"Cầu ba mươi ba ngàn ba trăm thần phật, giúp cho tiểu thanh thiên kia thoát khỏi biển khổ vô biên, trả y về nhân gian này"
==
Cung yến tan đi, đêm dài vắng người, không một ai ngủ say.
Trần Sư Đạo vừa bước khỏi cửa kiệu, lướt qua người hầu ân cần đỡ, suýt chút nữa là vấp vào bệ cửa ngã, thằng bé canh cổng liên tục kêu lên, đèn dầu trong phủ được thắp sáng, từ trên xuống dưới đều bị kinh động.
"Đừng xé chuyện nhỏ thành to, trở về ngủ hết ngay, tắt đèn đi, đừng lãng phí dầu." Trần Sư Đạo vẫy vẫy tay, dặn dò hai câu, bảo người nấu chút canh thuốc an thần cho ông, dặn dò xong mới về phòng ngồi xuống, ngơ ngác nhìn ra cảnh đêm mịt mờ, khóe miệng giật giật, "Sao lại không muốn sống nữa?"
Đệ tử mà ông tâm đắc nhất, đứa trẻ mà ông yêu thương nhất bị ép đến nỗi không muốn sống nữa.
Biết rõ với trí thông minh của mình, Triệu Bạch Ngư nhất định sẽ bị tổn thương, trong lòng ông thừa biết y thích hợp làm một ẩn sĩ nhìn núi hỏi nước hơn, biết rõ y quá chính trực, quá đồng cảm với lê dân bá tánh, ngoài miệng thường hay nói "Quan trường không phân biệt đúng sai đen trắng", và y cũng đã thỏa hiệp không biết bao nhiêu lần.
Nhưng đến khi có một ngày, công bằng của chúng dân và đạo lý quan trường thật sự xung đột với nhau, trong thời điểm khó chọn cả đôi đường, y thà thịt nát xương tan cũng muốn tìm kiếm công bằng giúp đỡ những người ngoài kia.
Triệu Bạch Ngư không hợp vào quan trường.
Khi đó rõ ràng đã nói như vậy rồi, vì sao về sau còn cố hết sức giật dây bảo y kiến công lập nghiệp? Vì sao còn thuyết phục y vào hai phủ làm tể tướng?
Biết rõ Lưỡng Giang nguy hiểm, ông vẫn khuyên nhủ y đến đó.
Trái lại đã có được đệ tử thanh thiên đầu tiên của Đại Cảnh như mong muốn, thế nhưng Triệu Bạch Ngư đã nhận lại được gì?
Nhận được trái tim như tro tàn đối với quan trường, khiến y phải đứng giữa những bất công của bao người, phải chịu thêm một đao chí mạng chưa biết sống chết.
Trần Sư Đạo run rẩy đưa tay lên che mặt: "Ta cũng là người ép chết ngũ lang."
Năm lần bảy lượt bảo y thỏa hiệp, nhượng bộ, phong thư gửi về Lưỡng Giang tự cho là cứu được Triệu Bạch Ngư, nhưng làm sao không biết đó chính là cọng rơm đè chết y?
Sau khi chém chết ba trăm quan, ngũ lang đã phải sợ hãi đến nhường nào chứ?
Tạo nên sự sống cho con dân, mở ra muôn đời thái bình, nhưng cùng lắm là y chỉ cầu một công đạo giết người phải đền mạng mà thôi, từ quân vương cho đến ân sư, bạn bè đều cùng y gánh đạo lý mà đi, ai cũng đều khuyên y dừng lại.
Dừng lại, thỏa hiệp, nhượng bộ, đừng cố chấp, đừng làm chuyện dại dột, không đáng!
Y đã cô đơn đến nhường nào?
Nói rằng tuy thiên vạn nhân ngô vãn hỉ*, nhưng trên con đường kia chỉ có y lẻ loi độc hành.
(*) Là 1 câu nói trong cuốn Mạnh Tử.
Công Tôn Sửu thượng, nguyên văn: 自反而缩, 虽千万人, 吾往矣 - Tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ: ý là tự vấn thấy chính nghĩa thuộc về mình cho dù có thiên quân vạn mã, vô vàn khó khăn, ta vẫn tiếp tục tiến về phía trước.
Ngũ lang đã phải tuyệt vọng đến mức nào mới có thể một lòng muốn chết cơ chứ?
***
Phủ Đồng tri.
