"Chỉ dụ, trẫm nghe dân gian có oan tình, dư tình* trăm họ không dứt, tiếng than sục sôi, cũng biết Thiếu doãn phủ Kinh Đô khắc cần khắc kiệm, sự tất cung thân**, là người đầu tiên phát hiện và chủ động đứng ra tố giác oan tình, đặc khiển làm Phủ dụ sứ tỉnh Hoài Nam, nhận lấy trọng trách triều đình, xuôi xuống Hoài Nam án sát quan lại, tìm hiểu dân tình, tra rõ án "giết vịt trắng" tại huyện Giang Dương, Dương Châu, chiếu chỉ ban thưởng Triệu Bạch Ngư một thanh thượng phương bảo kiếm, cho phép ngươi tùy cơ ứng biến."
(*) Dư tình: ý kiến và thái độ của công chúng
(**) Khắc cần khắc kiệm: chăm chỉ tiết kiệm; Sự tất cung thân: việc gì cũng phải tự làm lấy
Đại thái giám bên người Nguyên Thú đế đứng giữa đại sảnh Lâm An quận vương phủ, cười nịnh đỡ Triệu Bạch Ngư dậy: "Ngài đứng dậy đi, tiểu Triệu đại nhân."
Rồi sau đó lão nhìn về phía Hoắc Kinh Đường vẫn còn chưa dậy, nụ cười lấy lòng càng rõ rệt: "Tiểu quận vương, ngài cũng mau đứng dậy thôi, bệ hạ gửi nô tỳ hỏi thân thể ngài gần đây khỏe không, ăn uống ra sao? Khẩu vị thế nào?"
Hoắc Kinh Đường đứng dậy, hai tay rút vào tay áo bào rộng, uể oải liếc mắt nhìn Đại thái giám: "Cũng được."
Đại thái giám: "Ngài không có gì muốn nói với bệ hạ sao?"
Hoắc Kinh Đường: "Ngài giúp ta thưa lại, thân thể khỏe không? Ăn uống ra sao? Khẩu vị thế nào? Nhé."
Lời thăm hỏi qua loa đến mức khiến người ta không biết phải về báo cáo thế nào, Đại thái giám bị làm khó thì đành vậy, cũng không dám cưỡng ép đưa ra yêu cầu nữa, đổi lại là Thái tử hoặc vị hoàng tử nào khác căn bản không cần ông nhắc nhở, ai nấy đều chỉ hận không thể moi móc tim gan ra biểu dạt lòng ái mộ bệ hạ, chỉ ngoại trừ Lâm An tiểu quận vương này từ khi chui ra khỏi bụng mẹ đã là một hỗn thế ma vương.
Đừng nói chi đến ái mộ, bắt hắn thể hiện một chút tình cảm bên cạnh bệ hạ thôi cũng đã khó lắm rồi.
Không thể làm Hoắc Kinh Đường thông suốt, Đại thái giám chuyển mục tiêu sang Triệu Bạch Ngư kế bên đang ngắm nhìn thượng phương bảo kiếm.
bước lên phía trước nói: "Trong đoàn kịch thường có người hát Khâm sai đại nhân* về Giang Nam thể nghiệm dân tình, vì dân chờ lệnh, tiểu Triệu đại nhân, lần này ngài đã trở thành Khâm sai rồi đấy!"
(*) Khâm sai: là chức vụ tạm thời được sử dụng nhiều nhất.
Chức vụ này là một chức vụ đặc phái ra ngoài để giải quyết các công việc nội chính hoặc ngoại giao.
(Wikipedia)
Tuy Phủ dụ sứ không có phẩm cấp nhưng lại có thể thay thế Hoàng đế thị sát, đến cả đại quan nhất phẩm thấy cũng phải quỳ, chính là Bát phủ tuần án*, Khâm sai đại nhân mà hí văn trên truyền hình hay nhắc đến.
(*) Triều Minh đặt ra chế độ Ngự sử xuất tuần địa phương tức Ngự sử thay mặt Hoàng đế đi tuần các địa phương, gọi là Tuần án Ngự sử (巡按御史), tục gọi là Bát phủ tuần án (八府巡按).
