Khương Tú Nhuận nhất thời nghĩ mãi không ra, hoài nghi mình suy nghĩ nhiều, thế nhưng trong lòng Phượng Ly Ngô lại tràn đầy ý nghĩ ngọt ngào.
Nói ra thì hai năm xa cách sớm đập sự tự tin trong ái tình của Phượng Ly Ngô với Khương Tú Nhuận vỡ tan tành.
Nghĩ kỹ lại, lúc trước nàng là một chất nữ nước yếu, tới thành Lạc An không chỗ nương tựa, dựa vào mình chẳng qua là để bảo vệ bản thân mà thôi, những câu a dua nịnh hót kia cũng không có mấy câu là thật.
Ngay cả lần này dẫn nàng về kinh một lần nữa, cũng chỉ là hắn dẫn đại quân áp sát Ba Quốc, cưỡng ép nàng cùng nhau về.
Thế nhưng trong đầu Khương Tú Nhuận lại đầy tinh quái, nếu một lòng muốn rời đi, nói không chừng lại muốn gây ra chuyện ồn ào bịp bợm nào đó.
Bởi vì có phần thấp thỏm này, Phượng Ly Ngô đối với Khương Tú Nhuận cũng là chú ý khắp nơi.
Loại cảm giác này giống như lúc nhỏ hắn ở trong lãnh cung, vì để mẫu mẫu tươi cười vì hắn mà nỗ lực xu nịnh lấy lòng. Đáng tiếc lúc trước lấy lòng đều vì thất bại mà kết thúc.
Phải biết hắn trời sinh sẽ không lấy lòng người khác, càng không có các loại thủ đoạn quan tâm nữ tử như nhị đệ, mỗi khi nghĩ tới Khương Tú Nhuận có lẽ chưa từng động lòng với hắn, cũng khó tránh có lúc vì cô đơn mà tự chán ghét chính mình.
Mấy ngày gần đây bởi vì việc dịch bệnh, khắp kinh thành thần hồn nát thần tính, người người cảm thấy bất an. Phượng Ly Ngô không thể tới thăm Khương Tú Nhuận, chỉ là cách hai con đường và một con phố lại như xa cách núi sông.
Lúc một thân một mình, Phượng Ly Ngô luôn nghĩ lúc này nàng đang làm gì, có phải bận bịu chuyện của Bảo Lý mà không nhớ tới cha đứa nhỏ chút nào hay không?
Thật không nghĩ tới, giờ phút quan trọng như vậy, chỉ vì lòng nghi ngờ mình bị bệnh, Khương Tú Nhuận lại liều mạng chạy như thế. Miệng nàng nói lời như mây trôi nước chảy, thế nhưng thời điểm quan trọng liền lộ ra quan tâm mình. Chuyện này khiến cho Phượng Ly Ngô tràn đầy nhu tình trong lòng.
Hiện tại, màn đêm buông xuống, trong ngoài cung rất yên tĩnh, thế nhưng trong ánh đèn nhỏ lập lòe trong phòng, sóng mắt giai nhân trong ngực vẫn làm say lòng người.
Cho dù ngày mai thật sự mắc bệnh nặng, Phượng Ly Ngô cũng cảm thấy đời này không có tiếc nuối.
Lòng cảm khái, trong miệng hiển nhiên cũng nói ra. Khương Tú Nhuận nghe xong, nóng nảy đấm một phát vào lồng ngực hắn nói: “Nhiễm bệnh không tiếc cái gì? Thân là Thiên tử, trên đầu có thần linh che chở, sao lại xem thường sống chết như vậy? Còn không mau nhổ ra xúi quẩy để tránh mắc bệnh tật!”
Phượng Ly Ngô cảm thấy ngực bị đánh đau, liền cố ý nhăn nhó nói nàng như vậy không phải nữ tử ôn nhu, lòng nghi ngờ nàng là ảnh nữ cải trang, muốn cởi áo kiểm tra, nhìn xem có chỗ nào có thay đổi không.
Khương Tú Nhuận đâu chịu mặc cho hắn làm càn, chỉ đỏ mặt nói: “Không biết xấu hổ, ảnh nữ trước kia chàng cũng kiểm tra như thế mới nhìn ra được sao?”
Phượng Ly Ngô đói bụng mấy ngày, ngửi mùi thịt rồi làm sao có thể nhả ra? Giống như hổ đói vồ dê, đè thân thể mềm mại lên giường rồng, trong miệng nói mập mờ không rõ ràng: “Loại hàng giả lần trước dùng mũi là có thể ngửi ra thật giả, người lần này tới bắt chước rất tinh vi, không thể không dùng long chử [*] mới có thể phân biệt thật hay giả.”
[*] Chử là cái chày, long là rồng (vua).
