Sau khi Trịnh Hoài Sơn rời khỏi quán trà của Lãng Khách, anh ta làm ba việc. Một, sai tiểu đồng Thanh Khánh của mình chạy đi mua ba cái hộp gỗ nhỏ kiểu dáng khác nhau. Hai, viết ba lá thư, sau đó đặt chúng cùng với một xấp ngân phiếu vào từng hộp. Ba, cầm theo ba cái hộp đi đến U Miếu ở sau quán trà.
Trước mặt Trịnh Hoài Sơn có một hàng chừng bảy tám người chờ tới lượt mình vào U Miếu. Gọi là U Miếu, thực tế đây chỉ là một căn phòng nhỏ chứa được ba bốn người, trong đó chất vài pho tượng ma quỷ kỳ dị. Tới lượt ai cúng viếng, người đó sẽ đặt cái hộp của mình vào một hốc nhỏ phía dưới bệ thờ.
Trịnh Hoài Sơn dặn dò tiểu đồng của mình chờ tới lượt, bản thân lại thong thả đi vòng vòng kinh thành vui chơi.
Nói về Trịnh Hoài Sơn, lại là nói về một truyền kỳ của kinh thành trong mấy năm qua. Xét tài năng, anh ta thi đỗ trạng nguyên năm mười tám tuổi, tám năm liên tiếp được hoàng đế trọng dụng. Xét địa vị, từ hai năm trước anh ta đã nắm giữ chức thừa tướng, lúc vào triều chỉ phải cuối đầu trước hoàng đế mà thôi. Xét dung mạo, đây là một người vừa trẻ tuổi vừa tuấn tú, là đấng phu quân trong mơ của không biết bao nhiêu thiếu nữ kinh thành.
Điều đáng buồn là, trong khi con gái các vị quan lại phú hộ rất vừa mắt Trịnh Hoài Sơn, phụ huynh của các cô nàng ấy lại phòng anh ta như phòng giặc. Trịnh Hoài Sơn tài năng đấy, chức vị cao đấy, thế nhưng tất cả mà anh ta có giống như một quả bong bóng xà phòng mà thôi.
Bởi vì, hoàng đế là một người khét tiếng hỉ nộ thất thường, mà đương kim thừa tướng của chúng ta lại không có gia tộc hùng mạnh để chống lưng.
Thật ra không phải các bậc phụ huynh quá lo xa. Chỉ trong vòng mười năm, cả kinh thành liên tục chứng kiến hai vị thừa tướng tiền nhiệm vì làm phật lòng vua mà bị đem đi xử trảm, một người còn được ưu ái bêu đầu ở cổng thành mấy ngày. Mặc dù hoàng đế tuyên bố rằng đây là biện pháp ranh đe mạnh mẽ nhất dành cho các quan lại ở dưới, thế nhưng răng đe kiểu này không khỏi có chút bạo lực đi… Thế mới nói, gần vua như gần hổ. Trịnh Hoài Sơn tuy tuổi trẻ tài cao giàu có lại đẹp trai, tuy nhiên anh ta ở cạnh con hổ hung dữ nhất, vô lý nhất, ai biết ngày nào anh ta sẽ bị gặm mất đầu đâu…
Dĩ nhiên, nếu Trịnh Hoài Sơn có một lượng lớn cha anh chú bác làm quan to nâng đỡ, tình cảnh anh ta sẽ khá lên rất nhiều. Nói về vấn đề này, bạn trẻ Hoài Sơn quả thật có chút uất ức. Anh ta vốn có xuất thân không nhỏ, ông nội đã mất từng nắm giữ chức thừa tướng tiền triều. Thế nhưng đến đời cha anh ta thì con đường làm quan bị đứt, cả đại gia đình chuyển về vùng quê sinh sống. Còn có một chuyện ít người biết, đó là tuổi thơ của Trịnh Hoài Sơn diễn ra vô cùng không suôn sẻ. Dù vậy, anh ta cũng chưa từng kể lể hay than thở với bất kỳ ai, mà lại lấy đó để khuyến khích bản thân: nếu không có chuyện mẹ con anh ta bị rẻ rúng, anh ta cũng không cố gắng rèn luyện, không lên kinh ứng thí, chức vụ thừa tướng hiện tại cũng không thể nắm trong tay…
Đại khái, nói về Trịnh Hoài Sơn là nói về một người bề ngoài hoàn hảo nhưng bên trong nguy hiểm trùng trùng cả về địa vị lẫn tính mạng. Thế nên, liên quan đến chuyện vì sao anh ta đã qua hai sáu nhưng chưa lấy vợ, chưa nạp thiếp, người hiểu biết cũng sẽ không cảm thấy có gì lạ lùng…
(Trịnh Hoài Sơn: tôi không lấy vợ là do tôi không thích, các vị đừng suy diễn nữa có được không =.=”)
Quay lại với chàng thanh niên bề ngoài hoàn hảo nhưng bên trong nguy hiểm trùng trùng kia, hiện tại anh ta một tay cầm gói bánh bao, một tay cầm bình đựng nước, đang loay hoay quan sát một góc đường nhỏ ở ngay cạnh quán trà của Lãng Khách.
