Tạm định ngày kết hôn là tháng 5 năm sau.
Lúc này Thịnh Kinh Lan không đập tiền khoa trương như trước mà làm theo quy củ, mang những món đồ tượng trưng cho sự cát tường và một đôi ngỗng sống tới nhà họ Ôn.
Bà mối thông hiểu lễ nghi lấy bát tự và ngày sinh của hai bên, báo quy tắc cho họ.
Nào ngờ khi Thịnh Kinh Lan biết chuyện này, anh liếc nhìn một cái rồi nói: “Không cần xem, cứ viết cho tôi theo hướng tốt nhất.”
Bà mối nghe vậy thì phản bác: “Không được…”
Thịnh Kinh Lan tiện tay thả một tấm thẻ lên.
Tròng mắt bà mối đảo vòng quanh: “Tôi thấy ngũ hành hai vị bổ khuyết cho nhau, ngày nguyên tương hợp, đã định sẵn là lương duyên trời định, ngày sau phu thê đồng tâm, ân ái tới bạc đầu.”
Theo quy củ, nhà gái cũng phải đặt ngày sinh bát tự của nhà trai trước tượng Phật, bà mối đi hỏi thử, nào ngờ đằng gái cũng như vậy.
Hai con người trông có vẻ theo quy tắc này lại bất chấp hết các loại quy tắc, đúng là nên thành đôi.
Đã tạm định hôn ước, còn rất nhiều chuyện rườm rà cần phải hoàn thành từng bước một.
Họ chọn ngày cưới vào sang năm vì mùa thu thì không kịp chuẩn bị, mùa đông quá lạnh, sau mùa xuân là thích hợp nhất.
Thịnh Kinh Lan nhắc tới váy cưới, Tống Lan Chi xua tay với anh, gọi Ôn Từ vào nhà: “A Từ, vào đây.”
Bà cụ bước rất chậm, đưa cháu gái vào trong phòng, lấy một chiếc chìa khóa ở ngăn tủ trong góc ra rồi cắm vào ổ khóa.
Cửa phòng mở ra, ánh mặt trời xuyên qua cửa chiếu lên mặt đất, trên chiếc ma nơ canh ở chính giữa phòng là một bộ váy cưới màu đỏ tươi, nổi lên ánh vàng kim.
Phần thân được thêu tay hình long phượng, cổ tay được gắn ngọc trai, là một bộ váy cưới ngụ ý cát tường, đẹp đẽ, trân quý và chói mắt.
“Đây…” Ôn Từ không khỏi bước lên một bước, duỗi tay chạm vào bộ áo cưới vô cùng tinh tế này, khuôn mặt không khỏi rung động.
Thần thái Tống Lan Chi sáng láng, trên mặt là một nụ cười hiền từ: “Cháu có biết năm ngoái bà xin quẻ trong miếu, được quẻ như nào không?”
Ôn Từ chậm rãi lắc đầu.
Tống Lan Chi kéo tay cô, khóe mắt già nua không giấu được ý cười: “Trên quẻ nói, lương duyên của bọn cháu là được trời ban, gặt hái được cả danh lẫn lợi.” Nên từ khi đó, bà đã bắt đầu chuẩn bị váy cưới cho cháu gái.
Cũng không phải chỉ vì quẻ ấy mà còn là vì bản thân đã có tuổi, thị giác và tinh thần đều không bằng được trước đây, nên bà chuẩn bị sớm một chút, mong cháu gái sẽ mặc được bộ váy cưới mình tự tay thêu vào lúc mà cô muốn.
Đây là lời chúc phúc của bà ngoại.
“Bà ngoại.” Đôi mắt Ôn Từ rơm rớm.
“Đừng khóc mà, gả cho người mình thích là chuyện tốt, sau này có người ở bên A Từ của chúng ta cả đời.” Bà cụ giơ tay trấn an cảm xúc của cháu ngoại.
Ôn Từ cúi người ôm lấy bà, cười cười rồi khịt mũi: “Cháu vui lắm, cảm ơn bà ngoại.”