Triệu Bạch Ngư để lộ lo lắng: "Trước đây hạ quan cũng chỉ là thất phẩm, tuy nói có quản chuyện ngục tụng ba năm, nhưng bàn về kinh nghiệm thì lại không theo kịp các đại thần trong triều, làm sao bệ hạ có thể quyết định chọn ta làm Khâm sai đi Hoài Nam được chứ? Ta, ta bước ra khỏi Nha môn một cái quan nào ở phủ Kinh Đô cũng chẳng nhận ra nổi, đến Hoài Nam là càng mù tịt, hỏi ta phải tra làm sao đây? Nếu như ta phụ lòng thánh quyến bệ hạ, bản thân sẽ phải chịu đòn nhận tội —— cũng biết ngài đi theo bệ hạ nhiều năm, có thể tiết lộ cho hạ quan biết một chút không, vì sao bệ hạ lại chọn trúng ta đến Hoài Nam tra vụ án của Đặng Vấn An?"
Đại thái giám: "Tiểu Triệu đại nhân xem nhẹ mình rồi, ngài dám đến ngự tiền cứu ân sư là cao nghĩa, gan dạ không thua gì vạn phu làm quan.
Tám mươi bảy người phạm cấm đêm ngài vẫn luôn bảo vệ, khăng khăng phải tra án rồi mới dùng hình, là việc mình phải tự làm, cũng là yêu dân như con, cả Kinh Đô này không tìm ra đưuọc quan tốt nào nghiêm túc và có trách nhiệm hơn ngài! Về phần năng lực, tiểu Triệu đại nhân quá khiêm tốn rồi, sáng nay lâm triều Trần đại nhân ân sư của ngài còn khen ngài có tài Trạng nguyên, ông ấy đã vỗ ngực khen ngài trong lòng có ngàn khe suối*, không những thế còn có tác phong quân tử ngay thẳng công bằng!"
(*) Nguyên văn - 胸有千壑 (Hung hữu thiên hách): theo mình tìm hiểu thì có một câu gần giống nghĩa là "Hung hữu khâu hác" – 胸有丘壑 trong lòng đã có đồi cao lũng sâu; khi vẽ tranh, làm văn, trong lòng đã có hình ảnh, ý tưởng cao thâm; giống như đối với sự việc đã có nhận định, giải quyết.
Lão vỗ vỗ cánh tay Triệu Bạch Ngư, ý cười thâm sâu: "Bệ hạ không phải là người tai mắt không nhạy, ai tầm thường, ai có thể trọng dụng, trong lòng bệ hạ rõ như gương sáng.
Trước đây không có cơ hội, trước mắt gặp được rồi còn chẳng phải đã trọng dụng ngài đó sao? Đây chính là thời cơ vô cùng tốt để ngài thể hiện năng lực của mình cho bệ hạ xem đấy!"
"Tiểu Triệu đại nhân, phải biết quý trọng nhé."
Triệu Bạch Ngư treo nụ cười nhạt nhòa trên môi, vừa quay đầu nhìn Hoắc Kinh Đường bất động không muốn đi theo tiễn khách, vừa nhét vào trong tay Đại thái giám hai đĩnh bạc lớn rồi đưa người đến tận cửa: "Nhờ ngài chỉ điểm, đây là chút lòng thành, mong ngài nhận cho."
"Tiểu Triệu đại nhân khách sáo quá." Đại thái giám áng chừng trọng lượng đĩnh vàng, vui vẻ bảo ban thêm đôi câu: "Thật ra thì trong điểm không phải ở án oan này, mà chính là tất cả các quan lớn nhỏ ở Hoài Nam."
Tim Triệu Bạch Ngư chùn xuống: "Là thế nào?"
Đại thái giám ngó bốn phía vắng lặng rồi mới hạ thấp giọng nhắc nhở: "Trước đó Giám sát ngự sử Chương Tòng Lộ bị thiêu chết ở dịch trạm Từ Châu là do về quê thăm người thân, thuận tiện phụng mệnh điều tra phẩm hạnh của An phủ sứ Hoài Nam - An Hoài Đức, kết cục lại chôn xương nơi đất khách."
Triệu Bạch Ngư không kìm được hỏi ngược lại: "Dây dưa lắm mối như vậy, bệ hạ yên tâm giao cho ta ư?"