Trịnh Hoài Sơn vừa tìm được một gốc cây kín đáo, vội “phốc” một cái trèo lên đó, tìm một tư thế thoải mái mà làm tổ luôn.
Mặt trời đã khuất sau mấy ngôi nhà cao lớn, Trịnh Hoài Sơn vẫn giữ nguyên tư thế nằm yên trên cây, thi thoảng che miệng ngáp một cái. Tới lúc con hẻm nhỏ bắt đầu trở nên vắng vẻ, anh ta ngừng ngáp, nhìn chằm chằm xuống dưới.
Một người đàn ông cầm theo cái bao lớn bước vào U Miếu, lúc trở ra thì cái bao đã được chất đầy hộp gỗ. Người đàn ông đi khuất rồi, Trịnh Hoài Sơn liền nhảy khỏi thân cây, khóe môi cong lên một nụ cười. Theo kế hoạch ban đầu, lẽ ra anh ta còn phải theo đuôi người đàn ông kia, thế nhưng hiện tại không cần nữa. Gã ta chẳng phải là tiểu nhị trong quán trà của Lãng Khách ư?
Nếu Tạ Thanh Ngọc biết có kẻ khinh thường cách làm việc không cẩn mật của cô nàng, nhất định sẽ có một tràng mắng nhau xảy ra. Thật ra lúc mới bắt đầu, Thanh Ngọc đã dặn đi dặn lại Lãng Khách là mấy “đơn hàng” phải do ông tự tay lấy, vả lại khi lấy phải ứng dụng khinh công xuất quỷ nhập thần, tuyệt đối đừng để ai phát hiện ra. Tuy nhiên Lãng Khách vốn không phải là loại người quen với cách làm việc có phương pháp có trình tự, cộng với việc quản lý ở quán trà khiến ông bận túi bụi, từ đó cũng chểnh mảng chuyện Thanh Ngọc dặn dò.
Vả lại, câu nói lén cửa miệng của ông ta mỗi khi được nhắc nhở luôn là: “Con bà nó, Lãng Khách ta là sư phụ nó hay nô tài của nó đây hả?” Vì thế, mới có chuyện Trịnh Hoài Sơn thấy được cảnh đi lấy “đơn hàng” kia.
Anh ta nhìn sắc trời, vươn vai một cái rồi rảo bước ra phía đường lớn. Nếu anh ta không lầm, tối mai chắc chắn sẽ có tiết mục đặc sắc đây.
Thêm một đêm trôi qua trong êm đềm, người cần ngủ ngon thì ngủ ngon, người cần thấy quỷ thì thấy quỷ, rải rác trong kinh thành thi thoảng có một tiếng hét nhẹ cất lên.
