Thế là chị Satsu đã trốn được. Cả ngày tôi cứ phân vân thắc mắc, và bây giờ tôi đã có câu trả lời. Tôi muốn mừng cho chị ấy, nhưng không thể được.
- Tao cứ nghĩ mày sẽ trả lại cho tao sau mười lăm năm làm geisha – bà ta nói tiếp – nếu mày thành công được trong nghề này. Nhưng ai dám đầu tư đồng nào nữa vào một đứa chạy trốn?
Tôi không biết trả lời ra sao, cho nên tôi nói với Mẹ là tôi rất ân hận. Nãy giờ bà nói với tôi rất tử tế, nhưng khi nghe tôi xin lỗi, bà ta liền để ống vố lên bàn, bạnh hàm xai ra - tôi nghĩ vì tức giận – khiến cho tôi có cảm giác bà giống con thú sắp vồ mồi.
- Mày mà ân hận à? Tao là đồ điên mới đầu tư quá nhiều vào mày ngay từ ngày đầu như thế. Có lẽ mày là con giúp việc đắt giá nhất ở Gion! Nếu tao bán xương mày được để lấy lại vốn thì tao róc xương mày ra ngay bây giờ!
Nói xong bà bảo tôi ra khỏi phòng rồi bỏ ống vố vào miệng lại.
Khi ra khỏi phòng bà ta, môi tôi run lên, nhưng tôi cố giữ bình tĩnh, vì Hatsumono đang đứng trên chỗ đầu cầu thang. Ông Bekku đang đợi để buộc giải thắt lưng cho cô ta tôi khi bà Dì đang đứng trước mặt Hatsumono, cầm cái khăn nhỏ trong tay, nhìn vào mặt cô ta.
- Rồi, bị vấy dơ hết rồi – bà Dì nói – Tôi không làm thêm được nữa. Cô cứ khóc cho đủ rồi trang điểm lại từ đầu.
Tôi hiểu ngay lý do tại sao Hatsumono khóc. Anh bồ của cô ta không gặp cô ta, bây giờ cô bị cấm không được đem ông ta đến đây. Tôi biết chuyện này từ sáng hôm kia và tôi biết chắc Hatsumono sẽ đổ lỗi hết chuyện này lên đầu tôi. Tôi cố đi nhanh xuống thang lầu trước khi cô ta kịp thấy tôi, nhưng quá trễ rồi. Cô ta giật cái khăn trên tay bà Dì, ra dấu gọi tôi đến. Tôi không muốn đến, nhưng làm sao không nghe lời cô ta cho được!
- Cô không có việc gì với Chiyo hết – bà Dì nói với cô ta – Vào phòng mà trang điểm đi.
Hatsumono không đáp, mà kéo tôi vào phòng cô ta rồi đóng cửa lại. Cô ta nói với tôi:
- Tao đã bỏ công nhiều ngày để tìm cách làm hại đời mày, nhưng bây giờ mày chạy trốn, thế là mày đã làm việc ấy thay tao! Tao vui mừng khôn xiết! Tao cứ đợi đến lúc tao làm cho được việc ấy.
Thật là quá thô bạo đối với tôi, nhưng tôi vẫn cúi chào Hatsumono rồi đẩy cửa đi ra mà không đáp lại. Cô ta có thể đánh tôi vì hành động này, nhưng cô ta chỉ đi theo tôi ra ngoài và nói tiếp:
- Nếu mày thắc mắc không biết số phận con ở suốt đời sẽ ra sao, thì mày nên hỏi bà Dì cho biết! Mày và bà ấy bây giờ giống như hai đầu mút của một sợi dây. Bà ấy bị gãy xương hông, còn mày gãy xương tay. Có lẽ có ngày trông mày như một người đàn ông, y như bà Dì vậy!
- Thôi, thôi Hatsumono – Bà Dì nói – Hãy tỏ ra có lòng thương xót chúng tôi một chút chứ.
