Trời sáng rất mau, bình minh lên, xua tan đi màn đêm âm u lạnh lẽo.
Đây là thời điểm ác mộng đối với giới học sinh - sinh viên, đặc biệt là trong những ngày đông rét buốt, không ai muốn rời khỏi chăn ấm nệm êm đến trường học để chịu cảnh giáo viên ức hiếp dọa nạt mình cả.
Việt không hiểu cảm giác đó, đơn giản là vì hắn chưa từng trải qua.
Tuổi thơ của hắn đã quá quen với cái lạnh, đói và rét, từng có những ngày đông chỉ đánh độc một cái quần cộc rách rưới nằm co ro dưới gầm cầu Long Biên.
Vì vậy mà bóng tối đối với Việt quen thuộc bao nhiêu thì hắn lại mong đợi bình minh đến bấy nhiêu.
Mở cửa phòng, hít hà không khí trong loành buổi sớm mai, một cảm giác thân thuộc ùa về, hệt như khi thấy những tia sáng đầu tiên len lỏi dưới những thanh nhịp cầu vậy.
Trong khoảnh khắc kỳ diệu này, hắn dường như nắm bắt được một điều gì đó.
Ánh sáng, đó chính là biểu tượng của sự sống, của sinh mệnh; bóng tối, lại là sử hiển hiện của chết chóc, của tử vong.
Đó chính là hiểu biết chung của hầu như tất cả mọi người.
Nhưng thực tế không chỉ có vậy.
Với văn hóa phương Đông, ánh sáng chính là nhận thức, còn bóng tối là sự u mê triền miên.
Trong tư tưởng hệ tư tưởng khởi nguồn từ Nam Á là Phật giáo, ánh sáng lại là sự giác ngộ; ở chiều ngược lại, bóng tối là sự cố chấp vô minh.
Với người theo đạo Hồi ở Tây Á xa xôi, ánh sáng thực chất đồng nhất với trí tuệ, còn bóng tối là sự trì độn.
Về cơ bản, những tư tưởng Á Đông đều có sự tương đồng rất lớn về ánh sáng và bóng tối, khác với những nền văn hóa ở các châu lục khác.
Như những gì được ghi trong Sáng Thế thư của Kinh Thánh, sự tỏa rạng của ánh sáng chính là khởi nguyên, còn bóng tối ập đến đánh dấu sự kết thúc của vạn vật.
Còn ở trong văn hóa sông Nin, ánh sáng và bóng tối lại tượng trưng cho cảm xúc cùng cực của con sinh vật: hứng khởi, niềm tin và khổ đau, tuyệt vọng.
Những kiến thức này không hề khó tìm, chỉ cần gặp bác Gúc với từ khóa “biểu tượng ánh sáng bóng tối” là có thể tìm thấy.
Trước đây thực sự Việt không hiểu lắm những tu tưởng này, nhưng giờ phút này đúng như Phật giáo đã dạy, khi gặp được bình minh, con người ta sẽ giác ngộ.
Vượt qua được khổ đau tuyệt vọng đời sẽ tràn ngập niềm tin; sau suy tàn, kết thúc chính là phục hưng, khởi nguyên; sinh và tử, từ giác ngộ đến vô minh, đó là những vòng tuần hoàn, cũng như hoàng hôn và bình minh vậy.
Dù là hệ tư tưởng nào thì cũng có thể quy về một điều, ánh sáng được liên hệ với bóng tối, để tượng trưng cho những giá trị bổ sung hoặc thay phiên nhau trong một quá trình biến đổi.
- Hoàng hôn chủ hung sát, bình mình chuyển sinh cơ! Đây chính là sự vận động tất yếu của trời đất!
Lúc này hắn dường như đã lờ mờ nắm bắt được một chút gì đó của Đệ Nhị Bộ, không quá rõ ràng nhưng tác dụng không hề nhỏ.
Đến tận khi bình mình đã đi qua, Việt mới hồi tỉnh, rời phòng đi tìm lão bản của khách điếm.
.....
Lão bản của khách điếm này không ngờ lại hoàn toàn khác xa với tưởng tượng của Việt.
Không phải là một tên gian thương mặt mũi nhẵn nhụn hai mắt tinh minh như những ông chủ thường thấy, mà lại là một lão nhân gần đất xa trời.
Không phải trông như, mà đúng nghĩa là một lão già sắp chết.
Da mặt nhăn nhúm, lộ rõ các hốc xương, hai mắt lờ mờ đục ngầu có lẽ chẳng nhìn được thứ gì, còn hai tai chắc cũng đã phế khi mà có hai người bước vào mà lão vẫn ngồi yên dường như không biết gì.
Việt quay sang hỏi tên tiểu nhị:
- Ngươi có chắc lão già này còn đủ minh mẫn để giải đáp những thắc mắc của ta không?
- Khách quan nói đùa! Lão bản chúng tôi trông như vậy chứ thực ra minh mẫn còn hơn cả thanh niên!
Tên tiểu nhị một bộ dáng khẳng định như chém đinh chặt sắt, đương nhiên là Việt tỏ ra không mấy tin tưởng cho lắm, mấy gã cấp dưới thường tìm mọi cách chiều lòng nịnh nọt, nói một cách thô tục thì là bợ đít cấp trên của mình, đó là chân lý bất biến bao đời nay.
- Khách quan, ngài có gì cứ hỏi lão bản, tiểu nhân phải đi làm việc!
Việt để ý đến tên tiểu nhân này mà quay lại nhìn về phía lão già, hắn cũng không dám tỏ ra khinh người quá mức, ai mà biết được bên trong bộ da nhăn nheo này có phải là một lão bất tử hay không