Tạ Thanh Ngọc cảm thấy công việc nhát ma thật ra là một nghề đầy tính nhân văn cùng cao cả. Từ ngày dịch vụ nhát ma ra đời, số vụ ăn trộm, đâm chém cùng mưu sát giảm đáng kể. Nghĩ xem, bọn trộm cũng là người phàm mắt thịt, cũng sợ ma như ai, thế nên khi có ma quỷ hoành hành, dĩ nhiên chúng sẽ hạn chế đi ra đường. Hơn nữa, khi đã có thể trả thù vặt bằng cách dọa ma, còn ai muốn mời bọn đâm thuê chém mướn vừa bạo lực vừa không biết điều làm gì?
Tạ Thanh Ngọc tuy rất thích tiền nhưng cũng chú trọng tới chất lượng công việc cùng sức khỏe bản thân. Mỗi ngày cô chỉ nhận từ ba tới bốn đơn hàng, làm ba ngày thì nghỉ một ngày, trung bình mỗi tháng giải quyết hận thù cá nhân nho nhỏ cho tám mươi tới chín mươi hộ gia đình. Chuyện làm ăn này của Thanh Ngọc diễn ra đều đặn gần hai năm nhưng vẫn chưa bị bắt quả tang tại trận lần nào, quả thật là thần tài cùng thần may mắn cùng bắt tay phù hộ. Một mặt, quan phủ cảm thấy nhờ có ma quỷ mà tình hình an ninh trật tự tốt hơn hẳn, cũng lười truy xét. Thậm chí có lần, bọn họ thấy “ma nữ” còn nhờ cô dồn bắt trộm giúp…
Tạ Thanh Ngọc đang lăn qua lăn lại trên chiếc giường êm ái, đã nghe tiếng mặt đất rung lên dữ dội. Kế đó giường cô bị chấn động, khuôn mặt mũm mĩm của Khả Ngân áp sát bên cạnh: “Tiểu thư, rất rất nhiều tiền đó…”
Thanh Ngọc mê sảng đáp: “Ừ, tiểu thư của chị rất giàu, nào... tiểu thư chưa ngủ đủ, lát ra ngoài nhớ bước nhẹ nhẹ thôi…”
Khả Ngân đấm uỳnh uỳnh lên giường, giọng uất ức nói: “Không, không phải… Nô tỳ đang nói đơn hàng hôm qua, có ba người ra giá rất cao nha…”
Chiếc giường mới hứng chịu mấy cú đấm như trời giáng của Khả Ngân đã vang lên một tiếng “rắc”, Thanh Ngọc liền bật ngay dậy, nghiêm túc nói: “Đơn hàng nào, chị mau mau đem vào cho ta…” Lúc này Khả Ngân mới hài lòng đặt lên giường ba cái hộp nho nhỏ. Thanh Ngọc mở từng chiếc, mỗi hộp đều đựng một tờ ngân phiếu mấy ngàn lượng, còn có tờ giấy trình bày rõ ràng tên họ và lý do hại người.
Thanh Ngọc lật qua lật lại ba lá thư, giọng trằn trọc nói: “Ba lá thư này tuy nét chữ khác nhau nhưng đều giống ở giọng văn rõ ràng, rắn rỏi. Trước giờ đơn hàng có giá trị cao nhất cũng chỉ mấy trăm lượng, đã bao giờ có giá cao thế này? Trong này nhất định có cạm bẫy, tiểu thư không làm đâu.”
Khả Ngân đau khổ nói: “Tiểu thư ơi, mấy ngàn lượng đó, cô không thử một lần sao? Có gì thì cô đến đó xem tình hình cũng được mà, nếu không được thì bỏ hẵng không muộn đúng không?”
Giọng kích động của Lãng Tử từ ngoài cửa vọng vào: “Khả Ngân nói đúng đó tiểu thư ơi, cô còn có Lãng Tử bên cạnh. Tôi nhất định sẽ bảo hộ tiểu thư an toàn…”
Thanh Ngọc: “…” Thân hình cậu gầy như que củi, tính tình nhát như thỏ đế, không bị người ta đè bẹp là tốt rồi có được không?!!!
