Lý đông rất coi trọng kế hoạch của mình, tin tưởng nó có thể đủ sức thay đổi tình thế. nếu lúc trước, có ai đọc được bản kế hoạch của hắn chắc hẳn là sẽ vô cùng kinh ngạc. bởi mục tiêu của lý đông chính là thành lập một binh đoàn ma, một lực lượng không binh chủng, không tên hiệu, và gần như không có tung tích, trên đời chỉ có một số ít người biết được thông tin về nó mà thôi. binh đoàn này được thành lập với nhiệm vụ triệt hạ toàn bộ những mục tiêu cần thiết mà không để lại bất kỳ dấu vết nào. nói cách khác chúng sẽ như những bóng ma lai vô ảnh khứ vô tung, xuất hiện bất ngờ, tấn công chớp nhoáng nhằm giáng những đòn mạnh mẽ, gây thiệt hại nặng nề vào kẻ địch, từ đó tạo ra sự hoang mang và rối loạn tột độ cho phía đối phương.
để thực hiện được chiến thuật này, các khí tài mà lý đông sử dụng phải có tính cơ động cao hoặc có khả năng ẩn dấu tốt như máy bay, tên lửa hoặc tàu ngầm. lý đông đã quyết định sử dụng tới những công nghệ tiên tiến hơn rất nhiều so với lộ trình dự định ban đầu của hắn. các vũ khí mới sẽ được áp dụng đồng bộ các kỹ thuật phức tạp và đa dạng.
về mặt cụ thể, các nhóm công nghệ này chủ yếu sẽ chia thành bốn nhóm theo công năng, nhóm công nghệ làm tăng tốc độ, nhóm công nghệ chống phát hiện, nhóm công nghệ radar và nhóm công nghệ năng lượng.
nhóm công nghệ làm tăng tốc độ gồm các công nghệ phản trọng lực như công nghệ điện trọng lực học "electrogravitics", điện động học "electrokinetics", công nghệ viễn tải bức xạ điện trọng từ trường. lý đông biết cho đến hiện tại các quốc gia chủ yếu vẫn sử dụng những chiếc máy bay dân dụng có hai cánh hoạt động trên các nguyên lý cổ điển như lực cản, lực đẩy, và lực nâng khí động lực học như mô hình thiết kế của hai anh em nhà wright cách đây hơn một thế kỷ. kỹ thuật chế tạo đương đại rất hạn chế trần bay và tốc độ bay. công nghệ phản trọng lực gồm nhiều kỹ thuật khác nhau để tạo điều kiện cho một tàu bay không chịu ảnh hưởng bình thường của lực hấp dẫn trái đất. với điều kiện này, tàu bay có thể di chuyển thật nhanh từ 40 000 km/giờ trở lên, hoặc khoảng 2 vòng quanh thế giới trong 1 tiếng đồng hồ. khi kết hợp công nghệ phản trọng lực với công nghệ quét hạt ảo trong chân không lượng tử, vận tốc tàu bay có thể vượt tốc độ ánh sáng. nếu kết hợp các kỹ thuật này với kỹ thuật lá chắn quán tính thì người điều khiển khí tài bay hoàn toàn có thể được bảo vệ chống sốc trước sự tăng tốc nhanh và những thao tác đột ngột khác.
công nghệ điện trọng lực học "electrogravitics" hoạt động dựa trên nguyên tắc của một hiệu ứng khá nổi tiếng mà nhân loại bây giờ cũng đã phát hiện ra “hiệu ứng biefeld-brown” và nó cũng hay được gọi là “điện thủy động lực học” "electrohydrodynamics". công nghệ này cho phép dùng xung điện hàng megavolt trên thân và cánh tàu bay để phân hóa nó và khiến nó giảm triệt để ảnh hưởng của trọng lực. các khí tài bay được thiết kế theo hình dạng đặc biệt với điện cực dương và âm có kích cỡ khác nhau ở hai bên và được cung cấp điện năng. thiết kế này tạo một điện áp cao ngay giữa không trung khiến cho khí tài bay di chuyển về phía cực dương. có hai lực kết hợp với nhau để tạo ra lực đẩy. một lực đến từ sự tháo xả điện hoa khiến các phân tử không được ion hóa tại một số điểm nhất định trên khí tài bay, điều này tạo hiệu ứng gió ion để thổi máy bay trong không gian. mặt khác một lực thứ hai tác động lên máy bay chính là hiệu ứng phản trọng lực điện trọng lực học, các điện tích dương khiến không gian hội tụ tạo ra một trường trọng lực còn điện tích âm khiến không gian rẽ ra tạo ra một trường phản trọng lực. trong khi cực dương đang hít vào thì cực âm lại thổi ra không gian xung quanh và điều này khiến cho tàu bay di chuyển tới cực dương. và như vậy bằng cách bẻ cong không thời gian xung quanh một vật thể bay, nó đã tạo thành một siêu động cơ cực mạnh. vấn đề quán tính cũng được giải quyết với công nghệ này khi nó bị giảm tới gần bằng 0 bởi trong một tàu bay siêu nhanh mật độ trường điểm 0 trong một không gian cục bộ được giảm xuống gần như không tồn tại. vấn đề nhận thông tin truyền dẫn từ máy tính chỉ huy cũng được giải quyết bởi các máy tính lượng tử có thể giúp truyền tin với tốc độ còn nhanh hơn ánh sáng.
công nghệ điện động học "electrokinetics" hoạt động dựa trên nguyên lý các lực kéo do hạt electron gây ra khi chúng tác động lên các điện tích xung quanh. những sự thay đổi trong dòng điện càng nhanh thì lực đẩy nó tạo nên càng lớn. khi truyền một xung điện vào trường điểm không vốn rất hỗn loạn, năng lượng chân không sẽ gắn kết và tạo các trật tự hình học. nói cách khác mức entropy của trường điểm không trong một không gian cục bộ sẽ giảm đáng kể. khi điều kiện trong trường điểm không đã đi từ hỗn loạn sang trật tự thì lúc đó có thể trích xuất năng lượng để phát điện tạo lực đẩy cực lớn. các hệ thống electrokinetics dùng tụ điện bất đối xứng để phá vỡ tính đối xứng các lực cơ bản trong trường điểm không và từ đó tăng lực đẩy của hệ thống.
về công nghệ viễn tải bức xạ điện trọng từ trường thì lại có liên quan tới lý thuyết về trường thống nhất "unified field theory". công nghệ này thực ra đã từng được nhân loại thí nghiệm nhưng rất tiếc sau đó vì tính thiếu khuyết của nó chưa thể hoàn thiện mà bị tạm dừng. đó chính là thí nghiệm philadelphia.thí nghiệm được thực hiện dựa trên lý thuyết “vùng hợp nhất” của tiến sĩ franklin reno. hiểu một cách ngắn gọn, lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành “vô hình”. trong bối cảnh thế chiến lần ii, lực lượng hải quân mỹ đã cung cấp tàu khu trục uss eldridge cho cái gọi là “dự án cầu vồng” này mong tìm kiếm một công nghệ áp đảo đối thủ. những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7/1943 và đạt thành công đáng kể, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại than phiền dữ dội vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng