Khẩu Tâm bước trên con đường sỏi đi từ Hắc Viện tới mảnh sân sau Thanh Tịnh tự. Tứ bề của mảnh sân được tre bao bọc, trong sân treo lủng lẳng toàn những bao cát, khúc cây, hình nộm rơm, đó chính là luyện võ đường của các đương gia. Hằng ngày, vào những giờ rảnh rỗi, chàng và các đương gia thường ra đây ôn quyền luyện cước, tay đấm chân đá, huỳnh huỵch vào các bao cát, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Khẩu Tâm đặt tay lên đầu một hình nộm rơm, suy nghĩ đến thất thần. Chẳng biết bao lâu sau, chàng nghe có tiếng chân người, rồi Tần Thiên Nhân, Tôn Hứa Khải và Tàu Chánh Khê xuất hiện.
Tàu Chánh Khê vừa vào tới liền nói:
- Thiếu đà chủ, khi huynh vừa đi khỏi Hắc Viện, bọn người nha môn liền đến tìm thất đệ, hỏi chuyện cống sinh nhập kinh. Đệ ấy đi vắng, nên lão Trần nói các học sinh đó đã hoàn tất khóa học, rời Hắc Viện trở về quê cả rồi, bảo quan huyện có muốn đi tìm thì tự mà tìm.
Vương triều Thanh là do một dân tộc thiểu số phương Bắc kiến lập sau khi chinh phục vùng Trung Nguyên. Vì thế, họ đặc biệt chú ý tới việc đề phòng tình cảm dân tộc của các phần tử trí thức nguời Hán, thường bắt bớ những người có câu chữ khác thường trong văn chương, phát động Văn Tự Ngục, tiến hành các cuộc trấn áp tàn khốc đối với người Hán.
Văn Tự Ngục là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, vô cùng thịnh hành vào thời hoàng đế Thuận Trị tại vị, nhất là ở những vùng miền xa kinh thành, Văn Tự Ngục đã xuất hiện và hoành hành rất nghiêm trọng.
Một số lượng lớn các văn nhân vì viết sai một hai câu, có liên quan đến triều đình trong các tác phẩm của mình là ngay lập tức rước họa diệt môn. Cống sinh nào không nhập kinh thi cử để phò trợ triều đình, hoặc thường dân nào có lời lẽ phỉ báng triều đình Đại Thanh, cũng sẽ bị phạt thống quân. Thống quân là hình phạt mà nguời phạm tội bị đưa tới vùng biên viễn làm lao dịch, có các mức một ngàn dặm, hai ngàn dặm, ba ngàn dặm, bốn ngàn dặm, hoặc nặng hơn nữa là bị xử trảm, nặng nhất là tru di cửu tộc.
Sau khi Khẩu Tâm nghe Tàu Chánh Khê kể tên các cống sinh bị buộc phải đi kinh thành, Khẩu Tâm lắc đầu:
- Những người này đều là những học sinh xuất sắc nhất của Hắc Viện. Thế họ phản ứng thế nào?
Tàu Chánh Khê nói:
- Đương nhiên là họ không chịu, sau khi bọn quan sai đi rồi, họ mới rời chỗ nấp phản đối kịch liệt với lão Trần, nói nếu thất đệ trở về mà khuyên họ đi họ sẽ quỳ trước cửa Tâm Thiền thư viện không chịu đứng dậy, có vài người bắt đầu chống đối bằng cách không chịu dùng điểm tâm rồi đấy, nhịn ăn nhịn uống, nhịn đói nhịn khát, như kiểu tuyệt thực ấy, thất đệ lại không có mặt trong Hắc Viện để giải quyết tình hình.
Tàu Chánh Khê kể tới đây, Tôn Hứa Khải thấp thỏm nhìn Tần Thiên Nhân hỏi:
- Nhị ca à, huynh nghĩ chúng ta phải làm sao bây giờ?
Vị trí của Tần Thiên Nhân trong hội thấp hơn Khẩu Tâm, khi gặp chuyện khó phân giải thì phải theo qui luật mà thỉnh thị người trên. Tần Thiên Nhân quay sang Khẩu Tâm:
- Thiếu đà chủ nghĩ sao?
Khẩu Tâm nhìn Tôn Hứa Khải, im lặng một chút nhìn sang Tần Thiên Nhân nói:
- Trước khi đến thời hạn cống sinh nhập kinh, chúng ta có thể tìm cách sắp đặt, dẫn họ trốn đi.
- Làm vậy được sao? – Tôn Hứa Khải hỏi – Khi quan huyện đến Hắc Viện tìm họ thì sao đây?
Khẩu Tâm gật gù:
- Thì càng củng cố lời của lão Trần đã nói chứ sao. Chẳng phải lão Trần đã bảo quan huyện các học sinh đó đã hoàn tất khóa học, rời Hắc Viện trở về quê cả rồi à?
Khẩu Tâm ngưng một chút, tiếp:
- Dầu gì thì họ cũng là người trong hội chúng ta, tuy không cùng chung máu mủ nhưng đã là người trong hội tức là người thân trong gia đình cả, vậy nên, theo huynh nghĩ một người trong đám chúng ta nên đích thân đưa họ đi khỏi Hàng Châu để đảm bảo an toàn cho họ, khi xảy ra chuyện cũng có người gánh vác.
Tôn Hứa Khải nghe Khẩu Tâm nói gục gặc đầu. Khẩu Tâm tiếp:
- Thất đệ là viện trưởng của trường học, họ tin tưởng vào đệ ấy nhất, huynh nghĩ đệ ấy nên đưa họ đi.
- Nhưng thất đệ không dưng mất