Đại khái, dưới sự nài nỉ thúc ép của hai kẻ dã man kia, Thanh Ngọc nửa đêm nai nịt gọn gàng, vừa thong thả uống trà vừa nghe Khả Ngân giảng giải kế hoạch: “Ba đơn hàng lần lượt là Trương thượng thư ở cách nhà chúng ta một con phố, Thất hoàng tử đang bị giam tại Trấn Quốc Tự, và một gã thư sinh hằng đêm chong đèn đọc sách trong thư viện Thành Tây. Xét theo vị trí từng địa điểm, tiểu thư sẽ đến phủ của Trương thượng thư trước, sau đó đến chỗ gã thư sinh, rồi mới ghé qua Trấn Quốc Tự.”
Lãng Tử đứng bên cạnh gãi gãi đầu nói: “Thật khó hiểu, một thư sinh chong
đèn đọc sách thì có phương hại tới ai, sao lại có kẻ bỏ số tiền lớn như thế để dọa hắn?” Thanh Ngọc cười nói: “Lý do trong đơn hàng nói là vì anh ta không biết tiết kiệm dầu đốt đèn, haha. Còn ta thấy tám chín phần là một thư sinh nhà giàu ghen ghét người tài hơn mình đây mà.” Sau đó cô lại chau mày: “Nhát ma Thất hoàng tử sẽ động đến hoàng thất, người thông minh sẽ không dính vào.” Khả Ngân vừa mở miệng định phản bác, cô đã đặt ly trà xuống bàn, giọng hơi cao hơn một tông: “Khả Ngân, ở đây tiểu thư vẫn là chủ!”
Khả Ngân cùng Lãng Tử ánh mắt rưng rưng nhìn cô, không dám nói thêm nữa. Tiểu thư này phần lớn thời gian hoặc là hiền lành hoặc là dở hơi, thế nhưng lúc ra uy thì cũng thật là đáng sợ… Còn Thanh Ngọc lúc này lại đau đầu nghĩ nghĩ, aiz, có đôi khi nhượng bộ quá mức chính là làm khó bản thân.
Mọi sự đã quyết, nửa đêm không mây, Thanh Ngọc tiến vào Trương phủ. Cô gây vài tiếng động nhỏ trên mái ngói, vài tiếng bàn ghế va đập, vài tiếng cười khúc khích, hai vợ chồng Trương thượng thư kia đã co rúm la hoảng lên.
Thanh Ngọc rời đi, cảm thấy lá gan nhỏ bé của tầng lớp trí thức thật không thú vị.
Thanh Ngọc vận khinh công bay đến thư viện Thành Tây, chỉ thấy một căn phòng duy nhất còn sáng đèn. Cô đáp trên mái ngói nhìn xuống, thì thấy một mái đầu đang chăm chú đọc sách.
Từ phía trên cao, Thanh Ngọc không thấy rằng mỗi khi người thanh niên này lật sách, ánh mắt anh ta lại không hề đặt trên trang sách kia. Anh ta không thấy có gì bất thường diễn ra trong phòng, liền lật thêm một trang nữa. Cứ như vậy, một quyển sách sắp sửa lật xong.
Tạ Thanh Ngọc cảm thấy người thanh niên kia không hổ danh là tài tử dễ bị bạn bè đồng trang lứa thù ghét. Đừng nói anh ta thức cả đêm để tiếp thu kiến thức nhân loại, nhìn tốc độ lật sách của anh ta là biết trước lúc trời sáng có thể đọc được xong mười cuốn sách dày cộp cũng không vấn đề gì.
Sau phút cảm thán, Thanh Ngọc áp dụng kỹ xảo thổi tắt đèn đã có thâm niên của bản thân, khiến cho căn phòng trong phút chốc trở nên tối om.
Vài tiếng “lạch cạch” vang lên, người thanh niên dường như đang mò mẫm khắp nơi tìm kiếm gì đó. Tới lúc anh ta thành công thắp lại đèn, Thanh Ngọc đã yên vị trên xà nhà ngay phía đầu anh ta.