"Điều này chứng tỏ bệ hạ hết sức coi trọng ngươi, tiểu Triệu đại nhân!" Đại thái giám tận tình khuyên bảo, bày ra vẻ mặt sao ngươi còn chưa thông suốt thế, "Được rồi, tiểu Triệu đại nhân dừng bước đi thôi."
Đưa Đại thái giám đi rồi, Triệu Bạch Ngư mới quay về đại sảnh, thấy Hoắc Kinh Đường đang cầm cây kéo nhỏ tỉa tót chậu cây la hán.
Triệu Bạch Ngư đứng bên cạnh xem, sắc mặt dần trở nên kỳ lạ, giương mắt nhìn cây cột nhà khắc mười tám vị La Hán, sau đó nhìn mấy phiến đá lộ ra dưới gốc cây la hán đang được cắt tỉa.
Trước đây cứ tưởng chỉ là đá bình thường, lúc này nhìn mới thấy rõ đó chính là mười tám tượng La Hán lớn chừng bàn tay.
"Hoắc Kinh Đường, ta hỏi ngươi một chuyện, ngươi phải thành thật trả lời ta, không được lừa ta."
Hoắc Kinh Đường nheo mắt nhìn y một cái rồi lại chậm rãi rũ mắt xuống: "Hỏi đi."
Trên cổ tay hắn đeo chuỗi tràng hạt gỗ đàn màu tím, bối vân* treo bảo thạch màu lam trĩu xuống đong đưa khiến Triệu Bạch Ngư đau mắt, chợt nhớ lại tối hôm qua Hoắc Kinh Đường còn dùng nó để tăng thêm hứng thú chuyện giường chiếu.
(*) Bối vân: là cái phần đá kèm dây tua rua móc thêm vào vòng hạt.
"Ngươi có nghĩ đến việc xuất gia tu hành không?"
Hoắc Kinh Đường lẳng lặng nhìn Triệu Bạch Ngư một hồi, nghiêng đầu không nói lời nào, tay vẫn tiếp tục tỉa cây.
Ánh mắt của hắn tịch mịch sâu thẳm, chúng đáp xuống cánh môi, sau tai, gáy và vài chỗ không thể miêu tả được trên cơ thể Triệu Bạch Ngư một cách lặng lẽ.
Nhưng ngay lúc này, Triệu Bạch Ngư vẫn đang tích cực hỏi: "Ý ta là đã từng, trước đây có phải ngươi từng muốn trở thành hòa thượng hay không?"
Nếu không thì y rất khó để mà giải thích lý do bộ sưu tập của Hoắc Kinh Đường tại sao không phải là La Hán thì chính là Bồ Tát, Diệp Công thích rồng* dù gì cũng đã từng có lòng hướng tới, không lý nào Hoắc Kinh Đường lại không có ý muốn đến cướp chén cơm của cao tăng ở Bảo Hoa tự được.
(*) Diệp Công hiếu long - 叶公好龙: Lấy từ điển tích Diệp Công thích rồng, đồ vật trong nhà đều khắc, vẽ hình rồng.
Rồng thật biết được bèn đến thò đầu vào cửa sổ.
Diệp Công nhìn thấy sợ hãi vắt giò lên cổ bỏ chạy.
Ví với trên danh nghĩa thì yêu thích nhưng thực tế lại không như vậy.
"Không có." Hoắc Kinh Đường đặt cây kéo nhỏ xuống, xoay người nằm xuống ghế nằm bên cạnh, mười ngón tay đan lại đặt trên bụng, thoáng chớp mi rũ mắt nói: "Lệ khí của ta nặng, không đủ thành tâm kính Phật."
Lệ khí nặng ư?
Triệu Bạch Ngư hoài nghi, năm xưa không qua lại, y từng nghe không biết là bao nhiêu câu chuyện, tin vịt được mọi người truyền đi rằng nhân vật Lâm An quận vương này hung ác thế nào, sau khi gả vào phủ rồi mới phát hiện hắn thường xuyên ở thư phòng hậu viện, thỉnh thoảng ra ngoại ô mấy ngày, cuộc sống có quy luật, không có chiếu chỉ nhất quyết không đụng vào công vụ, hoàn toàn mang dáng vẻ mẫu mực của một kẻ giàu sang nhàn nhã.
So với những người bên ngoài tự cho rằng mình là người lương thiện hay vài kẻ chính nhân quân tử thì quả thật vẫn còn ôn hòa chán.