Khương Tú Nhuận bị hắn chọc tới nỗi không nhịn nổi, bị chóp mũi của hắn lê nhẹ trên người khiến cho bật cười khanh khách, trong lúc nhất thời màn che giường rồng hạ xuống, tới lúc gió thổi trăng tàn, người vẫn chưa chợp mắt.
Chỉ là khi nàng tới lo Phượng Ly Ngô lây bệnh dịch, trong lòng có tâm sự nên không kịp ăn cơm tối. Càn quấy một hồi như vậy, Phượng Ly Ngô chưa hết thòm thèm, chuẩn bị tới thêm một hồi nữa thì hai chân Khương Tú Nhuận run lên, bụng cũng réo ầm ầm.
Phượng Ly Ngô nghe tiếng bụng nàng kêu to, bèn hỏi: “Buổi tối không ăn sao?”
Khương Tú Nhuận lắc lắc đầu, tựa đầu gối lên cơ ngực rắn chắc của hắn nói: “Gần đây không có khẩu vị, muốn ăn hương vị quê hương, tiếc rằng lúc này ở trong cung, chỉ sợ không có món hợp khẩu vị.”
Phượng Ly Ngô sửa lại mái tóc dài như tơ lụa của nàng nói: “Lúc trước rời Ba Quốc, tẩu tẩu nàng chuẩn bị rất nhiều đồ ăn, còn cho trẫm mang về mấy bình tương tỏi lê lớn, trẫm bảo dưới bếp dùng nó làm thịt dê cho nàng ăn được không?”
Tỏi lê này chính là đặc sản Ba Quốc, hình dạng giống trái lê, mùi vị gay mũi như tỏi, cho nên gọi là tỏi lê. Dân bản xứ Ba Quốc thích dùng nó làm dưa muối.
Mặc dù Ổn Nương là người xứ khác, thế nhưng hợp khẩu vị nên cũng rất thích dùng tỏi lê xào nấu món ăn.
Lúc chiêu đãi binh tướng Đại Tề, thấy Phượng Ly Ngô và tướng quân thuộc hạ đều thích, bèn cố ý sai người băm một vại tỏi lê chế biến thành tương để thuận tiện mang theo lúc lên đường chở về cho bọn họ đỡ thèm.
Trong hành cung Khương Tú Nhuận cũng có, nhưng chưa từng nghĩ trong cung Phượng Ly Ngô vẫn tích trữ, thế là sáng mắt lên, chỉ là vào ban đêm không thích hợp ăn đồ quá nhiều dầu mỡ, chỉ làm món trứng hấp, múc hai muôi tương tỏi lê lớn rưới lên mặt trên rồi trộn lẫn ăn với cơm.
Phượng Ly Ngô vốn không đói, nhưng khi nhìn nàng ăn ngon như vậy, cũng nhịn không được múc hai muôi, trứng hấp non mềm và tương tỏi lê quả nhiên là rất hợp ăn kèm với cơm.
Nói chuyện phiếm lúc ăn cơm, hai người hiển nhiên là nhắc tới bệnh dịch trước mắt. Đại phu tới chữa đều nói, triệu chứng của dịch bệnh này trước đây chưa từng thấy, khắp nơi lộ ra tà khí, cũng không biết nên trị tận gốc thế nào, chỉ có thể lệnh cho người xung quanh ngoại ô kinh thành chú ý, cách ly người xuất hiện triệu chứng dịch bệnh.
Lúc nói chuyện phiếm, Phượng Ly Ngô cũng hỏi Khương Tú Nhuận ở quê hương có từng thấy bệnh dịch này xuất hiện chưa?
Khương Tú Nhuận cười nói: “Người Ba Quốc trời sinh thân thể cường tráng, xưa nay thích uống nước lã cũng không thấy bị tiêu chảy, tuy rằng không giàu có, đông đúc bằng Trung Nguyên, thế nhưng là nơi nuôi dưỡng người ta tốt. Đúng là lúc mới tới Lạc An, ta mới trải qua mấy trận bệnh lớn nhỏ, trước đây rất ít khi bị bệnh tật.”
Phượng Ly Ngô cảm thấy sau khi nàng làm Nữ vương Ba Quốc, vẫn có tài nói khoác, nhướng lông mày nói: “Ồ, nói như vậy là thần ôn dịch luôn tới thăm Trung Nguyên, chưa từng dám tới vương thổ của nàng sao?”
Khương Tú Nhuận cười cười nói: “Mẫu hậu ta từng nói, lúc tổ tiên từ quê hương dời tới Trung Nguyên, trên đường đi mệt nhọc, có rất nhiều người bị bệnh, lúc chống đỡ không nổi thì có con chim sơn ca lông vàng dẫn thánh nữ A Đại Thiện tới một rừng cây, nhảy trên ở một gốc cây lê kỳ lạ kêu to, thế là thánh nữ hái quả có mùi vị kỳ lạ kia xuống rồi cho một người bệnh nặng nếm thử, không ngờ người kia ăn xong, chứng bệnh