Đúng là một tấm biển bằng đồng có ghi rõ hàng chữ “Đơn vị Q” đã được gắn lên cửa, nhưng cánh cửa hỏng bản lề đang được dựng sát tường, tựa vào cụm ống dẫn nước nóng trung tâm chạy dọc theo hành lang dài bất tận của tầng hầm.
Một chục thùng sơn vơi quá nửa có mùi nồng nặc vẫn đang nằm la liệt trong căn phòng sẽ trở thành phòng làm việc của anh.
Trên trần treo lủng lẳng bốn bóng đèn huỳnh quang thế hệ cũ, loại đèn phát ra tiếng ồn làm cho người ta nhức đầu chỉ sau một thời gian ngắn.
Nhưng các bức tường thì không có gì phải chê trách, ngoại trừ màu sắc của chúng gợi liên tưởng đến vách tường của một bệnh viện Đông Âu.- Hoan hô Marcus Jacobsen.
- Carl làu bàu trong lúc cố gắng đánh giá tổng thể về hoàn cảnh mới của mình.Trên cả trăm mét cuối cùng của hành lang tầng hầm, anh chẳng thấy ma nào.
Không một bóng người, không một chút ánh sáng ban ngày hay không khí tươi mát, không có gì giúp cho nó khác với Quần đảo Gulag.
Có ví von nó như tầng địa ngục thứ tư thì cũng là lẽ tự nhiên.Carl đưa mắt nhìn hai chiếc máy tính mới tinh và mớ dây nhợ gắn với chúng.
Có vẻ như đường truyền dữ liệu đã được chia ra làm hai, theo đó một chiếc được nối với mạng nội bộ, và chiếc còn lại nối với mạng toàn cầu.
Carl vỗ vỗ chiếc máy tính thứ hai.
Ở đây, anh có thể ngồi hàng giờ lướt mạng tùy thích.
Không có những quy định vớ vẩn về an ninh mạng hay bảo vệ máy chủ.
Chí ít đó cũng là một cái được.
Anh tìm một cái gạt tàn, rồi gõ lấy một điếu thuốc ra khỏi bao.
“Hút thuốc đặc biệt nguy hại cho sức khỏe của bạn và những người xung quanh”, trên bao thuốc lá được ghi như thế.
Anh nhìn quanh.
Vài ba con mối lai vãn dưới này có thể xoay xở được với mối nguy hiểm đó.
Rõ ràng việc một mình một cõi cũng mang lại những ưu điểm nhất định.“Chúng tôi sẽ gửi các vụ án xuống dưới đó cho anh”, Marcus đã nói như thế.
Nhưng trên bàn làm việc chẳng hề có bóng dáng một tờ giấy A4 nào, các kệ sách cũng trống không.
Chắc họ nghĩ anh cần thời gian để ổn định mọi thứ.
Nhưng Carl không lấy đó làm phiền.
Anh sẽ không làm việc chừng nào chưa có hứng.
Carl đẩy chiếc ghế lại chỗ bàn làm việc, ngồi xuống, rồi gác chân lên một góc bàn.
Đó là cách anh ngồi trong phần lớn thời gian nghỉ phép hoặc nghỉ ốm.
Trong vài tuần đầu tiên được ở nhà, anh chỉ ngồi nhìn vào khoảng không, hút thuốc và cố không nghĩ tới cơ thể nặng nề bất động của Hardy hoặc tiếng thở khò khè hấp hối của Anker.
Sau đó anh lướt mạng.
Một cách vô mục đích và không có hoạch định, chỉ cố để làm tâm trí tê dại.
Đó chính là điều mà anh dự định làm bây giờ.
Carl nhìn đồng hồ.
Anh có khoảng năm tiếng ngồi giết thời gian trước khi về.Carl sống tại Allerod, theo sự lựa chọn của vợ anh.
Họ dọn đến đây vài năm trước khi cô ta bỏ anh và dọn đến căn nhà nhỏ trong khu vườn tập thể ở Islev.
Hồi đó, sau khi quan sát bản đồ Zealand, cô ta nhanh chóng nhận ra rằng nếu muốn có tất cả, bạn cần có thật nhiều tiền trong ngân hàng, hoặc là dọn đến Allerød.
Thị trấn nhỏ xinh này nằm ven đường tàu hỏa, giữa những cánh đồng, với khu rừng “nằm trong tầm dạo bộ” như họ ca ngợi.
Allerød có nhiều cửa hiệu duyên dáng, một rạp chiếu phim, một rạp hát, sự giao tế xã hội, và trên hết là khu dân cư Rønneholt Park.
Vợ của Carl thích mê.