Thanh Ngọc “phụt” một cái thổi tắt đèn, người thanh niên vốn đã cầm sẵn bật lửa trong tay, bình tĩnh thắp lại.
“Phụt” một cái, đèn lại tắt.
Anh ta không gấp gáp, thắp lại.
Tạ Thanh Ngọc gặp phải khó khăn trong sự nghiệp nhát ma. Người này, sao lại không ngó đông ngó tây, sao lại không tự hỏi trong phòng kín mà tại sao nến bị thổi tắt a…
Đại khái, nhát ma cũng là một nghệ thuật, người nhát ma phải nắm vững dao động trong cảm xúc của người bị hại. Nếu không, sẽ không thu được hiệu quả như mong muốn. Thanh Ngọc tin rằng, nhát ma thành công chưa hẳn là làm cho người ta sợ hãi đến điên loạn, mà là làm cho người ta cố chấp tin rằng trên đời này có ma quỷ. Ví như một năm trước, cô khiến cho một nhà vị viên ngoại kia khăng khăng khẳng định với quan phủ tối qua nhà họ bị quỷ dạ xoa ghé qua, tiếng lành đồn xa, từ đó việc làm ăn ở U Miếu mới ngày càng khấm khá…
Lãng Khách từng hỏi cô, lợi nhuận thu về từ U Miếu thật ra kém quán trà rất nhiều, Tạ Thanh Ngọc cần gì phải khổ sở đi nhát ma như vậy? Thế nhưng cô kiên quyết giữ vững lương tâm nghề nghiệp, vả lại cha già nhà cô ban ngày cầm roi cấm cửa, ban đêm cô không đi nhát ma thì lấy gì giải khuây đây?
Hơn nữa, đối với việc giải khuây có thể kiếm được tiền, tội gì không làm?
Sau mấy chục lần thổi tắt đèn mà người thanh niên không mải mai có chút biểu hiện dao động, Tạ Thanh Ngọc bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài, trong đầu nảy lên đủ thứ suy nghĩ linh tinh…
Người thanh niên vừa thắp lại đèn vừa lẩm bẩm: “Chẳng nhẽ mái nhà lại thủng… giữa phòng sao lại có gió như vậy…” Tạ Thanh Ngọc trong lòng gào thét, chuyện đơn giản như vậy anh phát hiện từ đầu có được không?
Thư sinh đại nhân sau khi nắm bắt lý luận trần nhà bị lủng, ngẩng đầu trông lên.
Anh ta nhìn thấy một ánh mắt to tròn, chậc, có hơi đỏ.
Anh ta nhìn thấy một đầu tóc dài rũ xuống.
Anh ta nhìn thấy một vạt áo trắng.
Sau đó anh ta lắc lắc đầu, ngồi xuống bàn, mở sách. Tạ Thanh Ngọc chỉ biết trơ mắt nhìn …
Chẳng lẽ lúc nãy biểu cảm trên mặt cô chưa đủ hung dữ? Hay là cô hóa trang chưa đủ dọa người? Tạ Thanh Ngọc rút cái gương cầm tay trong ngực áo ra nhìn thử, không đúng, hôm nay Khả Ngân đánh phấn rất chuẩn nha…
Tạ Thanh Ngọc thắc mắc xong lại vỡ lẽ. Một người thanh niên thường xuyên nửa đêm nửa hôm chong đèn đọc sách, mắt hẳn là bị cận thị nặng rồi. Chẳng qua là anh ta sống trong thời đại khoa học không phát triển, chưa nhận ra mà thôi. Hèn gì chẳng những anh ta không nhìn thấy cô, phản ứng nãy giờ lại chậm chạp như vậy…
Tạ Thanh Ngọc muốn đánh nhanh rút gọn, quyết định sử dụng chiêu bài mạo hiểm nhất ghê gớm nhất của mình: treo ngược từ trên xà nhà xuống dọa ma… Nếu đưa khuôn mặt phủ phấn trắng bóc như quả trứng gà này của cô đến gần mặt anh ta một tí, hẳn là anh ta cũng phải nhìn thấy chứ?