Nhớ lại thời tôi chừng năm sáu tuổi, thời không bao giờ tôi dám nghĩ đến Kyoto, tôi có quen một đứa con trai trong làng tên Noboru. Tôi thấy cậu ấy dễ thương, nhưng cậu ta mở miệng nói cái gì, tất cả bọn trẻ đều không thèm chú ý. Cho nên Noboru thường ngồi bệt xuống đất mà khóc. Những tháng tiếp sau ngày trốn thoát thất bại của tôi, tôi thấy cuộc sống của tôi cũng giống như Noboru vậy, vì chẳng ai trong nhà thèm nói gì với tôi hết ngòai việc ra lệnh cho tôi làm việc. Bà Mẹ thường xem tôi như khói thuốc của bà, vì bà có nhiều việc quan trọng để lo nghĩ. Nhưng bây giờ tất cả gia nhân trong nhà, cả bà đầu bếp và Bà Ngọai, đều làm như thế.
Suốt cả mùa đông lạnh như cắt năm ấy tôi cứ phân vân không biết Satsu ra sao, mẹ và bố tôi ra sao. Đêm nào khi nằm ngủ tôi cũng đau đớn lo âu, tôi cảm thấy lòng trống vắng như thể thế giới này chỉ là một gian phòng khổng lồ vắng bóng người. Để an ủi mình, tôi nhắm mắt tưởng tượng tôi đang đi trên con đường bên chân núi đá ven biển ở Yoroido. Tôi nhớ con đường này rất rõ và tôi hình dung ra trước mắt cảnh tôi đang thong dong về nhà trên con đường ấy như thể tôi và Satsu đã trốn thóat được. Tôi tưởng tượng ra cảnh tôi nắm tay chị Satsu đi về phía ngôi nhà ngà say – nhưng sự thật trước đây chưa bao giờ tôi muốn nắm tay Satsu lần nào- lòng nghĩ đến chuyện chúng tôi sẽ được sống sum họp với bố mẹ thêm một thời gian nữa. Tôi chưa bao giờ dám tưởng tượng ra việc về lại nhà tôi, có lẽ vì tôi sợ sẽ chứng kiến cảnh thực tế xảy ra tại đấy, nhưng dù sao thì việc tưởng tượng đi trên con đường về nhà cũng làm cho tôi an ủi được phần nào. Rồi thỉnh thỏang tôi nghe tiếng ho của một gia nhân nằm gần bên tôi, hay tiếng càu nhàu của Bà Ngọai theo gió thỏang tới, và chính lúc ấy, mùi nước biển ở quê nhà tan biến đi mất, đất lổm chổm trên đường dưới chân tôi hóa thành vải trải nệm, và tôi thấy mình trơ trọi một mình nơi đất khách quê người.
Khi mùa xuân đến, hoa anh đào nở rộ khắp công viên Maruyama, và không ai ở Kyoto muốn nói đến chuyện gì khác hết. Hatsumono bận rộn hơn thường khi lúc ban ngày, vì cô ta đi tham dự các buổi tiệc thưởng hoa. Cứ mỗi buổi chiều thấy cô ta chuẩn bị đi dự tiệc là tôi ghen tị. Tôi đã bắt đầu hết hy vọng về chuyện một đêm thức dậy thì thấy Satsu lẻn vào nhà kỹ nữ của tôi để cứu tôi, hay là hết hy vọng có ngày tôi sẽ được tin tức của gia đình tôi ở Yoroido. Rồi một buổi sáng khi Mẹ và Dì sửa sọan cho Bà Ngọai đi du xuân, tôi xuống thang lầu bỗng một gói hàng để trên nền nhà ở hàng lang phía trước nhà. Đấy là cái hộp dài bằng cánh tay tôi, gói trong giấy dày và buộc bằng gai bện. Tôi nghĩ đây không phải là công việc của tôi, nhưng vì quanh đấy không có ai, nên tôi đến đọc tên và địa chỉ viết thật lớn trên mặt gói hàng. Tên và địa chỉ như thế này:
Sakamoto Chiyo
Tại Nita kayodo
Gion Tominaga-cho
Thành phố Kyoto, quận Kyoto
Tôi qúa kinh ngạc đến nỗi tôi đứng sững một hồi lâu, tay bịt miệng và tôi nghĩ mắt tôi khi ấy chắc trợn tròn như hai cái tách trà. Dưới mấy con tem là địa chỉ của người gởi, người gởi là ông Tanaka. Tôi không biết trong gói có