Ngoại truyện nhỏ thứ tư: Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên.
Tác giả: Thiên Địa Linh Linh.
***
Đầu hạ, thời tiết vẫn còn tương đối dễ chịu. Từng làn gió tươi mát nhè nhẹ thổi, lay động mặt hồ xanh biếc. Pháp Loa khoác bên ngoài một chiếc áo vải lanh đơn giản màu xám khói, trên tay cầm đôi ba quyển sách, thong thả bước vào Toát Trai (*).
(*) Toát Trai: nhà học của Đông cung Thái tử.
Hắn vốn chỉ lên Kinh thành giải quyết mấy công chuyện vặt vãnh, kết quả lại được Quan gia mời vào cung, nhờ dạy học cho Thái tử ít hôm.
Trần Mạnh đã đến đây từ sớm. Nó là một đứa trẻ thông minh, nhưng cũng như đa số những đứa trẻ khác, không mấy hứng thú với chuyện học hành. Pháp Loa ngồi xuống đối diện Trần Mạnh, mỉm cười hỏi:
"Lần trước chúng ta học về chân lý đầu tiên của Tứ Diệu đế, đó là khổ đau. Tam khổ có vẻ dễ nhớ rồi, vậy Thái tử có thể nhắc lại một chút về Bát khổ không?"
Trần Mạnh gật đầu: "Được, thầy từng nói rằng, bản chất của nhân sinh là khổ. Nỗi khổ do con người tự gây nên trong cuộc sống của mình. Vì vậy, bát khổ bao gồm: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán tăng hội khổ (ghét nhưng vẫn phải ở cạnh nhau), sở cầu bất đắc khổ (cầu mà không được), ngũ uẩn khổ..."
Trần Mạnh đọc rất có trình tự, còn giơ ngón tay ra đếm đếm, cuối cùng nhíu mày: "Chờ đã, sao lại thiếu mất một ý?"
Pháp Loa không vội, để cho Trần Mạnh từ từ nhớ lại. Tuy nhiên, chẳng bao lâu liền có người ngoài cửa nóng nảy, mất kiên nhẫn chen mồm vào: "Hừ, là ái biệt ly khổ (yêu mà không đến được với nhau)."
Trần Mạnh bừng tỉnh đập tay: "A! Phải! Còn thiếu ái biệt ly khổ!"
Thuấn Thần đứng ngoài cửa, lông mày nhướng cao, khóe môi hơi nhếch, khoanh tay kiêu ngạo bước vào. Trần Mạnh nhận ra đó là nàng, mặt thoắt cái trở nên khó chịu. Từ sau lần bị chính cha ruột của mình ghen tuông vô cớ kia, thiện cảm của Trần Mạnh đối với nàng vô cùng thảm hại mà tụt xuống âm điểm.
Thuấn Thần phá lệ khen ngợi: "Những kiến thức này so với trí tuệ của một đứa trẻ bảy tuổi, có thể thuộc được là đã rất giỏi rồi. Còn để hiểu được thì phải mất chút thời gian."
Trần Mạnh lườm nàng: "Không có việc gì làm cũng đừng chạy tới đây gây rối."
"Thái tử, thần nào phải muốn gây rối. Thần chỉ là tuân lệnh Quan gia tới kiểm tra việc học tập của Thái tử."
"Hừ, chẳng biết là đại thần hay thái giám. Y như chân chạy vặt."
Thuấn Thần rất muốn chỉnh đốn lại cái miệng của tên nhóc con này, nhưng vì có chuyện gấp, nên giả bộ không nghe thấy mà quay sang nói với Pháp Loa:
"Quan gia có tặng ngài một ít vàng bạc để tu sửa lại chùa và làm phúc cho người nghèo, dặn ngài đến lĩnh ngay. Vì sợ mấy hôm nữa ngân khố hỗn loạn, muốn lấy lại phải thủ tục rườm rà, rất mất thời gian."
Pháp Loa ngạc nhiên: "Có chuyện gì sao?"
