Oleg đưa Sasha đến cửa doanh trại, đứa trẻ quay đầu lại và rời đi.
Cậu quyết định đến Kunduz một mình mà không cần sự giúp đỡ của một ai.
Oleg không ép buộc cậu nữa, mỗi nười đều có số phận riêng, sống chết có số.
Euler hỏi hắn, “Sao không khyên nó, nó vẫn còn quá nhỏ?”
“Không còn nhỏ nữa.” Oleg nói, “Một đứa trẻ ở độ tuổi nó có thể mang bom trong đội du kích rồi.
Bởi vì vẫn luôn trốn trong trại tị nạn, quá trình trưởng thành xem như cũng tạm.
Tuy rằng mất mát gia đình, nhưng thế hệ của chúng, có thể sống sót vốn không nhiều lắm.
Chiến tranh, đói khát, di cư đường dài, bệnh tật, chỉ cần sơ sẩy một chút là có thể khiến họ mất mạng hoặc tàn phế mãi mãi.”
“Anh cứu nó, vốn không phải vì lòng tốt, cũng là vì lợi ích của bản thân.
Bây giờ nó lớn rồi, lẽ anh không nên ích kỷ giữ nó lại.
Tuy rằng nguy hiểm, nhưng đối với nó có khi ở đây cũng không hẳn là chuyện tốt.” Oleg nhăn mũi nheo mắt, “Trại tị nạn không phải là một giải pháp một lần cho tất cả, sớm muộn gì nó cũng sẽ phải ra ngoài trải nghiệm và đối mặt với cuộc sống của chính mình.
Tự nhốt mình ở đây cót eher sẽ đổi lấy một thảm họa lớn hơn.”
Trong lòng Euler có dự cảm không tốt, “Anh cảm thấy trại tị nạn hẳn sẽ không chống đỡ nổi nữa à?”
“Các trại tị nạn đã là một sự quản lý tạm thời cho người tị nạn và không thể là một giải pháp lâu dài.
Cách cơ bản là chấm dứt chiến tranh, phát triển kinh tế và đưa những người này trở về quê hương của họ.
Tổng Bí thư đã đồng ý đình chiến từng bước một, e rằng chiến trăng sẽ sớm kết thúc.” Oleg cúi đầu giẫm lên cái bóng của chính mình, “Mặc dù họ sống sót, nhưng làm thế nào để tiếp tục tồn tại là một điều khó khăn và tàn nhẫn.
Vấn đề của Sasha là nó không có kỹ năng để tồn tại.
Anh đã dạy nó đọc và viế.
Nó cũng có thể giúp làm một số công việc sắp xếp cơ bản trong trại tị nạn, nhưng nó chưa được giáo dục một cách có hệ thống.
Khi chiến tranh kết thúc, nó sẽ rất khó tìm việc để nuôi sống bản thân.
Nếu người thân của nó thực sự làm thợ mộc, ít nhất nó có thể học nghề, không đến mức chết đói.
Đó mới là giải pháp lâu dài cho nó.
Euler buột miệng, “Còn các anh thì sao? Các anh sẽ làm gì khi chiến tranh kết thúc?”
Oleg ngẩn ra, không trả lời cậu.
Euler buồn bã, cậu biết mình lỡ lời.
Oleg quay đầu mỉm cười với cậu, xoa xoa tóc cậu, cố gắng không để lộ cảm xúc chua chát của mình.
Một khhi chiến tranh kết thúc, những người lính không còn vai trò gì.
Liên Xô tuyên bố từ bên ngoài đã điều 100.000 quân đến Afghanistan; con số thực tế đã nhiều hơn.
Chỉ riêng Euler biết con số trong nội bộ là 300.000, trên thực tế có lẽ còn nhiều hơn thế.
Mà con số tử vong lại vượt không biên giới.
Khi chiến tranh kết thúc và những người lính này trở về Liên Xô và giải ngũ, bao nhiêu người trong số họ có thể trở lại cuộc sống bình thường và tìm được một công việc bình thường để nuôi vợ con? Ngoài những khuyết tật về thể chất, liệu họ có thể phục hồi vết thương tinh thần? Liệu Liên Xô có còn chấp nhận họ không? Đây là những vấn đề.
Một mặt, những người lính này đã ở trên chiến trường quá lâu, khái niệm về cuộc sống bình thường đang từ từ lướt qua cơ thể họ, giống như một chiếc gối lông vũ bị tung ra.
Chiến tranh đã rửa sạch tất cả những gì mềm mại bên trong, và họ cần thời gian dài để lấp đầy, nhưng sẽ không bao giờ trở về kết cấu của chiếc gối ban đầu.
Những vết thương do chiến tranh mang lại, cả về thể chất và tinh thần, khó có thể làm ngơ.
Mặt khác, vẫn còn phải xem liệu người dân có chấp nhận họ là những con người bình thường hay không, và kỳ vọng này có thể nói là rất mỏng manh.
Tâm tình phản đối chiến tranh trong nước không cách nào dập tắt nổi.
Người bình thường không cảm thấy những người lính là những anh hùng khải hoàn trở về.
Bọn hẹ đều biết những người này là những kẻ giết người tàn bạo và máu lạnh.
Chó đã cắn người một lần thì không còn đáng tin, huống chi là kẻ đã giết người.
Euler lo lắng cho Oleg, người mà cậu không biết gì về sáu năm nghĩa vụ quân sự của hắn ở Afghanistan, và mặc dù hắn đã cố gắng cư xử bình thường, nhưng tính khí nhạy cảm và nóng nảy của hắn không phải là một dấu hiện tốt.
“Đừng suy nghĩ lung tung.