Cao đồng tri nhận lấy canh an thần mà người hầu đứa tới thổi thổi, để nguội một chút rồi mới đưa cho Cao phu nhân vẫn còn chưa hoàn hồn: "Uống rồi đi ngủ đi."
Cao phu nhân mở mắt ra, chậm rãi uống hết canh an thần, một lúc lâu sau mới thở dài: "Ngày mai ta sẽ đến chùa Hồng Phúc đốt đèn cầu phúc, phù hộ cho tiểu thanh thiên bình an thoát khỏi nguy hiểm."
Cao đồng tri: "Quyên góp thêm chút tiền nhang dầu nữa, cầu cho tiểu Triệu đại nhân vô sự."
Ông thở dài một hơi, không thể không nói rằng đã cảm động trước cảnh tượng Triệu Bạch Ngư cản đao cứu Thánh thượng, sau đó từ chối để thái y cứu mình.
Để có thể ngồi vào vị trí Tể tướng này của ông thì phải là một lão già giàu kinh nghiệm trong quan trường trước, huống chi xưa nay lắm cuộc chiến chém giết, cảnh máu tanh nào mà ông chưa từng nhìn thấy?
Bởi ông cũng đã từng ra lệnh gi3t chết vạn người mà mặt không đổi sắc.
Chỉ có mỗi đêm nay khi nghe thấy câu "Không muốn sống nữa" của Triệu Bạch Ngư, ông mới thoáng run sợ, xúc động không thôi.
Cao đồng tri quả thực rất yêu thích Triệu Bạch Ngư, chỉ là sự yêu thích đó ít nhiều cũng có trộn lẫn với lợi ích, ví dụ như vụ án Lưỡng Giang đã dính dấp đến phân tranh Thái tử không chút nghi ngờ, Đông cung và Lục hoàng tử chém giết tựa như ngao cò tranh nhau, nhưng bệ hạ thì vẫn vững như kiềng ba chân*, không hề che giấu ý muốn nâng đỡ Hoắc Kinh Đường trước mặt đám lão thần bọn họ.
(*) Nguyên văn: Nhâm bằng phong lãng khởi, ổn tọa điếu ngư thai (任凭风浪起, 稳坐钓鱼台): Dù cho sóng gió nổi lên, vẫn vững vàng ngồi câu cá.
Khi gặp tình trạng khó khăn, nguy hiểm thì vẫn không dao động; Dù ai nói ngã nói nghiêng lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Xuất phát từ những tranh chấp lợi ích rắc rối phức tạp trong quan trường, Cao đồng tri không chút do dự vươn tay ra kéo Triệu Bạch Ngư, nhưng nếu như đi ngược lại với lợi ích căn bản, ông vốn đã không cần phải nghĩ ngợi mà bỏ đá xuống giếng.
Đây chính là quan.
Khi không vướng mắc lợi ích thì chỉ biết lo cho thân mình, liên quan đến lợi hại thì lo trước lo sau, liên tục tung ra mọi thủ đoạn có thể làm, thật ra mục đích cuối cùng vẫn chỉ là bảo vệ thân mình, lo cho bản thân mà thôi, mấy ai còn nhớ đến dân chúng? Ai dám vì một câu công bằng như "giết người đền mạng" để đối nghịch với quân vương và triều đình?
Thế nhưng cho đến giờ, đọc sách làm quan không phải chỉ để lo cho thân mình, làm người thì phải dựa vào thiên lý và lương tâm, làm quan càng cần phải dựa vào thiên lý và lương tâm, đáng tiếc không có quan lại nào còn nhớ rõ.
Càng làm quan chức lớn thì càng phải cẩn thận, cẩn thận từng li từng tí, trong mắt chỉ còn lại có chính mình thôi, đâu còn chỗ cho lê dân bá tánh nữa?
Cao đồng tri biết dù bản thân không thể so bì với hiền thần lương tướng như Tỷ Can hay Ngụy Chính, nhưng ông có thể tự xưng mình là một trung thần trong lòng bệ hạ, triều đình và người trong thiên hạ, mà khi có sự xuất hiện của Triệu Bạch Ngư, ông mới giật mình nhận ra là bản thân đã xem nhẹ dân chúng bình dân dưới chân mình quá lâu rồi.
Chỉ một công đạo cơ bản cũng không cho được, vậy thì coi là trung thần lương tướng gì chứ?