Thuấn Thần phẩy tay đầy phiền muộn: "Sáng nay sẽ có đoàn sứ thần của Đại Nguyên sang, do Thượng thư An Lỗ Khôi dẫn đầu, nghe nói là để báo tin Hoàng đế của bọn họ lên ngôi. Nước chúng ta cũng phải cử người sang Nguyên đáp lễ, nên quà mừng cần phải chuẩn bị thật khẩn trương. Mấy ngày nữa, bên ngân khố sẽ nhộn nhịp lắm."
Cho dù bằng mặt không bằng lòng, chiến tranh hai nước mới kết thúc được hơn hai mươi năm, nhưng vẫn phải bắt tay nhau tươi cười tỏ vẻ thân thiết. Đây là cách diễn giải thẳng toẹt của chính sách ngoại giao mềm dẻo.
Pháp Loa lại hỏi: "Chẳng hay lần này ai dẫn đầu đoàn sứ nước ta sang Nguyên vậy?"
Thuấn Thần cười cười: "À, ngài có từng nghe qua về Trạng Nguyên Mạc Tiết Phu chưa?"
***
Lúc Trần Thuyên đề cử Mạc Đĩnh Chi, quan lại trên triều vừa mừng vừa lo.
Là người mang gương mặt đại diện cho cả dân tộc đi giao lưu với ngoại bang, tuy chẳng cần đẹp xuất sắc nhưng cũng không thể quá quái dị được. Mà một bên mặt bị gỗ cháy rơi trúng kia của Mạc Đĩnh Chi thật là...
Được rồi, coi như Mạc Đĩnh Chi tài hoa tuyệt thế, vậy mà về mặt đánh đấm thì một chút cũng không biết, nhìn thế nào cũng chỉ thấy dáng vẻ thư sinh mềm yếu. Đại Việt vốn mang danh xưng thượng võ, cử một người như vậy đi chỉ sợ sẽ bị đối phương khinh thường.
Tuy nhiên, dù sao cũng là kẻ được đích thân Quan gia đề bạt, mọi người cuối cùng đều lựa chọn nhất mực tin tưởng. Quyết định của Quan gia đôi khi táo bạo, nhưng đến cuối cùng mới biết được rằng thập phần sáng suốt.
***
Liễu Khang làm quan trấn ải Pha Lũy đã ngót nghét mười năm nay. Tuy là hạng võ biền, nhưng đối với văn chương lại vô cùng hứng thú. Khi nghe nói dẫn đầu đoàn sứ giả của Đại Việt là một Trạng Nguyên, Liễu Khang có đi tìm hiểu qua, sau đó liền biết tới bài phú "Ngọc tỉnh liên". Từ ấy, ông ta ngày đêm khao khát gặp vị Trạng Nguyên nổi tiếng này, hi vọng sẽ được thỉnh giáo đôi điều.
Trời vừa sáng, Liễu Khang đã giật mình tỉnh dậy. Ông ta mau chóng chải tóc, mặc y phục chỉnh tề, đi đi lại lại trên đài quan sát trông ngóng. Thời tiết hôm nay không tốt, mây đen kết thành từng tầng dày đặc, sấm nổ ì ùng. Chẳng mấy chốc, trời đổ mưa rào.
Liễu Khang đợi mãi, đợi mãi. Tâm tình từ hứng khởi dần biến thành thất vọng rồi cuối cùng là nổi giận đùng đùng. Rõ ràng thông báo sáng nay sẽ tới, nhưng đợi đến tận lúc mặt trời lặn vẫn chẳng thấy người đâu.
Liễu Khang phẫn nộ, sai người đóng cổng thành.
Nhưng ngay khi ông ta vừa thổi tắt nến, đặt lưng nằm xuống giường thì lính canh hộc tốc chạy tới báo, đoàn sứ giả đã tới nơi rồi!!
Đến vào cái giờ khỉ ho cò gáy này, chẳng lẽ có âm mưu gì sao?
Liễu Khang dặn dò binh lính phòng ngự cẩn thận rồi mới khoác áo đi lên đầu thành. Lính canh thấy ông ta thì hành lễ, sau đó đưa tay chỉ về phía người dẫn đầu đoàn sứ giả này. Liễu Khang nheo mắt nhìn kĩ, rốt cuộc thấy được một tên thư sinh dáng vẻ gầy yếu, tóc tai xơ xác, gương mặt dưới chiếc khăn đội đầu toát ra thần sắc ảm đạm.
