Việt, là một từ tồn tại xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.
Với một số người, thậm chí nhiều người, Việt có nghĩa là xa xa, lấy Trung Hoa làm trung tâm, Việt Nam là chỉ một nước ở phía Nam xa xôi.
Đương nhiên đó là cách hiểu sai lầm, quá mức sai lầm.
Từ “Việt”, trong tên dân tộc Bách Việt, đã xuất hiện từ rất lâu trước thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, đi tìm lịch sử Việt bằng cách bới trong đống chữ Hán cổ loằng ngoằng như vết chân cua, giải thích chữ Việt bộ Qua - cái rìu, Việt bộ Mễ - cây lương thực...!thì thật ngớ ngẩn.
“Việt” là chỉ một giống chim thần cổ xưa rất đẹp, hơi giống Bạch trĩ, người Việt cổ lấy giống chim này làm biểu tượng cho dân tộc mình.
Đây là giống chim được coi là cao quý nhất trong các loại chim, chứ không phải mấy loại chim hạ đẳng như quạ, sẻ, mòng két, le le ngớ ngẩn mà những người nghèo khổ ông cha bẩy đời ăn củ chuối, ở trần đóng khố khi đói bắt làm lương thực.
Đương nhiên, lời giải thích như vậy rất khó lọt tai các vị học giả hàn lâm, họ sẽ phun ra hàng tràng chứng minh dân tộc Việt cổ còn trong thời kỳ thờ vật tổ, rồi so sánh với các bộ lạc da đỏ, da đen bán khai còn tồn tại bây giờ.....Nếu vậy thì, bên Hoa Kỳ, đảng dân chủ lấy biểu tượng con lừa, đảng Cộng Hòa lấy biểu tượng con voi cũng là bán khai chăng? Chắc mấy cái đầu học giả đó không giải thích nổi.
Thực ra việc lấy biểu tượng cho cộng đồng cư dân là một nét văn hóa rất phổ biến của nền văn minh vĩ đại đã tồn tại trên địa cầu trước nền văn minh hiện nay.
Chỉ những dân tộc còn sót lại và làm nên những nền văn minh rực rỡ - mà bây giờ gọi là cổ đại - như Ai Cập, May a.....mới còn lưu giữ lại nét văn hóa còn sót lại một cách rất mơ hồ này.
Văn hóa Lạc Việt có hai loài chim làm biểu tượng, đó là Lạc và Việt.
Truyện Trọng Sinh
Chim Việt khác với chim Lạc - loài thần điểu xuất hiện trên trống đồng Đông Sơn.
Chim Lạc chỉ bắt đầu từ quá trình xuôi Nam của người Việt cổ mới xuất hiện, và cũng chỉ là biểu tượng của bộ lạc đứng đầu Bách Việt - dân tộc Lạc Việt mà thôi.
Còn chim Việt thì đã được cả nền văn minh Bách Việt thờ phụng từ một thời kỳ xa xưa hơn rất nhiều.
Bởi vậy trong Kinh Thi còn có câu, “chim Việt đậu cành Nam”.
Đó chính là chân nghĩa của tên gọi Việt Nam.
Chứ không phải là chỉ nước Việt ở phía Nam Trung Hoa như nhiều người vẫn ảo tưởng.
Bản thân hắn có nhiều tên gọi, như Đồ Tể, Phong Tử, Chó Điên, nhưng hầu hết chúng đều là biệt hiệu do người khác đặt ra trong kinh sợ, không có cái tên nào thực sự là của hắn.
Bắt đầu một cuộc sống mới, hắn muốn một cái tên do bản thân tự đặt.
Hắn cũng không phải là tuýp thanh niên có một lòng nồng nàn yêu nước hay tinh thần dân tộc cao độ gì cả.
Nhưng ở một thế giới lạ lẫm, cô độc giữa những sinh vật khủng bố, lạc lối giữa những nền văn hóa cổ xưa, tên Việt chỉ đơn giản là nhớ về một mảnh trời có lẽ không bao giờ được gặp lại.
Không biết đã cách đầm lầy hắc độc đã bao lâu, Việt mới dừng lại.
Hắn chọn một tảng đá phủ kín rêu phong tương đối êm ái, nhảy lên phía trên rồi quét ánh mắt quan sát xung quanh.
Đến khi chắc chắn không có ai đang rình rập, Việt xòe bàn tay ra, một chiếc hộp ngọc đẹp đẽ xuất hiện.
Nhẹ nhàng mở nắp hộp, chỉ thấy một đóa sen trắng tinh khiết, quang hoa nội liễm, nhưng vẫn dễ dàng nhận thấy linh khí tràn đầy.
Nhụy hoa tản mác ra hồng quang dịu nhẹ, như mặt trời mới nhú lên buổi bình minh, tràn ngập sức sống ngày mới.
Tứ cấp linh hoa, Triều Dương Bạch liên.
Linh thảo Việt cũng chưa phải là chưa từng thấy, hắn từng trộm được hai cây linh thảo ở một tổ hung cầm, chỉ tiếc là sau đó bị truy sát phải chạy như chó chết, cuối cùng phải buông bỏ mới nhặt lại được cái mạng.
Thế nhưng hai cây linh thảo kia căn bản là không thể so với Triều Dương bạch liên này.
Chiếc hộp ngọc này cũng không phải