Vậy mà hắn còn nói mình không có lòng thành, sở thích nếu không phải chơi vòng phật thì cũng là khắc Bồ Tát, đọc kinh Kim Cương, từ chú vãng sanh đến chuyện đời được lưu truyền đều thuộc nằm lòng lại bảo mình không đủ thành tâm kính Phật, giống hệt như một tên giả vờ học kém thức trắng đêm ôn tập trước kì thi rồi lại bảo mình chẳng học gì vậy.
Hoắc Kinh Đường vươn tay ngoắc Triệu Bạch Ngư đến.
Bàn tay vừa đặt lên, Triệu Bạch Ngư đã bị hắn kéo xuống cùng nằm lên ghế dựa, tìm một tư thế thoải mái để ngủ cho ngon, y lại nghe Hoắc Kinh Đường nói: "Sát nghiệt của ta nặng, sợ vạ lây người thân bạn bè, lễ Phật chỉ dám cố gắng tận tâm hết mức, hy vọng có thể hóa giải được đôi chút, tránh bị báo ứng.
Kính Phật chú trọng không ham không cầu, cần phải xuất phát từ nội tâm.
Còn ta thì không, ta có dục vọng, cũng có sở cầu."
Giọng nói của Hoắc Kinh Đường nhẹ bẫng, rõ ràng không xen lẫn bất kì ưu tư nào, thế nhưng Triệu Bạch Ngư nghe mà lòng rất xót xa, y nhớ mình có từng nghe kể chuyện hắn khắc chết mẹ ruột giết hại anh em, thanh danh không được cha ruột công nhận, cũng nhớ hắn xuất chinh năm mười hai tuổi, mũi đao nhuộm máu, da ngựa bọc thây, mười một năm sống cuộc sống quân đội, ở Tây Bắc nhà nhà lập bia trường sinh của hắn, Hoắc Kinh Đường đã được vạn người kính yêu.
Vốn là vị tướng trẻ hăng hái, nhưng ngay tại thời điểm có thể đắc ý nở mặt lại bị trúng cổ độc, buộc phải trao trả lại binh quyền, co đầu rụt cổ ở một vùng ven kinh thành rồi tự mình chịu đựng nỗi đau do cổ độc hành hạ cùng với những lời bịa đặt vô căn cứ, cảm thụ khi ấy không thể nào giãi bày được hết chỉ trong đôi ba câu.
Từ một tướng quân trẻ tuổi vạn người tôn sùng, đến lúc phải chấp nhận kết cục của số phận nhuốm màu tà dương nơi núi Tây, y cũng chẳng biết năm đó Hoắc Kinh Đường đã dùng cách gì để thích ứng với sự sa sút này, để rồi mài dũa dáng vẻ của bản thân thành mũi nhọn ngày hôm nay.
Triệu Bạch Ngư túm chặt cánh tay Hoắc Kinh Đường, gò má nhẹ nhàng cọ lên cằm hắn.
Râu trên cằm chi chít xử lí chưa sạch sẽ, cọ xát khiến gò má Triệu Bạch Ngư nhanh chóng đỏ ửng lên một mảng.
Đôi mắt lưu ly của Hoắc Kinh Đường híp lại, dùng ngón trỏ xoa lên má Triệu Bạch Ngư hỏi: "Ngươi thắc mắc vì sao thái độ của ta đối với Thánh thượng lúc thì cung kính, lúc lại hời hợt đúng không?"
"Ừ." Triệu Bạch Ngư suy nghĩ một chút, đáp: "Lúc nói chuyện công thì ngươi rất kính cẩn.
Nhưng nhắc đến chuyện riêng là lại có hơi lạnh nhạt."
Mà Nguyên Thú đế thì ngược lại.
Mặc dù có đôi lúc đế vương cũng sẽ quan tâm đến chuyện riêng của bề tôi để bày tỏ vua tôi tương nghi, nhưng sự quan tâm mà ông ấy dành cho Hoắc Kinh Đường không được bình thường lắm, lúc ở gần hắn cũng có hơi mất tự nhiên.
Như cảnh vua tôi chung sống mà Triệu Bạch Ngư nhìn thấy trước mắt, có thể cảm giác được sức nặng của Hoắc Kinh Đường trong lòng Nguyên Thú đế rất lớn, giống như trưởng bối vẫn luôn nghĩ sâu nghĩ xa...