Những người khá thân quen quanh họ đều biết hai người chuẩn bị kết hôn, Dụ Dương là người lắm mồm, ngày nào cũng càu nhàu với người ngoài chuyện Thịnh Kinh Lan làm lố: “Mọi người có biết bây giờ cậu ta làm gì mỗi ngày không?”
Thịnh Phỉ Phỉ và Chu Hạ Lâm đồng thanh: “Làm gì?”
“Ngày nào cũng bảo tôi liên hệ cái này, tra cái kia, đòi làm cái gì mà ô giấy, tráp long phượng… Sư phó cũng phải tìm người tốt nhất, kiểu người đại diện cho cả một nghề gia truyền ấy.” Mới mấy thứ anh ta biết thôi đã là cả một đống lớn, bây giờ mới là tháng Chín, không biết bảy tám tháng tới Thịnh Kinh Lan còn làm những gì nữa.
Thịnh Phỉ Phỉ ngồi bên cạnh cười vui vẻ: “Chú Út nhà em cũng chỉ kết hôn có một lần này thôi, anh Dụ Dương đành phải vất vả giúp chú ấy vậy.”
“Tôi thì cũng vui lòng chỗ trợ thôi, nhưng thái độ của cậu ta không ai tưởng tượng được đâu.
Hai người phải ở đó mới hiểu tâm trạng của tôi.” Anh ta nhớ hồi trước Thịnh Kinh Lan là một người ghét bỏ các loại quy củ trói buộc, nhưng lần này, việc gì anh cũng tự tay làm lấy, những chuyện có thể tự làm thì chắc chắn sẽ không nhờ vả người ngoài.
Chẳng mấy chốc mà đã đến tháng Mười, sinh nhật Ôn Từ trùng ngày với lễ Quốc Khánh, ngoài những vị khách nhà họ Ôn ra thì còn cả bạn bè của Thịnh Kinh Lan, không có quá nhiều người, đều là những người mà Ôn Từ có quen biết.
Những người đồng trang lứa ngồi cùng một bàn, uống rượu xong, Dụ Dương với bộ mặt đỏ bừng đi qua cầm lấy cổ áo Thịnh Kinh Lan: “Cậu định ăn vạ ở nhà họ Ôn đấy à?”
“Có nghe đến ở rể bao giờ chưa?” Bộ dạng anh rất đắc ý, nghe chừng rất lấy làm tự hào.
Sa Sở thì thầm bên tai Ôn Từ: “Cậu ta muốn đến nhà em ở rể thật đấy à?”
Ôn Từ mỉm cười lắc đầu: “Không đâu, anh ấy định cư ở thành Nam, bà ngoại với mẹ em đều đã thấy tấm lòng của anh ấy, em cũng đâu cần anh ấy phải hạ mình vì em.
Sau này là cuộc sống của hai bọn em, không quy định em phải gả vào nhà anh ấy hay anh ấy đến ở rể nhà em.”
Sa Sở cầm chén rượu trong tay: “Chị thấy cậu ta cũng vui lòng đấy chứ.”
Ôn Từ nhoẻn miệng cười: “Ừm, anh ấy cũng không để ý tới chuyện này lắm.”
Sa Sở nhìn đám đàn ông đang chuốc rượu nhau bên kia: “Không để ý? Em bảo cậu ta đổi sang nhà khác mà xem?”
Hồi trước mọi người đều cảm thấy Thịnh Kinh Lan là kẻ không thể khống chế, thật ra không cần khống chế anh, chỉ cần Thịnh Kinh Lan rung động, anh sẽ tự trả giá hết thảy.
Ôn Từ một tay chống cằm, đứng bên cạnh bàn: “Vậy chị thì sao?”
Sa Sở: “Chị?”
Ôn Từ nhìn cô, nói rõ ràng: “Chị với Dụ Dương.”
Sa Sở không chút do dự: “Hai bọn chị không thể đâu.”