Người thanh niên chưa kịp lật thêm mấy trang sách, ánh đèn một lần nữa phụt tắt. Cánh cửa sổ vốn đóng kín chợt mở tung, một luồng khói hương lảng bảng bay vào phòng.
Người thanh niên ngẩng đầu khỏi cuốn sách, đôi mày hơi chau lại.
Chợt anh ta nghe một tiếng “xẹt” rất nhỏ vang trên đầu mình. Là tiếng vải mỏng bị xé rách.
Tạ Thanh Ngọc cũng vì nghe thấy tiếng “xẹt” này, hai chân vốn móc trên xà nhà run lên.
Cái cái cái cái váy của cô…
Sau đó, không ngờ bắp chân đang co lại của cô bị cái gì đó đâm vào đau nhói.
Tạ Thanh Ngọc rơi thẳng xuống phía dưới.
Qua ánh sáng mờ mờ từ ngoài trời rọi vào, người thanh niên ban đầu nhìn thấy một mái tóc dài lạ lẫm, rồi mái tóc đó phủ lên mặt anh ta. Sau đó “uỳnh” một tiếng, ngực và bắp đùi của anh ta bị một thứ vừa nặng vừa mềm đụng mạnh vào.
A, thứ đó chẳng những mềm mà còn rất thơm, lại đang động đậy nữa.
Anh ta giơ tay quơ lấy bật lửa, thắp đèn.
Thứ trong lòng anh ta giãy giụa muốn thoát, anh ta giơ tay đè lại.
Vì cái thứ ấy giãy giụa quá dữ dội, anh ta phải mất một lúc mới thắp đèn thành công.
Lúc này anh ta mới nhìn rõ thứ đang động đậy kia là gì. Thế nhưng hình ảnh trước mắt… không khỏi khiến anh ta ngẩn ra.
Sau đó, trên mặt anh ta rơi xuống một cái tát như trời giáng. Hờ…
Cùng lúc đó, phía bên ngoài thư viện.
Sau khi mấy kẻ mai phục nhìn thấy một cái bóng trắng đạp cửa sổ bay ra khỏi phòng, họ vội vã đuổi theo. Thế nhưng người kia như có mọc cánh, đôi chân nhỏ bé của họ không tài nào theo kịp.
Người đứng đầu tốp quân mai phục này ũ rũ đến báo tin cho chủ nhân của họ, đúng lúc anh ta đang ngồi ngẩn người.
Rõ ràng đó là người thư sinh lúc nãy còn bình thản chong đèn đọc sách, thế nhưng khuôn mặt hiện giờ của anh ta vừa nghiêm trang vừa lạnh lùng. Đây vốn là biểu cảm của người quen đứng từ vị trí cao nhìn xuống phía dưới. Điều đáng buồn cười là một bên má của anh ta còn có vết sưng đỏ hình bàn tay… một bàn tay rất nhỏ.
Người mặc trang phục thị vệ bối rối cúi đầu thưa: “Bẩm đại nhân, khinh công cửa ả ta thuộc hàng thượng thừa, chúng thuộc hạ vô năng…”
Người thanh niên hỏi: “Nàng ấy đi về phía nào?”
Thị vệ hơi ngẩn ra, đáp: “Là phía Bắc…”
Người thanh niên, cả tên lẫn họ là Trịnh Hoài Sơn, nghiêm giọng nói: “Ta biết rồi. Bây giờ sai người lên xà nhà gỡ hết mấy cây đinh và móc câu nhỏ. Mấy cây cột phủ hồ sơn cũng dùng dầu hỏa rửa đi, đừng để tiểu quan thủ thư phát hiện.”
Thị vệ “dạ” một tiếng, đi ngay. Trịnh Hoài Sơn lúc này mới quay mặt về phía cửa sổ, giấu đi nụ cười gian xảo của mình: “Là phía Bắc sao…”
Lời tác giả: Nhát ma là một nghệ thuật. Người thâm hiểm cũng là một nghệ sĩ.