Với một khoản tiền hợp lý, họ có thể mua một ngôi nhà bán lắp ghép xây bằng gạch xỉ, với không gian thoải mái cho hai vợ chồng và thằng con riêng của vợ anh.
Họ cũng có quyền sử dụng sân tennis, hồ bơi trong nhà, và một nhà cộng đồng.
Đó là chưa kể đến những đồng lúa, một cái đầm ở gần đó, cùng rất nhiều hàng xóm thân tình.
Bởi vì cô ta đọc thấy tại Rønneholt Park mọi người đều quan tâm đến nhau.
Lúc đó Carl chẳng bận tâm lắm đến điều này, vì có ai lại đi tin vào những lời quảng cáo kiểu đó bao giờ? Nhưng về sau hóa ra đó lại là một yếu tố quan trọng.
Không có đám bạn bè ở R0nneholt Park, chắc anh đã gục ngã theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Đầu tiên là vợ anh bỏ đi.
Sau đó, cô ta quyết định không ly dị, mà chỉ lấy căn nhà nhỏ ở khu vườn tập thể.
Sau đó, cô ta cặp kè với cả đống trai trẻ, và có thói quen rất tệ hại là gọi điện cho Carl để kể lể với anh về bọn họ.
Tiếp đến, thằng con trai của cô ta không chịu ở chung với mẹ trong cái nhà canh vườn nữa, thế là giữa giai đoạn khủng hoảng tuổi dậy thì, nó dọn về sống với bố dượng.
Cuối cùng, vụ nổ súng ở Amager đã đột ngột xóa đi mọi thứ mà Carl từng bám víu vào để tồn tại: một mục đích sống vững chắc, và hai người đồng đội chịu đựng được tính cách khó chiều của anh.
Quả thực, nếu không có Ronneholt Park và những người sống quanh đó, chắc anh đã không gượng dậy nổi.Khi về đến nhà, Carl dựng chiếc xe đạp cạnh cái lán nhỏ ở phía ngoài nhà bếp.
Anh biết hai người kia đều có nhà.
Như thường lệ, Morten Holland, người thuê nhà của anh, đang bật to hết cỡ đĩa nhạc opera dưới hầm, trong khi tiếng nhạc heavy metal như sấm rền của thằng con trai anh vọng xuống từ một cửa sổ trên gác.
Một kết hợp âm thanh không thể tìm thấy ở nơi đâu trên trái đất này.Carl liều mình băng qua địa ngục âm thanh và giậm chân hai cái trên sàn nhà.
Tiếng nhạc của vở Rigoletto dưới hầm lập tức nhỏ lại.
Với thằng con trai ở trên gác thì không đơn giản được như thế.
Carl nhảy ba bước lên lầu và chẳng buồn gõ cửa phòng thằng nhỏ.- Jesper, vì Chúa! Sóng âm đã làm vỡ hai kính cửa sổ ở Pinjevangen.
Con sẽ là người phải đền tiền cho người ta! - Anh hét to hết cỡ.Thằng bé đã từng nghe câu chuyện này trước đây nên nó chẳng buồn nhúc nhích, cứ thế còng lưng ngồi trước bàn phím máy tính.- Ê này! - Carl hét thẳng vào tai nó.
- Vặn nhỏ nhạc ngay, nếu không dượng sẽ cắt cáp ADSL! Phản ứng mạnh của anh lập tức thu được kết quả.Ở dưới nhà, Morten đã bắt đầu bày đĩa lên bàn ăn trong bếp.
Một người hàng xóm nào đó đã đặt biệt dành cho Morten là bà mẹ kế của nhà số 73, nhưng không phải vậy.
Morten không phải là một người thay thế.
Anh chàng là một người nội trợ thực sự, và là người tốt nhất mà Carl từng gặp.
Morten đảm trách việc mua sắm nhu yếu phẩm, giặt giũ, nấu bếp, dọn dẹp, với những khúc ca opera luôn véo von trên đôi môi nhạy cảm của mình.
Và trên hết, anh còn trả tiền thuê nhà nữa.- Hôm nay cậu có tới trường đại học không? - Carl hỏi dù đã biết trước câu trả lời.Ba mươi ba tuổi, suốt mười ba năm qua Morten đã miệt mài học tất cả những môn học nằm ngoài những thứ có liên quan trực tiếp với ba ngành học mà anh chàng chính thức theo đuổi.
Kết quả là một kho kiến thức đáng nể về mọi thứ, ngoại trừ những cái mà Morten được cho tiền để học và trong tương lai sẽ là cái cần câu cơm của anh.Morten quay tấm lưng bồ tượng về phía Carl và nhìn lớp bọt lăn tăn trong cái nồi đặt trên bếp.- Em đã quyết định học môn khoa học chính trị.Morten đã từng nhắc đến điều này trước đây.