Người này rốt cuộc là được đi sứ hay bị đi đày vậy?
Liễu Khang thầm ghét bỏ trong lòng, cất giọng hô lớn: "Đoàn sứ giả tới trễ, cổng thành Pha Lũy đã đóng rồi, mời đợi tới sáng mai."
Vài giọt mưa lại bắt đầu lác đác rơi xuống. Mạc Đĩnh Chi hơi ngẩng đầu nghe người phía trên nói, thời điểm này đáy lòng có thể hình dung là tĩnh lặng như đêm đen.
Không lẽ hắn bị Thuấn Thần nhập?
Giai đoạn đầu tinh thần thật phấn khởi biết bao. Đồ cống tiến hoàn thành trước thời hạn, lại được cấp thêm lộ phí, lúc đứng trước toàn triều báo cáo tiến độ Mạc Đĩnh Chi còn tưởng mình có thể nhún mông nhảy chân sáo chạy ra ngoài ấy chứ!
Quả nhiên niềm vui ngắn chẳng tày gang. Đoàn sứ giả đi giữa đường thì gặp thổ phỉ, cũng may binh lính Đại Việt ai nấy đều hiếu võ thiện chiến, nhanh chóng xử lý gọn gàng, còn thuận tay cứu thêm được hai mạng người bị đám thổ phỉ đó bắt đi. Mạc Đĩnh Chi tiến đến nhìn, sau đó há mồm bật ngửa suýt nữa thì gãy cả cổ.
Hai người bị đám thổ phỉ đó bắt cóc chẳng phải ai xa lạ: Trần Mạnh - Đông cung Thái tử và Quả Dưa Nhỏ - Ý Trinh Công chúa.
Chuyện là Trần Mạnh nhân buổi tối trời đánh lừa cung nữ rằng mình đang ngủ, sau đó trốn ra ngự hoa viên phía Tây cung Bảo An dạo mát thì tình cờ nghe thấy tiếng khóc, lần theo liền phát hiện Quả Dưa Nhỏ đang bò lăn lê bên thềm đình, cạnh cung nữ sõng soài bất động.
Tên nhóc bảy tuổi xanh mặt, vội vàng tới kiểm tra xem xét. Dường như cung nữ chỉ là vấp ngã nên ngất đi.
Quả Dưa Nhỏ bò dưới đất há miệng khóc: "A... A..."
Trần Mạnh giật mình, vội chạy đến ôm con bé lên, nhưng dỗ mãi cũng không nín. Trần Mạnh đành đi loanh quanh chỉ trỏ đủ thứ cho Quả Dưa Nhỏ, thế nào lại phát hiện ra một cái khe nhỏ vừa đủ cho người lớn chui qua.
Nó bèn hứng khởi: "Nhỏ tiếng thôi, để anh đưa em cùng ra ngắm nhìn thế giới bên ngoài."
Lý tưởng mới nghe qua thật vĩ đại và cảm động, nhưng còn chưa kịp đi sâu vào thực tiễn thì đã bị thế lực hắc ám đánh cho tan tác.
Hai đứa trẻ quần là áo lụa nhanh chóng rơi vào tay bọn buôn người.
Đám kẻ xấu này hí hửng đi đường sông ngay trong đêm để đem Trần Mạnh và Quả Dưa Nhỏ tới nơi tập trung. Từ sông tới huyện phải băng qua rừng, cuối cùng giữa rừng lại bị thổ phỉ chặn cướp. Cũng nhờ sự tham bát bỏ mâm của đám thổ phỉ, hai đứa trẻ mới an toàn trở lại tay của quân đội triều đình.
Bấy giờ đã là ngày thứ ba.
Mạc Đĩnh Chi nghe tường thuật tóm tắt câu chuyện, đoạn cuối còn tua vèo vèo, nhưng vẫn cảm thấy như bản thân đang xem hát tuồng. Cốt truyện sơ lược mà kịch tính, tình tiết biến hóa khôn lường.