Hoặc phải nói là giống như cha mẹ.
Ví dụ như lệnh cho Hoắc Kinh Đường đảm nhiệm chức Đại lý tự khanh giải quyết án gian lận thi cử, để hắn được một lần giành lấy chút tiếng tăm giữa môn sinh của Thiên tử và đám văn nhân sĩ tử, sau đó bảo vệ hắn tránh khỏi bị cuốn vào đại ngục.
Nhưng lợi dụng hôn sự của Hoắc Kinh Đường để thăm dò Triệu Bá Ung và triều thần, trơ mắt nhìn hắn cưới nam thê, đi đường ngang ngõ tắt trong mắt thế nhân thì lại chẳng nhìn ra được phần yêu mến thành khẩn nào.
Càng không nhắc đến thân phận bất tiện của Hoắc Kinh Đường, hắn là con trai trưởng của Tĩnh vương - người mà Nguyên Thú đế cực kì căm ghét, dù được ủy thác toàn bộ sự tin tưởng, ấy vậy mà binh quyền nhung mã nửa đời của hắn nói lấy đi là lấy đi ngay, không lưu lại chút tình cảm gì cả.
Tóm lại, đối với việc của Hoắc Kinh Đường, Nguyên Thú đế lúc nào cũng hành xử mâu thuẫn khiến người ta khó mà hiểu được.
"Cha và bệ hạ đấu tranh nửa đời cuối cùng cũng suy sụp, chức vụ, thế lực đều bị diệt trừ gần hết mà bệ hạ vẫn kiêng kị.
Để xóa bỏ hoài nghi của bệ hạ, cha đưa ta vào hoàng cung làm con tin khi chỉ mới hai, ba tuổi.
Từ ba tuổi đến chín tuổi, ta lớn lên trong cung, coi bệ hạ như cha.
Năm mười tuổi bị trả về Tĩnh vương phủ, xảy ra cãi vả với huynh đệ trong phủ, có một ngày hắn không cẩn thận ngã chết, người hầu sợ bị đánh chết nên thừa nhận là ta giết huynh đệ của mình."
Thịch! Trái tim Triệu Bạch Ngư như bị bóp nghẹn lại, hai tay lần mò chạm lên mặt Hoắc Kinh Đường, lặng lẽ xoa một cái.
"Ta hy vọng bệ hạ có thể đón ta về cung, nhưng ông ta không thèm quan tâm.
Hậu trạch vừa xấu xa lại phức tạp, ta chịu khổ không ít, hai năm sau dứt khoát theo ngoại công và các cữu cữu đi Tây Bắc, trong thời gian này có bị điều đến Định Châu hai năm.
Sau khi tiếng tăm lẫy lừng, bệ hạ có ý bồi dưỡng nên để ta trú đóng Tây Bắc.
Mấy năm trước trúng cổ độc, lại bỏ qua tin tức của huyết phách ngàn năm, thái y quả quyết rằng ta không sống được bao lâu nữa, vậy nên ta trả lại binh quyền, bệ hạ cũng không nói gì nhưng thật ra là đã muốn vứt bỏ ta lần nữa rồi."
Triệu Bạch Ngư cảm động lây một cách khó hiểu, Hoắc Kinh Đường cũng không được cha ruột yêu thương giống như y, tuy đã có Nguyên Thú đế bù đắp vào vị trí phụ thân nhưng rồi cũng thu hồi, lấy được rồi lại mất đi, không thể nói được tình huống nào bi thảm hơn như thế nữa.
"Trước đây một mình ta quá cô đơn, luôn muốn thiết lập ràng buộc với một người nào đó, để cho tâm hồn ta có một nơi để tựa vào."
Một thân một mình ở bên ngoài, xa hơn nữa là ra nước ngoài đã cảm giác được nỗi cô đơn quạnh quẽ vô tận rồi, mà y quay về tận cả trăm ngàn năm trước, thậm chí không phải là một triều đại lịch sử mà y quen thuộc, sự thống khổ mà cảm giác linh hồn phiêu bạt không chốn an thân đó mang đến thường xuyên hành hạ Triệu Bạch Ngư, người vẫn chưa thể nào dung nhập vào thời đại.