Ôn Từ hơi sửng sốt, dò hỏi: “Là chị không thích, hay là?”
Sa Sở chống tay dưới cằm, ngẩng đầu nhìn lên không trung.
Tối nay không mưa không gió không sao, như nội tâm đã sớm hoang vu cô tịch của cô ấy vậy: “A Từ, em sẽ không hiểu đâu, sau khi trải qua một mối tình khắc cốt ghi tâm, em thật sự sẽ mất đi khả năng yêu người khác.”
Bên kia, không biết Thịnh Phỉ Phỉ với Tô Hòa Miêu lại bắt đầu ra tay từ bao giờ, Chu Hạ Lâm tính chen chân vào lại bị hai cô gái hợp sức đẩy ra ngoài.
Thấy khung cảnh này, Tống Lan Chi không khỏi cảm thán: “Trong nhà lâu rồi không náo nhiệt đến thế này, đúng là người trẻ tuổi mới có sức sống.”
“Ồn.” Mọi người đều vô cùng vui vẻ, chỉ có Ôn Như Ngọc vẫn giữ vẻ mặt không đổi sắc ấy, không khác gì lúc bình thường ngồi trong văn phòng xử lý công việc.
“Con ấy à, chẳng biết hưởng thụ gì cả.
Một năm A Từ chỉ có một ngày sinh nhật, chẳng nhẽ con muốn ngồi ăn cơm yên tĩnh như con, ăn xong là đi?” Người càng già thì càng thích náo nhiệt: “Mẹ đã bảo cậu Trình dọn hết phòng cho khách rồi, tối nay giữ mấy đứa này lại đây.”
Nhà họ Ôn chuẩn bị phòng cho những người muốn ngủ lại, Ôn Từ ngồi trong phòng, bỗng thấy cửa sổ hơi lạnh.
Cô quay đầu nhìn ra, người đàn ông chống tay lên cửa sổ của cô, nhanh nhẹn nhảy qua cửa sổ vào trong phòng.
Ôn Từ chứng kiến hết thảy, cũng không biết nên miêu tả tâm trạng của mình ra sao: “Anh không biết đi đường cửa sao?”
Người đàn ông vỗ lớp bụi vốn chẳng tồn tại trên tay: “Đi cửa nhiều rồi, hết thú vị.”
“Anh trèo cửa sổ đến nghiện đấy à?” Ôn Từ không thể tin nổi: “Lỡ bị người khác nhìn thấy, còn tưởng chúng ta đang làm gì đó…”
Người đàn ông tùy tiện bước đi trong phòng, ngồi xuống bên mép giường của cô: “Chẳng lẽ em thấy nửa đêm anh tới phòng tìm em là còn muốn làm chuyện đứng đắn?”
Lời nói thẳng thắn làm Ôn Từ đỏ bừng mặt, cô giơ tay lên che mặt, kêu lên: “Thịnh Kinh Lan, anh để ý mặt mũi một tí chứ.”
“Mặt mũi thì có tác dụng gì?” Người đàn ông thờ ơ nhướng mày, sau đó như nhớ tới điều gì, lại nói: “À thật ra cũng có tác dụng, ví dụ như Khanh Khanh rất thích khuôn mặt này của anh.”
Không ngờ anh lại đắc ý như vậy, Ôn Từ cạn lời hồi lâu, cuối cùng chỉ thốt ra được một câu: “Bớt dát vàng lên mặt.”
Người đàn ông dùng ngón cái tự sờ mặt mình, ra vẻ tự hỏi: “Mỗi lần lúc anh đi ngủ, là ai sấn qua lợi dụng anh, sờ mặt anh?”
Sở thích nho nhỏ bị người ta phơi bày, Ôn Từ thẹn quá thành giận: “Có phải lần nào em cũng sờ đâu? Mặt anh làm bằng vàng chắc? Sờ một tí thì làm sao.”
Anh cười: “Khuôn mặt bé cÔn Từng sờ qua, anh phải tính xem có nên mua bảo hiểm cho nó không.”