Vậy nên Cao đồng tri mới rung động, sự tán thưởng xen lẫn tính toán lợi ích đối với Triệu Bạch Ngư đều hóa thành kính phục.
"Chỉ mong vô kinh vô hiểm, bình an vô sự."
***
Phủ Khang vương.
Cao đô tri dìu Khang vương hai chân mềm nhũn ngồi xuống, cầm khăn ẩm lau mặt và tay giúp ông, lại bị Khang vương nắm ngược tay lại, kéo về phía trước ôm lấy eo, chôn mặt trong ngực Cao đô tri.
"Ta không ngờ Triệu Bạch Ngư lại cản đao, cũng không hề nghĩ rằng y một lòng muốn chết."
Giọng nói của ông rầu rĩ, cảm giác bức bối bộc lộ ra trong lời nói.
Cao đô tri vỗ lưng ông nhẹ giọng trấn an: "Không ai có thể biết trước cả, ngươi một lòng muốn cứu Triệu Bạch Ngư thoát khỏi khốn cảnh, bổn ý là vì tốt cho y mà thôi."
"Ban đầu là tại ta hèn nhát, không dám nói rõ sự hung hiểm của Lưỡng Giang, nếu như nói cho y biết chuyện một trăm tám mươi quan liên danh bảo vệ Ma Đắc Dung sớm một chút, nếu như ta không lắm mồm lắm miệng nói một câu tiền trảm hậu tấu, nói không chừng y đã có thể chuẩn bị tâm lý thật tốt từ sớm rồi, trong lòng y sẽ băn khoăn, không đến nỗi...!Không đến nỗi phải gieo mình vào núi đao biển lửa, cũng sẽ không tự cắt đứt đường lui, dứt khoát như thế này."
Cao đô tri thầm thở dài, từ đầu đến cuối vị vương gia cẩm y ngọc thực của hắn vẫn không thể hiểu được nguyên nhân thật sự khiến tiểu Triệu đại nhân chém chết ba trăm quan rồi không muốn sống nữa, đâu phải là bởi vì Lưỡng Giang hung hiểm?
Rõ ràng là vì vô vàn ân oán chồng chất ngút trời không thể dẹp yên, rõ ràng là vì quan lại trong quan trường tối tăm chẳng thể thấy mặt trời này không muốn vì dân chờ lệnh, rõ ràng là vì y chỉ có một thân một mình, quá đỗi cô đơn.
***
Đỗ phủ.
Đỗ công tiên về phủ liền đưa phu nhân đi tắm rửa, áo bào còn dính máu trên người ông vẫn chưa được cởi ra đã bị Hộ bộ Phó sứ bám lấy, tâm trạng vốn đã nặng nề vì lo lắng cho Triệu Bạch Ngư, còn phải nghe Hộ bộ Phó sứ gào khóc nên đầu óc trở nên đau nhức.
Một ông già choai choai trên mặt đầy nếp nhăn, tóc hơi bạc, bên tóc mai vẫn còn cài trâm hoa lăng tiêu đã héo rũ, bấy giờ đang ngồi ở tiền thính của Đỗ phủ ăn vạ không chịu đi, thút tha thút thít khóc lóc vì đã nhìn thấy chí hữu cản đao cho Thánh thượng, nghe thấy chí hữu nói không muốn sống nữa, trái tim lão đã tan nát rồi.
Cảm xúc lên đến đỉnh điểm, lão khóc càng to hơn, gào thét đến nỗi hai tai Đỗ Công Tiên đều đau.
Ông mặt không đổi sắc nghĩ, hay thật, cuối cùng cũng vinh dự được tri kỉ nhận làm chí hữu rồi, nhưng mà tiểu Triệu đại nhân người ta thậm chí chưa mời lão đến phủ Lâm An quận vương qua đêm, sao lại không biết xẩu hổ như vậy chứ?
"Tiểu Triệu đại nhân là Bồ Tát công đức vô lượng, người hiền sẽ được trời giúp, không có việc gì đâu."
"Ý ông là sao? Trên mép ông chỉ treo được mỗi câu không có việc gì dâu thôi à? Đỗ Công Tiên, ông đúng là đồ máu lạnh."
"..." Đỗ Công Tiên lạnh lùng nhìn ra bầu trời đêm bên ngoài phòng lớn, trong lòng nghĩ xem nên cắt đứt quan hệ với tên đồng liêu lâu năm này thế nào.