Việc anh quyết theo đuổi môn học này chỉ là vấn đề thời gian.- Chúa ơi, Morten, cậu không nghĩ mình nên học kinh tế cho xong cái đã hay sao? - Carl buột miệng hỏi.
Morten rắc chút muối vào nồi và bắt đầu khuấy.- Hầu hết mọi người trong ngành kinh tế đều bỏ phiếu cho các đảng cầm quyền, em thì không giống như thế.- Làm thế quái nào cậu biết được? Cậu thậm chí chưa bao giờ đến lớp mà, Morten.- Em mới vừa đi học hôm qua.
Em đã pha trò về Karina Jensen với mấy người bạn cùng lớp.- Chế giễu một chính trị gia xuất thân từ phe cực hữu nhưng lại gia nhập đảng Tự do á? Cũng không khó lắm nhỉ?- “Bà ta là ví dụ điển hình của một con mụ chưa tiến hóa hoàn chỉnh đằng sau vỏ bọc trí thức”, em đã nói như thế.
Và chẳng ai cười cả.Morten đúng là khác biệt.
Một cậu trai tân to xác, ái nam ái nữ, có các mối quan hệ cá nhân gói gọn trong vài lời trao đổi với những người mua hàng ngẫu nhiên ở siêu thị về những thứ họ mua.
Đại loại như là rau chân vịt đông lạnh liệu có ngon nhất khi nấu với sốt kem hay không.- Không ai cười thì có gì là quan trọng, hả Morten? Có hàng đống lý do cho chuyện đó.
Tôi cũng không cười, và tôi không bỏ phiếu cho các đảng cầm quyền, nếu cậu muốn biết.
- Carl lắc đầu.
Anh biết có nói nữa cũng chẳng ăn thua.
Nhưng chừng nào Morten còn có được khoản thu nhập kha khá từ cửa hàng cho thuê phim nơi cậu ta làm việc, thì chuyện học hay không học cái gì chẳng hề quan trọng.
- Khoa học chính trị ấy hả? Nghe có vẻ chán.Morten nhún vai trong khi cắt vài củ cà rốt rồi bỏ vào nồi.
Anh chàng không nói không rằng một lúc, một chuyện khá là bất thường.
Carl đoán ra ngay trước khi Morten nói tiếp.- Chị Vigga đã gọi điện.
- Morten nói với một chút lo lắng.
Thường thì anh chàng sẽ chêm vào câu nói đùa bằng tiếng Anh: “Đừng bắn em.
Em chỉ là thằng chơi đàn”.
Nhưng lần này Morten không nói thêm gì hết.Carl không đáp.
Nếu Vigga muốn gì đó từ phía anh, cô ta sẽ chờ cho đến khi anh về nhà mới gọi điện thoại.- Em nghĩ chị ấy bị lạnh trong cái chòi canh vườn đó.
- Morten vừa đoán vừa khuấy cái thìa trong nồi.Carl quay lại đối diện với Morten.
Nó có mùi rất ngon, thứ mà anh chàng đang nấu trên bếp.
Đã lâu anh không thấy thèm ăn như thế.- Bị lạnh á? Có lẽ cô ta nên tống vài gã tình nhân no đủ vào trong lò sưởi thay cho củi.- Hai người đang nói chuyện gì vậy? - Một giọng nói vang lên từ ngưỡng cửa.Sau lưng Jesper, tiếng nhạc ồn ào từ trên lầu dội xuống, làm rung chuyển các bức tường hành lang.
Thật may mắn là họ không thể nghe thấy nhau.Carl dành ba ngày ngó nghiêng trên Google và quan sát các bức tường trong phòng làm việc dưới hầm.
Anh đã học thuộc lòng lộ trình đi tới buồng vệ sinh, và cảm thấy nhẹ nhõm hơn bao giờ hết.
Sau đó, anh đếm được bốn trăm năm mươi hai bước trên quãng đường lên tới đội trọng án ở tầng hai, lãnh địa của các đồng nghiệp cũ.
Anh sẽ yêu cầu đám thợ hoàn tất công việc còn dang dở dưới hầm và lắp lại cánh cửa vào bản lề, để chí ít còn có cái mà dập mạnh khi cần.
Sau đó anh sẽ nhắc khéo trên kia là mình chưa nhận được các hồ sơ vụ án như đã được hứa hẹn.
Chẳng phải anh vội gì, nhưng Carl không muốn mất việc trước cả khi bắt đầu làm.Carl tưởng các đồng đội cũ sẽ nhìn mình chòng chọc một cách tò mò khi anh bước vào khu vực