Quá là ra vẻ, dáng vẻ của người đàn ông không chút đàng hoàng, từng câu từng câu khiêu khích cô, Ôn Từ hoàn toàn không chống đỡ nổi.
Anh lại một lần nữa bắt cóc Ôn Từ khỏi nhà họ Ôn.
Bảo vệ nhìn chằm chằm vào camera: “Chuyện này…”
Chú Trình giơ tay che mắt, chỉ coi như mù.
Thịnh Kinh Lan uống rượu không được lái xe, lần này là Ôn Từ làm tài xế: “Đi đâu thế?”
Thịnh Kinh Lan chỉ vào một địa chỉ trên điện thoại, đặt trước mặt để Ôn Từ đi theo hướng dẫn.
Ban đêm, con đường trong thành phố rất trống trải, ước chừng qua hơn mười phút, biển hướng dẫn ghi đã sắp tới đích.
Khóa xe lại, Thịnh Kinh Lan kéo cô đi bộ tiếp.
Ôn Từ đánh giá khung cảnh bốn phía, quanh đây đều là những dinh viện độc lập được trang hoàng kiểu Trung Quốc, cách bờ hồ không xa.
“Năm ngoái anh đã mua lại chỗ này rồi, vẫn chuẩn bị mãi nên chưa nói với em.” Anh đã lên kế hoạch từ rất lâu trước đây.
Anh nói đây là quà sinh nhật cho cô, Ôn Từ vừa mừng vừa lo: “Anh không nghĩ, nếu em không đồng ý anh, chẳng phải mọi chuyện đều đổ sông đổ bể ư?”
Người đàn ông cúi đầu cụp mắt xuống, thở dài: “Nếu Khanh Khanh không đồng ý, anh chỉ đành giữ ngôi nhà to đùng này lại, chờ ngày em quay đầu nhìn anh một cái.”
Phản ứng của anh làm cô cảm thấy áy náy, ngày vui như thế này, việc gì cô phải đưa ra giả thiết ấy: “Thịnh Kinh Lan…”
Nào ngờ người đàn ông bỗng ngẩng đầu dậy, chỉ vào chóp mũi cô rồi nói: “Lừa em đó, anh phải bất chấp mọi thủ đoạn để lừa em về nhà chứ.”
Ôn Từ: “…”
Hiển nhiên, là cô đã đánh giá quá cao đạo đức của người đàn ông này.
Ngôi nhà này được tu sửa như một phủ đệ thời xưa, những thiết kế hiện đại nằm kín trong góc, trọn vẹn một khối.
Ôn Từ đi theo anh hồi lâu vẫn chưa tới điểm cuối: “Sau này bọn mình sẽ ở đây à?”
“Sau khi kết hôn sẽ ở đây.” Anh cố tình nhấn mạnh hai chữ “kết hôn”, tựa như đang ám chỉ điều gì.
Ôn Từ buộc phải nhắc nhở người đàn ông uống rượu đến hồ đồ này, chọc chọc cánh tay anh: “Lễ kết hôn đã được định vào tháng Năm năm sau.”
Anh bình tĩnh nói: “Có thể đi đăng ký trước mà.”
“Đúng ha.”
Ôn Từ khoanh tay đánh giá xung quanh: “Thì ra anh muốn làm như vậy.”
Người đàn ông bật cười, cũng không phản bác mà chỉ vòng tay từ đằng sau ôm lấy eo cô: “Ôn Khanh Khanh.”
“Hửm?”
Cô chậm rãi buông tay ra, sau đó đầu vai bỗng cảm thấy nặng nề, hô hấp cực nóng phả vào bên tai: “Em sẽ luôn lựa chọn anh, đúng không?”
“Chỉ có anh thôi.” Cô quay một vòng trong lòng người đàn ông, cuối cùng nhón chân hôn lên khóe miệng anh: “Chọn một ngày đẹp, chúng ta đi đăng ký đi.”
…
Cô cứ nghĩ Thịnh Kinh Lan sẽ chọn ngày gần nhất, nhưng sau đêm đó anh lại không nhắc lại chuyện đăng ký nữa.