May mà đám buôn người đi đường tắt, may mà đội ngũ sứ giả của bọn họ đi chậm. May mà vừa vặn gặp được nhau. Hoàng cung hiện giờ hẳn là loạn thành cào cào.
Không yên tâm để những binh lính Đại Việt thật thà chất phác chưa vợ không con áp giải đám tiểu yêu quay về, Mạc Đĩnh Chi đành khóc ròng mang chúng theo, soạn một bức thư đe dọa Thuấn Thần mau chóng đến ôm con về.
(*) Trong lịch sử, do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng Mạc Đĩnh Chi, nên thử tài bằng câu đối:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
Nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Ông đã đáp lại:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.
Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng.
(Đọc Theo dòng lịch sử phần 10 để biết thêm chi tiết).
***
"Tổng trấn, xin ngài rộng lượng tha thứ. Trên đường đoàn chúng ta gặp chút chuyện, hành trình bị chậm lại. Thêm trời mưa, lối đi gập ghềnh khúc khuỷu, vốn dự định đến từ sáng sớm, cuối cùng lại tối mịt mới tới nơi. "
Mưa nặng hạt hơn, Mạc Đĩnh Chi cố gào lên nói cho rõ ràng xong thì cũng hết hơi, thở hồng hộc, ho khù khụ.
Liễu Khang vốn là người nhân hậu, cũng không đành lòng nhìn vị sứ giả yếu ớt kia dầm mưa cả đêm. Người ta đã mệt mỏi suốt dọc đường, ngày kia lại phải tiếp tục đi Đại Đô (*). Ông đã mủi lòng rồi, nhưng vẫn không cam chịu khi thấy tượng đài trong lòng mình sụp đổ, bèn ngoan cố vớt vát:
(*) Đại Đô: Kinh đô của nhà Nguyên.
"Được thôi, nghe danh Trạng Nguyên Đại Việt đã lâu, hôm nay bản quan ra một câu đối. Nếu ngài đối được, bản quan sẽ ngay lập tức mở cổng thành."
Mạc Đĩnh Chi thở phào, thoải mái gật đầu: "Được."
Liễu Khang vuốt vuốt râu, lát sau mỉm cười đọc lên: "Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan (*)."
(*) Dịch nghĩa: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Mạc Đĩnh Chi trong lòng lặng lẽ hú hét. Nếu có Thuấn Thần ở đây, nàng sẽ giúp mọi người phiên dịch: Câu cho điểm!!! Yeeeee!!!
Hắn chẳng thèm làm bộ nghĩ ngợi, một giây sau đã nói toạc ra: "Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (*)."
(*) Dịch nghĩa: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, mời tiên sinh đối trước.
Liễu Khang đầu tiên là đờ đẫn, sau đó như bừng tỉnh. Quả không hổ danh Trạng Nguyên, khiến ông tâm phục khẩu phục. Cuối cùng, Liễu Khang run run chỉ huy binh lính lập tức mở cửa ải đón sứ bộ, khi quát lên giọng còn lạc đi.
***
Các đoàn sứ bộ đến chúc mừng vua Nguyên lần này ngoại trừ Đại Việt ra thì còn có Nhật Bản, Cao Ly, Chiêm Thành, Miến Điện và một số nước chư hầu lân cận khác.
Đông vui nhộn nhịp như vậy, nhưng nếu triều đình cảm thấy buồn chán cần tìm người để gây khó dễ, thì đó là Mạc Đĩnh Chi.
Thực ra tính cách của Mạc Đĩnh Chi là vậy, ghét phiền phức, cũng không thích chủ động kết giao. Cho nên từ xưa đến giờ, bạn bè xung quanh hắn cũng chẳng có mấy ai. Mọi người lại nghĩ Mạc Đĩnh Chi tự ti về ngoại hình của mình, nên càng tỏ thái độ dửng dưng xa cách.
Nguyên do mấu chốt thì ai cũng biết, cường quốc mà bọn họ đang đến thăm đây, từng nhăm nhe định thôn tính rồi bị đánh cho tan tành xác pháo tới ba lần bởi đất nước bé tin hin của Mạc Đĩnh Chi.
