối bí mật. Nếu đưa mày về Ulan Bator, chúng tao có thể sẽ gặp rắc rối. Dĩ nhiên, cách tốt nhất là ột viên đạn vào đầu mày ngay bây giờ, ngay tại đây, rồi chôn hoặc thiêu xác mày và ném tro xuống sông Khalkha. Giải quyết vậy là đơn giản nhất. Mày đồng ý không? - Chắc mày không hiểu tiếng Nga thật. Nói với mày chỉ tổ phí thời gian. Thôi được rồi. Coi như tao nói cho tao vậy. Nghe đây nhé. Tao có tin vui ày đây. Tao đã quyết định không giết mày. Coi như đấy là tao bày tỏ chút ân hận vì đã giết thằng bạn mày một cách vô ích. Sáng nay, chúng tao giết vừa rồi. Mỗi ngày một mạng là đủ. Cho nên tao sẽ không giết mày. Thay vào đó tao sẽ ày một cơ hội sống. Nếu gặp may có khi mày sẽ sống không chừng. Dĩ nhiên cơ hội không nhiều đâu. Phải nói là hầu như không có. Nhưng cơ hội vẫn là cơ hội. Ít nhất cũng còn tốt hơn nhiều so với bị lột da sống. Đồng ý chứ?
Hắn giơ tay lên gọi tay sĩ quan Mông Cổ. Gã này vừa hết sức cẩn thận rửa dao bằng nước trong biđông và liếc cho sắc bằng đá mài. Đám lính đã trải các tấm da của Yamamoto ra rồi đứng bên cạnh mà thảo luận gì đó. Hình như họ đang trao đổi ý kiến về những điểm tinh tế của kỹ thuật lột da. Gã sĩ quan Mông Cổ đút dao vào vỏ rồi cho vào túi áo khoác, sau đó mới lại gần chúng tôi. Hắn nhìn vào mặt tôi một thoáng rồi quay sang viên sĩ quan Nga. Người này nói với hắn mấy câu bằng tiếng Mông Cổ, hắn gật đầu, vẻ vô cảm. Một tên lính mang lại hai con ngựa cho họ.
- Chúng tao sẽ quay về Ulan Bator ngay bây gời, - viên sĩ quan Nga bảo tôi. - Tao ghét phải về tay không, nhưng đành chịu, làm thế nào được. Có lúc được thì cũng có lúc mất. Tao hy vọng tới bữa tối thì sẽ ăn ngon miệng, nhưng cũng chưa chắc.
Họ leo lên ngựa đi. Máy bay cất cánh, trở thành một tấm bạc trên bầu trời phía Tây rồi biến mất hẳn, để lại một mình tôi với đám lính Mông Cổ và bầy ngựa.
Đám lính đặt tôi lên một con ngựa, trói chặt tôi vào yên. Sau đó tất cả dàn thành đội hình đi về phía Bắc. Gã lính đi ngay phía trước tôi hát mãi một giai điệu đều đều bằng giọng khẽ gần như không ai nghe được. Ngoài ra, không còn âm thanh nào khác ngoài tiếng móng ngựa khô khốc gõ lên mặt cát. Tôi không biết họ dẫn tôi đi đâu hay sẽ làm gì tôi. Tôi chỉ biết mỗi một điều: với họ tôi là một sinh vật thừa, hoàn toàn vô giá trị. Những lời của viên sĩ quan Nga cứ vang vang trong đầu tôi. Hắn đã nói sẽ không giết tôi. Hắn sẽ không giết tôi, nhưng cơ hội cho tôi sống thì hầu như không có. Thế nghĩa là thế nào? Mơ hồ quá, tôi không thể nào hiểu cụ thể được. Có lẽ chúng sẽ dùng tôi trong một kiểu trò chơi ghê rợn nào đó. Chúng sẽ không dễ dàng thả tôi ra đâu, chúng còn phải vui thú với trò chơi kinh khủng của chúng trước đã.
Nhưng ít ra thì chúng đã không giết tôi. Ít nhất chúng đã không lột da sống tôi như đã làm với Yamamoto. Cũng có thể cuối cùng tôi vẫn sẽ không thoát chết, nhưng ít nhất là không chết như thế. Tạm thời tôi vẫn còn sống; tôi vẫn còn hít thở. Và nếu những gì viên sĩ quan Nga nói là đúng thì tôi sẽ không bị giết ngay. Thời gian giữa tôi bây giờ và cái chết càng nhiều, tôi càng có nhiều cơ hội sống. Cơ hội đó có thể vô cùng nhỏ nhoi, nhưng tôi chỉ còn cách bám lấy nó.
Thế rồi, hoàn toàn đột ngột, lời của hạ sĩ Honda lại lóe lên trong đầu tôi: lời tiên báo kỳ lạ của anh ta rằng tôi sẽ không chết ở đại lục. Dẫu tôi đang ngồi đây, bị trói chặt vào yên ngựa, tấm lưng trần của tôi bị mặt trời sa mạc thiêu đốt, tôi vẫn ôn đi ôn lại từng chữ anh ta nói. Tôi miên man nhớ lại vẻ mặt anh ta, ngữ điệu của anh ta, âm thanh từng chữ của anh ta. Và tôi quyết định phải tin lời anh ta, tin tự đáy lòng tôi. Không, không. Tôi sẽ không nằm xuống mà chết ở một nơi như thế này! Tôi sẽ sống mà thoát khỏi nơi này?! Tôi sẽ còn sống để đặt chân lên mảnh đất quê hương lần nữa!