Ôn Từ cũng ngại chủ động mở miệng, hai người cứ sống bên nhau như bình thường, ai đi làm việc người nấy.
Bây giờ ngày nào bên ngoài phòng làm việc “Tàng Trân” cũng có bảo vệ đóng giữ, vốn Thịnh Kinh Lan sắp xếp tận hai người, Ôn Từ cảm thấy làm vậy quá nổi bật, còn dễ dọa phải khách nên cuối cùng chỉ để lại một người.
Gần đây nghe chừng Thịnh Kinh Lan còn bận hơn cô, ngày nào cũng tăng ca trong phòng làm việc.
Ôn Từ tan ca sớm, cố ý đến phòng làm việc của anh.
Dụ Dương thấy cô tới thì chỉ thẳng về phía phòng làm việc của Thịnh Kinh Lan, lúc Ôn Từ đi vào thấy anh đang nhét gì đó vào ngăn bàn: “Anh đang làm gì thế?”
Người đàn ông ngẩng đầu, ngồi thẳng dậy, tùy tiện cầm một cuốn sách gì đó bên cạnh lên, nghiêm trang nói: “Đọc sách.”
Ôn Từ nghi ngờ nhíu mày, nghiêng đầu xác nhận bìa sách: “Nhưng mà anh cầm ngược kìa.”
Thịnh Kinh Lan: “…”
Dụ Dương ngồi bên ngoài ngó vào trong hóng hớt được vài câu, nghe thấy cuộc hội thoại của hai người thì suýt nữa cười xỉu.
Đọc sách cái khỉ gì, ngày nào cũng cầm giấy bút ngồi trong đó lặp đi lặp lại một đoạn thư, giấy nháp cũng ném hết tờ này đến tờ khác vào thùng rác.
Anh ta từng tò mò không biết với khả năng của Thịnh Kinh Lan thì sẽ viết được đến đâu, lén lấy mấy tờ xem thử, thế mà Thịnh Kinh Lan lại run tay!
Một đoạn hôn thư ngăn ngắn anh lại viết đi viết lại, khoảng cách giữa các chữ phải bằng nhau, mỗi nét bút đặt xuống đều phải gọn gàng sạch sẽ, không được nhem nhuốc.
Tóm lại, anh không cho phép trên lá thư xuất hiện một chút tỳ vết nào, đến bây giờ cũng chưa dám đặt bút lên vải đỏ.
Bà mối bảo anh: “Tiếp theo là tới đại lễ, cậu Thịnh phải chuẩn bị lời tựa và sính lễ, còn phải mời hai người phụ nữ có phúc phần trong gia đình tới nhà họ Ôn đưa sính lễ cùng tôi.”
Thịnh Kinh Lan nhíu mày: “Sao phải là người thân?”
Bà mối giải thích: “Được thế là tốt nhất, nếu không được thì cũng có thể tìm người khác.
Chỉ cần mấy người họ đều khỏe mạnh, còn cha còn mẹ, có trai có gái, vợ chồng hòa thuận, thì được coi là người có phúc phần.”
“Được.”
Để tìm được người có phúc phần, Thịnh Kinh Lan quấy rầy đám bạn của mình một lượt.
Anh quen biết rộng, muốn tìm người có phúc phần không khó, nhưng tiêu chuẩn tìm người của anh còn nghiêm khắc hơn bà mối, cuối cùng tìm được hai người phụ nữ có phúc phần còn khéo léo giỏi giang.
Một người là nghệ nhân phục chế văn vật của viện bảo tàng, sinh ra trong một gia đình thư hương, cha mẹ khỏe mạnh, anh em hòa thuận, kết duyên với người chồng cũng là nghệ nhân, con trai con gái cũng rất hiếu thảo, có tiền đồ.
Một người khác là phu nhân của một vị quan lớn, gia thế hiển hách, cả đời thuận buồn xuôi gió, người bình thường muốn hẹn bà đi ăn cơm cũng khó, Thịnh Kinh Lan lại mời được cả bà tới.
