1
Càng cụ thể càng tốt
♦
Đề tài ăn ngon miệng trong văn học
Đêm đó Kumiko không về. Tôi thức đến nửa đêm, lúc đọc sách khi nghe nhạc để đợi nàng về, nhưng rốt cuộc tôi chịu thua, đành đi ngủ. Tôi thiếp đi không tắt đèn. Khi tôi dậy thì đã 6 giờ. Ngoài cửa sổ trời sáng bạch. Bên ngoài tấm rèm mỏng chim hót líu lo. Không thấy bóng dáng vợ tôi đâu. Chiếc gối trắng bên cạnh tôi vẫn phẳng phiu, phồng lên. Vậy là suốt đêm chẳng có ai đặt đầu lên đó. Bộ pijama mới giặt, gấp lại gọn gàng của Kumiko vẫn nằm nguyên trên bàn ngủ. Chính tôi đã giặt bộ đó. Chính tôi gấp nó. Tôi tắt cây đèn bên cạnh gối mình rồi hít một hơi dài, như để điều chỉnh lại dòng thời gian.
Tôi cứ mặc nguyên pijama mà đi một vòng quanh nhà. Đầu tiên tôi xuống bếp, sau đó kiểm tra phòng khách rồi phòng của Kumiko. Tôi kiểm tra buồng tắm, thử nhòm cả vào trong tủ quần áo cho chắc. Chẳng thấy tăm hơi nàng đâu. Nhà có vẻ im ắng hơn mọi ngày. Tôi cảm thấy cứ đi tới đi lui thế này là tôi đã mang tội phá vỡ sự hài hòa tĩnh lặng của chốn này mà chẳng có lý do nào chính đáng.
Tôi chẳng còn gì khác để làm. Tôi xuống bếp, lấy đầy ấm nuớc rồi bật bếp gas. Khi nước sôi, tôi pha cà phê rồi ngồi nơi bàn bếp nhấp một ngụm. Rồi tôi nướng bánh mì và ăn ít salad khoai tây còn trong tủ lạnh. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm qua tôi ăn sáng một mình. Thử nghĩ mà xem, ngoài một chuyến công tác xa duy nhất, còn thì kể từ ngày cưới vợ chồng tôi chưa lần nào bỏ một bữa ăn sáng cùng nhau. Bữa trưa chúng tôi hay ăn riêng, đôi khi bữa tối cũng không ăn cùng, nhưng bữa sáng thì không bao giờ vắng nhau. Có một thứ thỏa thuận ngầm, gần như là một nghi thức giữa hai chúng tôi về việc cùng ăn bữa sáng. Dù muộn giờ đến mấy đi nữa, chúng tôi vẫn luôn cố dành thời gian đủ để làm một bữa sáng đâu ra đó và thư thả ăn cùng nhau.
Nhưng sáng hôm đó vắng Kumiko. Tôi uống cà phê và ăn bánh mì nướng một mình, lặng lẽ. Tôi nhìn mãi chiếc ghế trống trước mặt. Tôi vừa ăn vừa nhìn chiếc ghế mà miên man nghĩ tới thứ nước hoa nàng đã xức sáng hôm qua. Tôi nghĩ đến người đàn ông ắt hẳn đã tặng món nước hoa đó cho nàng. Tôi hình dung nàng nằm trên giường với hắn, hai vòng tay quấn lấy nhau. Tôi thấy hai bàn tay hắn ve vuốt tấm thân trần truồng của nàng. Tôi thấy tấm lưng trắng ngần trơn láng như bằng sứ của nàng mà tôi đã thấy sáng qua, làn da mịn màng của nàng dưới chiếc khóa tôi đang kéo.
Hình như cà phê có vị xà phòng. Tôi thật không tin được. Ngay khi nhấp ngụm đầu tiên tôi đã cảm thấy dư vị khó chịu. Tôi tự hỏi phải chăng cảm giác của tôi đang đánh lừa tôi, nhưng ngụm thứ hai cũng có cái vị đó. Tôi đổ hết cốc cà phê uống dở vào chậu rửa rồi rót thêm cà phê vào một cốc sạch. Lại vẫn mùi xà phòng. Thật không hiểu nổi tại sao. Ấm đun cà phê tôi đã rửa sạch, nuớc cũng không có vấn đề gì. Nhưng cái vị - hay mùi - thì không lầm được: chỉ có thể là xà phòng, cũng có thể là mỹ phẩm chống khô da. Tôi đổ cà phê đi rồi toan đun thêm ít nước, nhưng lại thấy chẳng bõ công. Tôi rót đầy một cốc nước máy rồi uống. Thật ra tôi cũng chẳng thèm cà phê đến như vậy.
° ° °
Tôi đợi đến 9 giờ rưỡi rồi gọi đến cơ quan của Kumiko. Một phụ nữ trả lời điện thoại.
- Cho tôi nói chuyện với Okada Kumiko được không ạ? - tôi hỏi.
- Xin lỗi, chị ấy chưa đến.
Tôi cám ơn rồi gác máy. Sau đó tôi đi là sơ mi như tôi vẫn làm mỗi khi bứt rứt không yên. Là hết sơ mi rồi, tôi quay sang bó báo và tạp chí cũ thành từng bó, lau chùi chậu rửa bát và các kệ tủ, rửa sạch phòng vệ sinh và buồng tắm. Tôi đánh bóng các tấm gương và cửa kính. Tôi tháo hết đèn trần ra rồi lau sạch những tấm kính mờ. Tôi tháo ga trải giường bẩn ném vào máy giặt rồi thay ga mới.