Nhưng thân là sứ giả một nước, Mạc Đĩnh Chi cảm thấy bản thân vẫn cần biểu hiện tích cực một chút. Cho nên hôm nay, hắn đã nhận lời mời tới thăm phủ Tể tướng.
Chướng ngại duy nhất, là vị Thái tử nào đó cứ nằng nặc đòi đi cùng.
"Đi mà đi mà!! Mấy ngày nay ở trong phủ buồn chán muốn chết, cho ta theo ra ngoài xem với. Ta phải mở mang tầm mắt trước khi bị Phụ hoàng cấm túc vì chuyện lần này mới được."
Trần Mạnh giật giật tay áo Mạc Đĩnh Chi, sốt sắng nói. Đáp lại, Mạc Đĩnh Chi chỉ cười khẩy: "Thái tử, bây giờ mới biết sợ à? Nếu hai chúng ta cùng đi, ai sẽ ở nhà trông chừng Công chúa đây?"
"Vậy thì cho Quả Dưa Nhỏ theo cùng. Con bé xinh xắn đáng yêu như vậy, chắc chắn sẽ không có ai nỡ làm khó nó đâu."
Quả Dưa Nhỏ vốn đang ngủ, nghe gọi đến tên mình liền chớp chớp đôi mắt to tròn tỉnh dậy, đưa hai tay quơ quơ trong không trung đòi bế.
Mạc Đĩnh Chi thở dài, lại lo lắng dặn dò lần cuối: "Nhất định không được gây chuyện, nếu không có đánh chết thần cũng không mang người theo nữa đâu!"
Trần Mạnh khẳng định chắc nịch: "Được!"
***
Mạc Đĩnh Chi để Trần Mạnh cùng Quả Dưa Nhỏ ở lại khách sảnh, bản thân thì theo Tể tướng đi thăm thú trong phủ. Trước khi đi, hắn còn không ngừng nháy mắt ra hiệu cho Trần Mạnh, bảo nó ngoan ngoãn một chút. Trần Mạnh lười nhác phẩy phẩy tay, tỏ vẻ đã biết rồi.
Trời vào hạ, sen trong hồ đương độ nở hoa, xinh đẹp thuần khiết. Trước cửa sổ lớn treo một bức trướng (*) mỏng, gió từ bên hồ thổi đến mát mẻ vô ngần. Trần Mạnh nhìn qua, thấy bức trướng thêu hình con chim sẻ đậu trên cành trúc bằng chỉ vàng, rất tinh xảo, liền hào hứng tới xem.
(*) Trướng: bức màn che thường làm bằng lụa, vải, trên có thêu chữ hoặc hình.
Ông lão quản gia thấy vậy, liền cười cười nói: "Công tử đây tuổi còn nhỏ mà có con mắt thật tinh đời. Bức trướng đó là vật quý, do một vị hoàng thân ban tặng. Lão gia cố tình đặt ở vị trí này, khi gió nổi lên, bức trướng lay động, trông giống như là chim sẻ đang bay vậy."
Trần Mạnh đồng tình ngắm nghía hồi lâu, mãi sau mới nhớ tới Quả Dưa Nhỏ, bèn quay ra nhắc nhở: "Bé con, ăn ít dưa hấu thôi, sẽ bị lạnh bụng đó."
Quản gia ngại ngùng: "Ôi, lão bất cẩn quá! Để lão sai người cất đĩa dưa hấu xuống, rồi dặn dò nhà bếp làm chút bánh rán cho tiểu thư."
Trần Mạnh gật đầu, bế Quả Dưa Nhỏ về phía bức trướng, chỉ tay: "Xem này, đây là chim sẻ. Thêu rất khéo, em có nhìn ra không?"
Công chúa nhỏ cầm miếng dưa hấu, hai má bầu bĩnh dính đầy nước dưa, bộ dạng có chút ngốc. Con bé bất chợt giơ hai tay đập vào bức trướng, reo lên: "In!"
Trần Mạnh nghiêm túc sửa lại: "Chim."
"In!"
"Chim."
"In!"
"Hầy sao cũng được... Á! Quả Dưa Nhỏ, em