Đó là một ngày nắng đẹp nào đó của tháng Mười hai, từng chiếc rương đỏ thẫm lục tục được khiêng vào nhà họ Ôn, danh sách sính lễ thật dài, đọc hết nửa tiếng đồng hồ.
Tô Hòa Miêu đứng trong góc tường, không khống chế được mà há miệng thật to: “Này đâu có phải sính lễ, rõ ràng là của cải.”
Những đồ đã từng đưa tới, Thịnh Kinh Lan không chịu mang đi, sính lễ chính thức lần này chỉ có nhiều hơn chứ không hề ít hơn trước.
Tống Lan Chi và Ôn Như Ngọc không còn gì để nói.
Chỉ là Tống Lan Chi có ngầm hỏi đến gia đình anh: “Chuyện của cháu với A Từ, người trong nhà có biết không?”
“Biết một phần ạ.”
“Bà hỏi cháu, cháu có tính đưa Ôn Từ về gặp người lớn trong nhà không?”
Thịnh Kinh Lan chần chờ một lát rồi mới mở miệng: “Bà ngoại, nhà họ Thịnh không giống vậy đâu.”
Chuyện Thịnh Kinh Lan không hòa thuận với gia đình mọi người đã biết từ lâu, chỉ là nhớ tới chuyện năm ngoái Thịnh Kinh Lan đặt may sườn xám cho bà ngoại, Tống Lan Chi cảm giác có tâm như vậy, không giống như không có tình cảm: “Chuyện nhà cháu bà cũng có nghe qua, nhà họ Ôn chúng ta không phải người cổ hủ.
Cháu thấy được thì cứ nói với người nhà, nếu không muốn liên lạc nữa thì sau này cứ coi nhà họ Ôn chúng ta là người nhà.”
Cứ tưởng là sẽ tạo áp lực, kết quả lại cho anh cảm nhận được sự thả lỏng đã lâu không thấy.
Hẳn là tính cách Ôn Từ được di truyền từ bà ngoại, hai người đều cực kỳ bao dung với người nhà.
Tết Nguyên Đán, Ôn Từ với Thịnh Kinh Lan cùng về thành phố Cảnh, họ không đi gặp bất kỳ ai của nhà họ Thịnh mà tới trước bia mộ của ông ngoại, báo cho ông biết tin hai người sắp kết hôn.
Mấy tháng này, bà cụ Thịnh và Nguyễn Cầm không liên lạc với Thịnh Kinh Lan lấy một lần, vì chuyện của Thịnh Cảnh Ngôn nên cả nhà thấy rất có lỗi với anh, còn thấy rất sợ anh, mỗi lần nói chuyện đều vô cùng uyển chuyển, chỉ cần Thịnh Kinh Lan tỏ vẻ hơi cứng rắn một tí, đối phương sẽ rụt lại ngay.
Buổi tối trước khi định về nhà họ Thịnh, Thịnh Kinh Lan khó chịu ra mặt: “Nói thật, anh không muốn đưa em đi gặp mấy người kia lắm, chướng khí mù mịt.”
Ôn Từ thuận theo anh: “Thì thôi không gặp nữa.”
Người đàn ông hỏi: “Em không ngại?”
Ôn Từ lắc đầu, tính cô hiền hòa, cũng phân rõ thân sơ.
Hiếm lắm mới thấy anh rút ra chiếc bật lửa và hộp thuốc như hôm nay, Thịnh Kinh Lan đứng một mình ngoài ban công hồi lâu, chờ mùi khói tan đi mới bước vào: “Thôi, anh đã làm bà cụ mất một đứa cháu rồi, trả lại cho bà một cô cháu dâu vậy.”
Bà cụ ngày càng ốm yếu, bác sĩ gia đình thường xuyên ra vào khu bà ở, ước chừng chỉ còn thời gian cỡ một năm.
Bây giờ bà cụ gần như không ra sân nổi, phần lớn thời gian đều nằm trên ghế hoặc trên giường.
Thịnh Kinh Lan nắm tay Ôn Từ đi đến trước giường bệnh, bà run rẩy muốn ngồi dậy.
Thịnh Kinh Lan bước tới đỡ, bà cụ thuận thế bắt lấy tay anh.
Bà cụ không có sức, anh có thể tránh thoát dễ dàng, nhưng Thịnh Kinh Lan vẫn giữ tư thế ấy, nghe bà cụ chậm rãi nói: “Kinh Lan, cuối cùng cháu cũng chịu về nhà rồi.”
Vốn Thịnh Kinh Lan cũng rất kính trọng bà, nhưng khi nằm trong bệnh viện nghe thấy những câu nói phản bội của người nhà mình, thậm chí anh còn nghi “vốn cưới vợ” mà bà cụ nói cũng chỉ để anh giơ cao đánh khẽ với nhà họ Thịnh.
Cũng chỉ là lợi dụng mà thôi.
Đối với bà cụ, anh thật sự không còn nói nổi những lời làm bà vui lòng nữa.
Thấy tâm trạng bà cụ không tốt, Ôn Từ gọi một tiếng “bà nội” theo Thịnh Kinh Lan, thanh âm ôn hòa mềm mại chui vào lòng: “Cháu với Kinh Lan sắp kết hôn rồi, bà chăm sóc bản thân cho khỏe, tới lúc đó bọn cháu mời bà tới dự đám cưới nhé ạ.”
Nhưng thật ra họ cũng hiểu, thân thể bà cụ không thể chịu nổi tới tháng Năm để đến thành Nam dự đám cưới.
Hai người ở trong viện của bà cụ một lát, lúc rời đi thì nhận ra không biết từ bao giờ, Nguyễn Cầm đã đợi ở bên ngoài.
Nguyễn Cầm: “Về nhà cũng chẳng báo lấy một câu.”
Thịnh Kinh Lan: “Con nói mẹ cũng đâu muốn nghe.”
Hai mẹ con chưa bao giờ gặp nhau mà hòa thuận cả, Nguyễn Cầm hít sâu một hơi: “Mẹ biết hai con đang tính kết hôn, Ôn Từ là một đứa bé ngoan, con không được để con bé chịu thiệt thòi.
Mẹ vẫn còn chút bất động sản…”
Thịnh Kinh Lan giơ tay ngăn lại: “Không cần.”
Anh vẫn nhớ sắc mặt của Nguyễn Cầm lúc nói Ôn Từ là đồ con riêng trong bệnh viện, bây giờ lại đến tặng quà, chẳng khác nào một lời châm chọc.
“Vẫn nên để lại cho con dâu cả của mẹ đi.”
Nhắc tới Thịnh Cảnh Ngôn, sắc mặt Nguyễn Cầm hết trắng lại xanh, nhân tài bà bồi dưỡng nhiều năm lại bị hủy hoại chỉ trong một sớm một chiều.
“Con không có anh cả, Thịnh Cảnh Ngôn đã bị xóa tên khỏi gia phả nhà họ Thịnh rồi.” Khi Thịnh Cảnh Ngôn cầm dao ép Ôn Từ lên sân thượng, nhà họ Thịnh đã không còn dám lưu lại mối họa này nữa.
Nếu không, họ sẽ có lỗi với liệt tổ liệt tông, cũng không sống được dưới miệng lưỡi thế gian.
Thịnh Kinh Lan vỗ tay nói hay lắm: “Nên như vậy từ lâu rồi mới phải.”
Quay về nhà họ Thịnh cứ như là qua năm quan trảm lục tướng, đến người làm bố trước giờ chẳng quan tâm anh chút nào cũng cố ý chạy về nhà một chuyến.
Thịnh Tề Thiên muốn ôn chuyện, lại phát hiện ra kỷ niệm giữa hai người ít đến đáng thương.
“Nghe nói con sắp kết hôn? Định tổ chức ở đâu?