Đến 11 giờ tôi lại gọi lên cơ quan của Kumiko. Cũng người phụ nữ đó trả lời, và một lần nữa cô ta nói Kumiko chưa đến.
- Cô ấy có định nghỉ làm hôm nay không? - tôi hỏi.
- Tôi không biết ạ, - cô ta nói, giọng hoàn toàn vô cảm. Cô ta chỉ đơn thuần thông báo sự việc.
Nếu 11 giờ mà Kumiko chưa đến cơ quan thì có gì không ổn rồi. Hầu hết các nhà xuất bản đều làm việc theo giờ giấc không bình thường, nhưng chỗ Kumiko thì không. Do tạp chí này đề cập đến lối sống lành mạnh và thức ăn thiên nhiên, nên cộng tác viên của họ - các nhà sản xuất thực phẩm, nông dân, bác sĩ - đều là những người thường xuyên đi sớm về muộn. Để thích ứng với giờ giấc của cộng tác viên, Kumiko và các đồng nghiệp phải đến cơ quan đúng 9 giờ sáng và rời cơ quan lúc 5 giờ chiều, trừ phi có lý do đặc biệt phải ở lại muộn hơn.
Tôi gác máy rồi vào phòng ngủ, xem kỹ tủ quần áo của nàng. Nếu Kumiko bỏ nhà đi, hẳn nàng phải mang theo quần áo. Tôi kiểm tra các áo dài, áo cánh và váy treo trong tủ. Dĩ nhiên không phải bất cứ cái gì nàng mặc tôi cũng biết - ngay quần áo của chính mình tôi cũng có biết hết từng cái đâu -, nhưng bởi tôi thường mang quần áo của nàng đến hiệu giặt là rồi mang về nên tôi biết khá rõ nàng hay mặc những chiếc áo nào nhất, những chiếc áo nào quan trọng nhất đối với nàng, và xét theo chỗ tôi biết, tất cả đều đang nằm trong tủ.
Ngoài ra, nàng cũng đâu có cơ hội mang theo nhiều quần áo. Tôi cố nhớ lại càng chính xác càng tốt lúc nàng rời khỏi nhà ngày hôm trước - quần áo nàng mặc, túi xách nàng đeo. Nàng chỉ mang chiếc túi xách đeo vai vẫn thường mang để đi làm, trong đó chỉ có sổ sách, mỹ phẩm, chiếc ví, bút, khăn mùi xoa, khăn giấy. Làm gì còn chỗ để đựng quần áo thay.
Tôi kiểm tra các ngăn kéo của nàng. Những đồ lặt vặt như túi xách, thắt lưng, tất dài, kính râm, quần lót, may ô thể thao, tất cả đều yên vị, xếp hàng ngay ngắn. Nếu có cái gì biến mất, tôi cũng không thể biết được. Dĩ nhiên, tất dài và quần lót thì nàng có thể cho vào túi đeo vai, nhưng thử nghĩ mà xem, tội gì phải thế chứ? Những thứ đó mua đâu chẳng được.
Tôi lại xuống phòng tắm kiểm tra lần nữa. Ở đó cũng chẳng thấy có gì thay đổi: chỉ rất nhiều hộp mỹ phẩm và đồ lỉnh kỉnh khác của Kumiko. Tôi mở chai nước hoa Christian Dior ngửi một lần nữa. Cũng cái mùi như trước: hương thơm của một bông hoa trắng thơm ngát vào buổi sáng mùa hè. Tôi lại nhớ đến đôi vai và tấm lưng trắng muốt của nàng.
Tôi lên phòng khách duỗi dài trên ghế sofa. Tôi nhắm mắt lắng nghe. Gần như âm thanh duy nhất tôi nghe được là tiếng đồng hồ tích tắc đếm thời gian. Không có tiếng ồn xe hơi, không có tiếng chim. Tôi không biết làm gì bây giờ. Tôi quyết định lại gọi điện đến cơ quan của nàng, đã nhấc ống nghe lên và quay mấy chữ số đầu tiên, nhưng nghĩ đến chuyện phải nói chuyện cũng với người đàn bà kia là tôi lại ngán ngẩm, đành đặt ống nghe xuống. Tôi chẳng còn gì làm nữa. Tôi chỉ có thể chờ. Có thể Kumiko đã bỏ tôi, vì lý do gì tôi không biết, nhưng ít nhất chuyện đó cũng có thể. Tuy nhên, dù đúng vậy đi nữa, Kumiko cũng không phải loại nguời bỏ đi mà không nói một lời. Nàng hẳn sẽ nói thật lý do mình ra đi, nói càng chính xác, càng rõ ràng càng tốt. Gì chứ điều đó thì tôi tin chắc trăm phần trăm.
Mà cũng có thể nàng bị tai nạn. Có thể nàng bị một chiếc xe hơi chẹt, người ta phải đưa nàng đến bệnh viện. Nàng có thể mê man bất tỉnh, người ta tiếp máu cho nàng. Ý nghĩ đó khiến tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi biết nàng có mang theo bằng lái, thẻ tín dụng và sổ địa chỉ. Bệnh viện hay cảnh sát hẳn phải liên lạc với tôi rồi chứ.
Tôi ra ngồi ngoài hiên nhìn khu vườn, nhưng kỳ thực tôi chẳng nhìn gì