Anh là sĩ quan chính quy tốt nghiệp trường quân đội, không tuêtj vọng như bọn họ đâu.” Oleg vỗ tay, chuẩn bị đi tắm rửa, “luôn có cách giải quyết mà.”
Euler đuổi theo một bước hỏi, “Vậy anh thì sao? Anh nghĩ thế nào?”
Oleg cười cười, “Nghĩ gì là nghĩ gì.” Hắn bắt đầu lảng tránh vấn đề,” Mỗi ngày trôi qua cũng thế thôi, Chỉ có đám nhà văn các em mới thích tìm hiểu sâu xa mấy chuyện như thế này, ngốc quá, chẳng biết gì cả.”
Hắn đóng sập cửa phòng tắm.
Euler không hài lòng.
Trái tim của Sasha nằm ở tình cảm dân tộc, còn Oleg thì sao? Câu hỏi mà hắn cố trốn tránh trong suốt những năm tháng chiến tranh này là gì?
Trời đã chạng vạng và ánh nắng xiên xẹo đã tắt ngấm.
Akaj trở lại tầng hầm của khu ổ chuột với sự rã rời.
Cậu ào ào kéo cửa, cái “gai độc” kia vẫn đang canh cửa chờ chủ nhân trở về.
Akaj khẽ cười vỗ đầu nói, thì thần, “Xin lỗi, về trễ rồi.”
Cậu ho khan hai tiếng, tìm thấy con thỏ đồ chơi của mình trên chiếc nệm lộn xộn, vùi mặt sâu vào ngực con thỏ và ngửi thấy mùi ẩm mốc của nó, nhưng cảm thấy hơi thoải mái.
Đây là món quà sinh nhật của Buri, hiển nhiên cũng nhặt được từ tay đứa nhỏ nào đó mặt trốn.
Mặc dù bẩn thỉu, nhưng Akaj coi nó như báu vật, mang theo cả ngày, còn ôm nó ngủ.
Mỗi lần bệnh cũ tái phát, con thỏ này cùng cậu trải qua những đêm đau đớn dưới tầng hầm ướt và đón chào ngày mới.
Akaj lấy một lưỡi dao nhỏ từ trong vỏ gối, cậu cất những lưỡi dao này, và trong một khoảnh khắc mạch não rẽ vào cổng trời, cậu cầm lấy lưỡi dao và cứa lên cổ tay mình hai cái, không xác định vị trí động mạch chủ, ánh mắt trở nên trống rỗng, cậu tiếc nuối nghĩ, làm hai nhát là xong chuyện ngay.
“Đừng nghĩ nữa, em yêu,” giọng người đàn ông vọng ra từ ngưỡng cửa, “Không muốn trở về quê hương của mình nữa sao? Em không muốn lần nữa ngồi trên chiếc thuyền tròng trành trên bờ sông Svisloch đến cửa nhà mình à?”
Akaj từ từ buông lưỡi dao xuống, không nói gì.
Khwaja đi qua, khinh thường đá lưỡi dao ra, “Chỉ có kẻ hèn nhát mới tự sát.”
Akaj lắc đầu, “Cũng không hẳn.”
Khwaja cười, “Tất nhiên, Akaj của tôi không phải là một kẻ hèn nhát.”
“Tôi đã lừa anh.” Akaj đứng dậy, lục lọi trong va ly của mình, “Nhà tôi không ở bên bờ sông Sviloch, đó là nơi tôi đi học, anh chưa từng đến Minks phải không? Vào năm 41, khi phát xít chiếm Minsk, chúng đã giết những kẻ bắt cóc và phá hủy toàn bộ thành phố.
Mãi đến năm 44, quân đội Liên Xô mới giải phóng nó.
Khi cha mẹ tôi được sinh ra, Minsk đang được xây dựng lại, mọi thứ đều mới mẻ và sôi động.
Thế hệ của họ siêng năng và dũng cảm, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước, và ngôi nhà của tôi đã được xây dựng lại bởi sự làm việc chăm chỉ của họ.”
Khwaja đứng sau lưng cậu và nghe cậu nói.
“Tất cả những cây cầu bên bờ sông Svisloch đều bị nổ tung sau khi quân Đức tràn qua.
Đất nước lúc đó rất nghèo, cha tôi qua đời trong một vụ tai nạn xây dựng khi cố gắng xây dựng lại cây cầu.
Cây cầu mà ông ấy xây là cây cầu mà tôi phải đi qua mỗi ngày để tới trường.
Ngày còn nhỏ mẹ tôi đã nói với tôi rằng cha tôi là một kiến trúc sư và một anh hùng của Minsk.
Ông đã hy sinh, nhưng kể từ đó tất cả trẻ em của Minsk đều có thể đến tường.
Chính phủ Minsk đã trao tặng Huân chương Lao động cho cha tôi, và sáng nào mẹ cũng đưa cho tôi xem để động viên tôi đi học”, cậu nói.
Cuối cùng, cậu lấy ra một danh sách những cái tên từ vali của mình và tự hào khoe nó với Khwaja, “Tôi thực sự không có nhiều ấn tượng về cha mình, cũng không có nhiều tình cảm.
Tôi biết anh hùng như thế nào, nhưng tôi không biết cha tôi là người như thế nào.
Lớn lên, tôi bắt đầu ghét hình ảnh anh hùng, tôi muốn có một người cha, không muốn một anh hùng.
Cho nên tôi rời khỏi Minsk, đi Leningrad, sau đó lại đến Afghanistan, sau đó…”
Cậu dừng lại và nhìn Khwaja với ánh mắt kỳ lạ và hỏi, “Anh đã xây cầu chưa, Khwaja?”
Khwaja lấy danh sách từ trong tay cậu, “Không.
Tôi đã cho nổ tung những cây cầu,”
“Chậc, cũng không lạ