"Ta hầu hạ song thân, yêu mến huynh đệ, tự cho rằng đó là hiếu thuận nhưng bọn họ lại mắng là ta làm bộ làm tịch.
Ta muốn thân mật, muốn khiêm nhường thì nói ta hai mặt, có mục đích khác, vậy nên bây giờ ta không cần bọn họ nữa." Triệu Bạch Ngư nhắm hai mắt, áp gò má của mình vào má Hoắc Kinh Đường: "Hoắc Kinh Đường, ngươi từng nói với ta nếu cần, ta có thể xem ngươi là cha ta, là huynh trưởng, ta cũng muốn nói bắt đầu từ bây giờ, ngươi có thể tin tưởng ta sẽ không chủ động rời bỏ ngươi."
Bởi vì Hoắc Kinh Đường đã dành cho y khao khát cả đời này, trói buộc linh hồn kia bên cạnh mãi rồi.
Hoắc Kinh Đường vén lọn tóc mai của Triệu Bạch Ngư móc vào bên tai, mắt Bồ Tát màu lưu ly trong veo khép mở phản chiếu khuôn mặt y, dịu dàng, yêu thương, từ bi ngập tràn.
Quản gia dừng chân đứng sát tường, vốn định đến báo cáo, vừa nghe thấy Hoắc Kinh Đường nhắc đến bệ hạ, trong lòng rơi lộp độp một chút.
Càng nghe càng không nói nổi, Hải thúc không nhịn được trợn trắng mắt, lòng dâng lên nỗi thương xót cho Triệu Bạch Ngư bị lừa gạt.
À đúng vậy, bệ hạ đúng là đã nhẫn tâm đưa tiểu quân vương chín tuổi đi, nhưng Hoắc Kinh Đường có dám nói rằng lúc ấy hắn giơ đao kêu đánh kêu giết với bệ hạ, còn mẹ nó đòi chơi cái trò cát bào đoạn nghĩa* gì đấy nữa hay không!
(*) Nguyên văn 割袍断义 – Cát bào đoạn nghĩa: Quản Ninh và Hoa Hâm cùng cuốc đất trồng rau trong vườn, họ trông thấy dưới đất có một miếng vàng.
Quản Ninh vung cuốc không ngừng, xem đó như gạch đá không khác.
Hoa Hâm nhặt miếng vàng lên rồi sau mới quăng đi.
Hai người thường ngồi chung chiếu đọc sách.
Có một vị quan ngồi xe cao bốn bên có buông rèm đi ngang qua cửa.
Quản Ninh vẫn cứ đọc sách như cũ, còn Hoa Hâm thì bỏ sách xuống chạy ra ngoài xem.
Quản Ninh liền cắt chiếu chia chỗ ngồi, nói rằng: "Ông không phải là bạn của tôi." Về sau dùng "cát bào đoạn nghĩa" để hình dung việc tuyệt giao với bạn bè.
(Phi Yến Nhược Lam)
Mặc dù có bị mưu hại ở Tĩnh vương phủ, nhưng cũng không lâu sau đó trong Kinh Đô truyền ra tin đồn trước kia Tĩnh vương ái thiếp diệt thê, năm đó đoạt đích* thất bại làm bẩn cái danh vị vương hiền đức, cuối cùng gần như bị tiêu diệt.
(*) Đích ở đây ý là con trưởng, dòng chính.
Tuy hung tàn làm bậy chỉ là lời bịa đặt, nhưng đánh giá hắn là hỗn thế ma vương thì không sai, từ tận trong xương tủy của tiểu quận vương không có bao nhiêu phần nhân từ.
Đó gọi là từ bất chưởng binh*, nhà nhà ở Tây Bắc lập bia trường sinh cho hắn, hắn có thể là chủ tử bị người ta ức hiếp hay sao?
(*) Từ bất chưởng binh -: Là một lời dạy của người xưa về thống binh, dùng lời của Tôn Tử để nói chính là: "Sâu nặng mà không thể sai, yêu thương mà không thể lệnh, hỗn loạn mà không thể trị, ví như kiêu tử, cũng không thể dùng.
Có thể thấy, chưởng binh không phải là không được có lòng nhân ái, mà chính là không được quá nhân từ.
Nếu như cần