Chờ đến khi tâm trạng của Hộ bộ Phó sứ ổn định lại, Đỗ Công Tiên liền vội vàng đuổi người đi, vất vả lắm mới khuyên được người ra đến cửa, kết quả gặp được Công bộ Thị lang Phạm Văn Minh đang đi ngang qua, không biết có chuyện gì mà hắn trố hai mắt ra nhìn Hộ bộ Phó sứ, rồi cũng chẳng hiểu vì sao mà hai người quay lại tiền thính Đỗ phủ ngồi ì ra không chịu đi.
Đỗ Công Tiên thấy mắt hai vị đồng liêu đỏ bừng, đã không tức giận nổi nữa rồi.
Thích thế nào thì cứ làm thế ấy đi.
Phạm Văn Minh và Hộ bộ Phó sứ xì xào bàn tán: "Ngày mai tấu thỉnh Thánh thượng, xem có thể vào cung thăm tiểu Triệu đại nhân hay không?"
Đỗ Công Tiên: "Người có thể tỉnh được hay không còn là một chuyện, cả đám vào đấy chẳng phải sẽ quấy rấy thái y cứu chữa..." Đang nói giữa chừng thì lời bỗng bị cắt ngang bởi hai đôi mắt đỏ ngầu giận dữ của Hộ bộ Phó sứ và Phạm Văn Minh, ông ngượng ngừng nói: "Chắc chắn tiểu Triệu đại nhân sẽ tỉnh lại mà.
Chắc chắn."
Lúc này hai người mới dời mắt đi.
Hộ bộ Phó sứ: "Hay là đừng tới làm phiền y, nghe ngóng tin tức thôi là được rồi.
Ta và ngươi cố gắng làm chuyện khác trên triều vậy, như vụ án Lưỡng Giang kia, không thể bỏ qua cho kẻ chủ mưu, còn có đám quan lại Đông Nam kia nữa, dù đã chặt đầu rồi cũng phải tra cho đến cùng, công khai tội của bọn chúng ra ngoài, phải truyền sự thật của án oan này đi khắp thiên hạ."
"Có lý." Phạm Văn Minh gật gù, "Cần giải oan nên giải oan, cần trừng trị phải trừng trị, dù quan có bị bắt hay bị chém rồi thì cũng không thể mặc kệ dân chúng chịu khổ thêm nữa, phải trả lại công bằng và trong sạch cho bọn họ, triều đình cũng cần phải chi trả đền bù cho mọi tổn thất."
Hộ bộ Phó sứ: "Nhưng mà bản án này ta và ngươi chưa chắc có thể nhúng tay vào được."
Phạm Văn Minh: "Ta biết là bệ hạ sẽ giao bản án cho Triệu tế chấp.
Tuy nói rằng cả kinh đô này ai cũng biết Triệu tế chấp ghét bỏ tiểu Triệu đại nhân, nhưng ông ta xử sự công bằng, sẽ không vì lòng riêng mà trả thù người khác."
Hộ bộ Phó sứ bĩu môi: "Chỉ sợ vạn nhất." Lão không ưa Triệu Bá Ung giả vờ nghiêm chỉnh kia chút nào, ông ta rất bất công với chí hữu Triệu Bạch Ngư của lão.
Phạm Văn Minh ho một tiếng: "Ta thấy lúc tiểu Triệu đại nhân bị thương, Triệu tế chấp và phu nhân của ông ấy vô cùng đau lòng, trông không giống như là giả, cảm giác, cảm giác như có ẩn khuất gì đó."
"Có à?" Đỗ Công Tiên xen vào.
"Đương nhiên là có!" Đỗ phu nhân thay quần áo sạch sẽ xong đột ngột bước từ bên trong ra, khoanh hay tay lại, trong lòng kích động nhưng có thể kìm lại được: "Ta nhớ Xương Bình ghét cay ghét đắng tiểu Triệu đại nhân, không hề có chút tình thương của mẹ nào, trái lại Triệu tế chấp và Triệu phu nhân thì rất ân cần, thật ra có để tiểu Triệu đại nhân trong lòng.
Còn một điều mà các ông không để ý tới, đó là trước màn bức vua thoái vị, Triệu tế chấp và phu nhân đã liên tục nhìn về phía tiểu Triệu đại nhân rồi, tình cảm đó, ánh mắt đó, cực kì mỏi mòn..."
Đỗ phu nhân nói không ngừng nghỉ, thuật lại bí mật cay đắng mà bà đào bới ra được trong bữa tiệc.