Chúng tôi đi về phía Bắc trong khoảng hai tiếng đồng hồ hay hơn, cuối cùng dừng lại gần một cái gò bằng đá do các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng xây nên. Các gò đá này, gọi là oboo, vừa là thần hộ mệnh cho khách lữ hành vừa là một dấu hiệu chỉ đường quý báu trong sa mạc. Ở đây đám lính xuống ngựa và cởi trói cho tôi. Hai người xốc hai bên nách dẫn tôi ra một quãng ngắn. Ra là tôi sẽ bị giết ở chỗ này đây. Có một cái giếng đào xuống đất. Bao quanh miệng giếng là một bức tường đá cao khoảng một mét. Họ buộc tôi quỳ bên giếng, túm cổ tôi từ đằng sau bắt tôi nhìn xuống giếng. Tôi không thấy gì trong bóng tối dày đặc. Viên hạ sĩ quan đi ủng tìm đâu ra một hòn đá to cỡ nắm tay, thả xuống giếng. Lát sau hòn đá chạm mặt cát vang lên một tiếng khô khốc. Vậy là chắc giếng này cạn. Đã có thời nó là giếng nước trong sa mạc, nhưng hẳn đã bị cạn khô từ lâu vì mạch nước ngầm dưới đất dịch chuyển. Xét theo khoảng thời gian mà hòn đá phải rơi để xuống tận đáy thì giếng khá sâu.
Viên hạ sĩ quan nhìn tôi nhe răng cười. Rồi hắn rút một khẩu súng lục tự động to tướng ra khỏi bao da nơi thắt lưng. Hắn mở chốt an toàn rồi nạp một viên đạn vào buồng đạn kêu đánh cách một tiếng lớn. Đoạn hắn chĩa nòng súng vào đầu tôi.
Hắn giữ nguyên vậy một hồi lâu nhưng không bóp cò. Đoạn hắn từ từ hạ súng xuống và giơ tay trái chỉ về phía cái giếng. Liếm đôi môi khô nẻ, tôi nhìn trân trân vào khẩu súng trong tay hắn. Điều hắn muốn bảo tôi là thế này: tôi có quyền lựa chọn một trong hai số phận. Hoặc tôi để hắn bắn tôi chết ngay bây giờ - chết là hết. Hoặc tôi có thể nhảy xuống giếng. Vì giếng rất sâu nên nếu không gặp may khi tiếp đất, tôi có thể sẽ chết. Bằng không, tôi sẽ chết từ từ dưới đáy cái lỗ đen ngòm này. Rốt cuộc tôi cũng hiểu ra đây chính là cái cơ hội mà viên sĩ quan Nga đã nói. Viên hạ sĩ quan chỉ vào chiếc đồng hồ tước của Yamamoto đếm đến ba, tôi bước lên thành giếng rồi nhảy xuống. Tôi không có cách nào khác. Tôi đã mong có thể bám theo thành giếng mà tụt xuống, nhưng hắn không cho tôi có thì giờ làm việc đó. Hai bàn tay tôi trượt khỏi thành giếng, tôi lao thẳng xuống.
Dường như phải rất lâu tôi mới chạm tới đáy. Thực ra thì chắc hẳn không quá mấy giậy, nhưng trong khoảng thời gian rơi xuống đó tôi đã kịp nhớ lại rất nhiều thứ. Tôi nghĩ về thị trấn quê nhà sao mà xa quá đỗi. Tôi nghĩ về người con gái tôi đã ngủ cùng chỉ một lần duy nhất trước khi xuống tàu ra đi. Tôi nghĩ về bố mẹ tôi. Tôi nhớ mình đã cám ơn trời đã cho tôi một đứa em gái chứ không phải em trai: nhờ vậy thì dù tôi chết bố mẹ tôi vẫn còn có nó và không phải lo rằng đến lượt nó phải đi lính. Tôi nhớ những chiếc bánh bột gạo gói trong lá sồi. Thế rồi tôi đâm sầm xuống mặt đất khô cứng và bất tỉnh một lát. Dường như toàn bộ không khí bên trong tôi đã phụt cả ra ngoài qua lớp vỏ thân thể tôi. Tôi đã rơi phịt xuống đáy giếng như cái bao cát.
Hẳn tôi đã ngất đi chỉ một thoáng vì cú ngã. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy có dòng nước nào đó đang rưới lên mình. Ban đầu tôi ngỡ là mưa, nhưng tôi nhầm. Đó là nước tiểu. Đám lính Mông Cổ đang đái lên tôi trong khi tôi nằm dưới đáy giếng. Tôi nhìn lên thấy bóng dáng lờ mờ của họ xa mãi trên kia, từng người một đến bên miệng giếng tròn để đái. Quang cảnh đó có gì đó phi thực một cách khủng khiếp, như một cơn ảo giác vì ma túy vậy. Nhưng đó là thực tại. Quả thực tôi đang ở dưới đáy giếng, và người ta đang đái lên tôi bằng nước đái thật. Sau khi cả bọn đã đái xong, một người rọi đèn pin lên tôi. Tôi nghe họ cười rộ. Rồi họ biến mất khỏi mép giếng. Sau đó, mọi sự chìm vào im lặng thăm thẳm.
Tôi nghĩ tốt nhất là nằm sấp một lát, chờ xem họ có quay lại không. Nhưng hai mươi phút trôi qua, rồi ba mươi phút (tôi chỉ đoán vậy vì không có đồng hồ), họ vẫn không quay lại. Dường như họ đã đi, bỏ tôi ở đây. Tôi đã bị bỏ lại ở dưới đáy một cái giếng giữa sa mạc. Khi đã chắc là đám lính không quay lại nữa, tôi quyết định kiểm tra xem mình có bị thương không. Làm việc đó trong bóng tối thật