“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3.”
Nhắc đến Phú Thọ, mười người thì có tới chín người nghĩ đến ngày giỗ Tổ Hùng vương, bởi đó là ngày hầu như tất cả đều được nghỉ lễ, trừ một số ngành nghề đặc biệt.
Phú Thọ chính là nơi đặt kinh đô đầu tiên của người Việt cổ - Phong Châu, là trung tâm trời đất thời đại Hồng Bàng, đặt nền móng cho sự phát triển rực rỡ của văn minh Đông Sơn và văn hóa Đại Việt sau này.
Người ta nói, Phong Châu hội tụ đủ các tiểu chuẩn của một đế đô muôn đời.
Các nhà khảo cổ học cho rằng, dựa trên địa thế cổ, Phong Châu đã từng là một đầu long mạch cực lớn, tập trung tinh hoa trời đất.
Nơi đặt đô là ngã ba Hạc – nơi giao của ba con sông lớn là sông Hồng, sông Đà, sông Lô tạo thành một thế thủy bao ôm lấy thành Phong Châu.
Phía bắc là dãy Tam Đảo bao bọc che chắn như thanh long thủ, phía nam là các dãy núi kế tiếp của Hoàng Liên Sơn vùng Yên Lập, Thanh Sơn – đây là bạch hổ thủ.
Trước mặt là vùng đồng bằng rộng lớn kéo dài của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, đây là chu tước.
Sau lưng nổi lên ngọn núi cao 1281 mét, đó là núi Tản Viên làm Huyền Vũ hộ thiên.
Phía tây bắc là những dãy đồi trùng điệp hình 99 con voi chầu về Nghĩa Lĩnh sơn.
ác dòng nước của sông Hồng, sông Đà, sông Lô dẫn mạch chảy vòng từ Tây Bắc xuống Đông Nam rồi vòng lên hướng Đông hợp lưu với sông Lô ở ngã ba Bạch Hạc tạo thế Thủy Viên Thành
Nghĩa Lĩnh Sơn, hay còn được gọi là núi Hùng, chính trung tâm hội tụ trời đất, là nơi đầu Kỳ Lân nhô lên, tạo ra thế “Tứ Tượng quy chân, Hoàng Lân nhập chủ”.
Chính nhờ vậy mà Phong Châu trở thành kinh độ Việt cổ suốt hơn 2000 năm, đặt nền móng cho văn hóa rực rỡ muôn đời.
Đương nhiên đó là những kiến thức của các phong thủy sư và các nhà khảo cổ học, thực tế với chiều cao của Nghĩa Lĩnh sơn hiện này, rất khó để liên tưởng đến hai chữ “long mạch” hay “Hoàng Lân”.
Trong khu rừng bao quanh Hùng sơn, làn sương sớm mờ ảo còn chưa kịp tan sau một đêm dài, một chiếc dù lớn mang theo một gã thanh niên chậm rãi hạ xuống, lập tức bị mắc vào tầng tầng ngọn cây.
Gã thanh niên tháo chiếc balo dù, từ trên cây nhảy xuống.
Mặc dù độ cao hơn 3 mét nhưng không thể làm khó được một sát thủ chuyên nghiệp.
Hạ thân xuống nền đất ẩm ướt còn nguyên những hạt sương đọng lại trên từng ngọn cỏ, gã thanh niên đưa mắt nhìn rừng cây bạt ngàn.
- Nơi này chính là Tổ Sơn?
Mặc dù sống ở thủ đô, thế nhưng hắn chưa một lần đến đến thăm Tổ Đền một lần.
Cái này cũng không có gì khó hiểu, nhớ ngày xưa lăn lộn kiếm sống qua ngày, làm gì dám nghĩ đến việc đi thăm thú.
Sau này bắt đầu có chút cơ ngơi, thì bắt đầu thích tìm hiểu các bí tân thời cổ xưa, khu di tích đền Hùng này mới được dựng lên vài thập kỷ, căn bản là không khơi gợi được hứng thú của hắn.
Hơn nữa, con người ta thường hướng đến những thứ xa vời mà đôi khi bỏ quên những giá trị quan trọng ở cạnh bên.
Giá trị của Tổ Đền, nằm ở mặt tinh thần, có điều giá trị tinh thần là một cái gì đó rất mơ hồ, đối với những kẻ sinh ra nơi đầu đường xó chợ, bới rác móc túi để tồn tại, thì cái gọi là giá trị tinh thần, e rằng hoàn toàn là vô giá trị.
Thế nhưng nói gì thì nói, là con rồng cháu tiên, nếu có cơ hội cũng nên đến thăm Tổ Sơn.
Rẽ cây rừng rậm rạp mà đi, chẳng mấy chốc gã thanh niên đã ra đến con đường bậc thang dẫn lên núi.
Hôm nay không phải ngày giỗ Tổ, lúc này lại mới hừng đông, nên cảnh sắc vô cùng vắng vẻ, hoàn toàn không có một bóng người.
Nhìn về phía đại môn sơn đỏ ở trên cao, gã thanh niên lại cất bước leo lên con đường bậc thang.
Đại môn Tổ Đền được xây dựng từ năm Khải Định thứ 2, nổi bật là bức đại tự gồm bốn chữ Hán.
Mặc dù không phải là nhà sử học, nhưng gã thanh niên vẫn dễ dàng đọc được.
- ‘Cao sơn cảnh hành’, hay ‘cao sơn cảnh hạnh’ đây?
Cao sơn cảnh hành, có nghĩa là ‘lên núi cao nhìn xa rộng’, còn cách đọc sau, có nghĩa là ‘Đức lớn như núi cao’.
Có vẻ như với ý nghĩa của Tổ Đền, “Đức lớn như núi cao” là đúng hơn cả.
Gã thanh niên chậm rãi leo từng bậc, không hề vội vã cũng không tỏ