Ba người đàn ông đều đứng nghe chăm chú, đoán ra được sự thật cuối cùng, không khỏi đồng loạt hít sâu một hơi: "Đúng là không thể tưởng tượng nổi!"
"Nếu sự thật là vậy..." Hộ bộ Phó sứ và Phạm Văn Minh lầm bầm tự nhủ: "Tiểu Triệu đại nhân đúng là vô cùng cực khổ rồi."
***
Trong điện Từ Minh, Thái hậu quỳ gối trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi.
Ma ma đứng ở bên ngoài tiểu Phật đường nhỏ giọng nói: "Thái hậu, trời đã sáng rồi, bệ hạ vẫn còn đang chờ ở phía trước."
Thái hậu mở mắt ra, thắp một nén nhang trước Bồ Tát rồi ra khỏi tiểu Phật đường, cung nữ thái giám tranh thủ thời gian tiến lên hầu hạ.
Đến trước phòng khách, Nguyên Thú đế vẫn còn đang đứng chắp tay, nghe thấy tiếng động mới lập tức xoay người tới hành lễ.
Thái hậu vươn tay nâng ông dậy, dẫn tới tháp ngồi.
Nguyên Thú đế cúi đầu: "Con trai tới đây thỉnh tội với mẹ, con không thể che chở cho Xương Bình, cũng không thể bảo toàn muội ấy."
Bức vua thoái vị thì dù có là con ruột cũng đáng chết, huống chi là em gái?
Ông đặc biệt đến nói lời xin lỗi bởi ngay từ đầu đã không muốn tha thứ cho Xương Bình, việc Hoàng hậu, Đông cung và Xương Bình mưu phản, bức vua thoái vị sẽ nhanh chóng bị dừng lại, Nguyên Thú đế không thể không nắm rõ tình hình.
Lui một vạn bước mà nói, vì sao Xương Bình lại mạo hiểm mưu phản?
Có lẽ vì bà ta đã sâu sắc cảm giác rằng khó mà bảo toàn bản thân, cho nên mới muốn đánh đòn phủ đầu trong ván bài bát thiên này.
Phàm là Nguyên Thú đế làm chút gì đó cho Xương Bình sau khi bà ta hồi kinh, dù chỉ là một câu nói thôi cũng đủ để trấn an bà rồi.
Nhưng mà không có.
Một bên giận dữ lệnh cho Triệu Bạch Ngư về kinh, một bên sấm to mưa nhỏ, qua loa hạ một khẩu dụ vây cấm xuống, kiếm cớ kéo dài việc tra xét đại án Lưỡng Giang, rồi cấm túc cả Xương Bình, đến tận giờ phút này cũng không hề có ý định truy cứu việc đám người Trần Sư Đạo, Hoắc Kinh Đường bắt tay nhau bày mưu bức sát Xương Bình.
Có thể đó là thêm dầu vào lửa, hoặc chỉ là khoanh tay đứng nhìn, nhìn Xương Bình tự rước lấy cái chết, sau cùng không thể phủ nhận được sát tâm của Nguyên Thú đế.
Thái hậu nhìn Nguyên Thú đế thật lâu, ông cũng góp phần thúc đẩy cái chết của em gái ruột thịt, vì vậy nên mới áy náy đau buồn, tình cảm biểu hiện ra lúc này là thật, tuyệt tình diệt trừ Xương Bình cũng là thật.
Thiên tử bạc tình.
"Là do Xương Bình ương bướng độc đoán, đại nghịch bất đạo, rơi vào kết cục này là do nó tự gieo gió gặt bão.
Hoàng đế cũng đừng quá đau buồn, hãy lo cho bản thân mình đi."
Thiên gia vô tình.
"Nếu như con ngã xuống, giang sơn xã tắc, lê dân bá tính phải làm sao bây giờ?" Thái hậu vuốt v e Phật châu, chuyển ánh mắt sang chiếc bàn thấp khắc kinh Phật bên cạnh, niệm từng chữ một, "Nghe đám thái giám cung nữ nói, lúc Hoàng đế bách tử nhất sinh, Triệu Bạch Ngư đã lấy thân mình ra ngăn một đao chí mạng cho con, bây giờ vẫn còn giằng co với sinh tử phải không?"
Nguyên Thú đế gật đầu.
"Chính vì vậy, Hoàng đế mới buông thả để Triệu tế chấp giật dây vì tình riêng, đồng ý cho ông ấy đưa Xương Bình đi tra hỏi sao?"
"Triệu khanh có ơn với trẫm, nhưng không phải là vì nguyên nhân này." Nguyên Thú đế nghĩ đến món nợ mà mình còn thiếu, tuy không nhiều lắm nhưng cũng đã đủ khiến cho Thiên tử áy náy rồi, "Thái hậu có điều không biết, Xương Bình đã lén lút đánh tráo Triệu Bạch Ngư và Triệu Ngọc Tranh khi chúng mới vừa ra đời."
Thái hậu ngẩng đầu lên: "Cái gì?"
"Triệu Bạch Ngư mới là con trai út của Triệu tế chấp, còn Triệu Ngọc Tranh là con trai của Xương Bình."
Thái hậu bàng hoàng không nói nên lời, mạnh mẽ siết chặt vòng Phật khiến nó đứt phăng, hơn trăm hạt bồ đề lách cách rơi xuống đất: "Thật sao?"
"Tất cả đều là thật."
"Tạo nghiệp chướng, Xương Bình tạo nghiệp chướng rồi." Thái hậu không ngừng lắc đầu tiếc nuối: "Ta biết nó kiêu căng cố chấp, cho rằng nó vẫn còn chút lương tâm, ít ra sẽ không gây nghiệp lên người con mình, không ngờ nó lại có thể ra tay với một đứa trẻ khi nó chỉ vừa mới sinh ra."
Bà thở dài nói: "Hai mươi năm trước hủy hoại Triệu gia một lần, hai mươi năm sau lại phá tan nát một lần nữa, quả nhiên là oan trái nghiệt duyên."
Mà oan trái nghiệt duyên này có liên quan gì đến Triệu Bạch Ngư đâu?
Chịu khổ chịu khó hai mươi năm, sau cùng chỉ có Triệu Bạch Ngư là vạn tử nhất sinh mà thôi.
"Quả nhiên, y là Bồ Tát đến nhân gian độ kiếp cho nên mới phải chịu lắm gian nan khổ cực như vậy." Thái hậu thở dài nặng nề, nhìn Nguyên Thú đế nói: "Hoàng đế về nghỉ ngơi đi, ta cũng mệt rồi."
Nguyên Thú đế đứng dậy: "Nhi tử cáo lui."
***
Ra khỏi điện Từ Minh, nghênh đón ánh mặt trời mới mọc, sắc mặt của Nguyên Thú đế không thay đổi, khẽ vuốt v e ngón tay chắp ở sau lưng.
Mưu phản, bức vua thoái vị, trong một đêm mất đi Hoàng hậu và Đông cung, suýt nữa mất luôn cả mạng, nếu như bình thường, lẽ ra Thái hậu phải bận bịu tới lui, quan tâm sai người nấu canh an thần mang đến, còn phải sao chép kinh Phật, làm thức ăn chạy tạ ơn thần minh tám phương, thế nhưng lúc này đây bà chỉ lạnh nhạt nói vẻn vẹn vài câu cho có, thậm chí không chạm vào tay ông, không vỗ lưng ông, cũng không xoa đầu ông để an ủi.
"Còn trách cứ trẫm nữa."
***
Cửa cung điện Từ Minh đóng lại, Thái hậu ngẩn người nhìn hạt châu lăn lóc dưới mặt đất, ma ma chăm sóc bà bốn mươi năm trời bước tới thấp giọng khuyên nhủ, nói đã một đêm bà chưa ngủ rồi, hay là đi ngủ trước đi.
"Tâm sự nặng nề thế này làm sao ngủ được?" Thái hậu lặng lẽ lau nước mắt trên khóe mắt, con gái hại người, kẻ đau lòng nhất là bà, "Đỡ ta vào nội đường tiểu Phật đường đi, chép thêm nhiều lần kinh Phật nữa, tiện thể chuộc tội thay cho Xương Bình vậy."
Bỗng nhiên Thái hậu lại nói: "Vào kho phủ ta tìm một vài dược liệu quý hiếm đưa đến Thái y viện, nói là để cho Triệu Bạch Ngư dùng.
Còn nữa, trong hai ngày này tìm thời gian đi lãnh một cái thẻ ngà, đến chùa Hồng Phúc giúp ta đốt đèn cầu phúc."
Ma ma cẩn thận hỏi lại: "Cầu cho Xương Bình điện hạ sao ạ?"
Thái hậu im lặng rất lâu mới lên tiếng: "Cầu phúc cho Triệu Bạch Ngư...!Cầu cho thằng bé về sau vô tai vô nạn."
***
Điện Tử Thần, noãn các.
Đã ba ngày trôi qua, Triệu Bạch Ngư vẫn chưa có dấu hiệu tỉnh lại.
Máu đã ngừng chảy, miệng vết thương được khâu lại rất thuận lợi, cơn sốt cũng đã lui, dược liệu bổ máu bổ khí quý báu đưa vào cơ thể như rót nước, thái y luôn canh chừng ở bên ngoài noãn các chờ lệnh mọi lúc, đến cả Từ Minh Bích cũng bị Hoắc Kinh Đường ép vào cung cứu chữa cho Triệu Bạch Ngư.
Ngày đầu tiên thật sự rất nguy hiểm, lưỡi đao kia suýt chút nữa là đâm xuyên thủng nội tạng, sau khi xác nhận máu không còn chảy nữa, thái y bèn nhanh tay khâu miệng vết thương lại, khi ấy Triệu Bạch Ngư đã được cho ăn không ít ma phi tán, theo lẽ thường là sẽ phải tình lại vì cơn đau do khâu sống, nhưng mà suốt cả quá trình đó y không hề có ý thức, đồng tử tan rã, chứng tỏ nguy cơ cực cao, bất cứ lúc nào cũng có khả năng tử vong.
Cũng may đó chỉ là nỗi sợ chứ không nguy hiểm, việc khâu vết thương đã hoàn thành, nhưng theo sát phía sau là cơn sốt cao đến đáng sợ, ba canh giờ sau đó phải có người trông chừng Triệu Bạch Ngư không được rời một giây một phút nào, cứ đúng giờ là phải giúp cơ thể y hạ nhiệt độ, còn cần phải luôn chú ý đến miệng vết thương tránh để nó rách ra, không được để nhiễm trùng,
Giành giật từng giây căng thẳng, giữ vững tinh thần, chỉ sau mấy canh giờ ngắn ngủi thôi mà hai nhóm người từ thái giám cung nữ đến thái y đều nối tiếp nhau mệt mỏi ngã gục.
Cũng may là đã hạ sốt, miệng vết thương cũng không nhiễm trùng, nhưng mà Triệu Bạch Ngư vẫn không tỉnh.
Các thái y vắt óc đau khổ suy nghĩ rồi đưa ra kết luận: "Đáng ra bây giờ tiểu Triệu đại nhân phải tỉnh rồi, nhưng vẫn chưa tỉnh thì chỉ có thể nói..." Thái y do dự một chút, vẫn cắn răng nói ra: "Chỉ có thể nói rõ ý chí sống sót của bản thân y rất yếu ớt, không muốn tỉnh lại!"
Hoắc Kinh Đường rơi vào trầm lặng, một lúc lâu sau mới hỏi: "Vậy có cách nào giúp tiểu lang tỉnh lại không? Có cách nào có thể làm tăng ý chí sống sót của tiểu lang hay không?"
Đám thái y quay mặt sang nhìn nhau, cuối cùng Từ Minh Bích bước ra khỏi hàng nói: "Lúc ta đi chu du dân gian có từng gặp một ca bệnh té chấn thương đầu hôn mê mấy tháng liền, nhờ người nhà kiên trì mới khiến cho ý chí sống sót của người bệnh tuôn ra mạnh mẽ, rốt cuộc cũng tỉnh lại.
Sau đó người bệnh nói rằng lúc hắn hôn mê vẫn có thể cảm nhận được rõ ràng những gì xảy ra ở xung quanh mình, còn nghe thấy được những điều người thân nói bên tai hắn, đúng là nhờ người nhà không bỏ cuộc, ý chí sống sót mới bật lên, thoát khỏi cái chết đang đe dọa, kéo sinh mạng trở lại lần nữa."
Hoắc Kinh Đường: "Ngươi nói tuy tiểu lang hôn mê, nhưng y vẫn có thể nghe thấy chúng ta nói chuyện sao?"
Từ thần y khựng lại một chút rồi đáp: "Có lẽ vậy." Gã cũng không chắc chắn lắm.
Hoắc Kinh Đường: "Vậy có phải là ta nói chuyện với tiểu lang rồi, y