Mọi người ngẩng mặt nhìn lên thì vầng thái dương đang lúc cực thịnh nhưng vẫn rõ ràng có hai quầng, bên ngoài đỏ tươi, bên trong sắc vàng lóng lánh.
Lê Văn Hưu thấy thế quỳ ngay xuống:
- Thần Lê Văn Hưu, Hàn Lâm Học Sĩ kiêm Quốc Sử Viện Giám thượng tấu!
- Khanh cứ nói.
- Thần thường biên dẫn điển tích, tra cứu sử liệu của tiền nhân.
Thấy có ghi rằng: Tiền triều, Năm An Vũ Chiêu Thắng thứ sáu, mặt trời có hai quầng, lấy lại được châu Quảng.
Năm Hội Tường Đại Khánh thứ hai, mặt trời có hai quầng, lại được mùa to.
Năm Hội Tường Đại Khánh thứ tám mặt trời có hai quầng, nước Chiêm Thành thần phục, dâng 3 đoá hoa vàng.
Xét những việc trên thì thấy: mặt trời có hai quầng là điềm lành.
Lại xét triều ta hai vua đều cùng quản việc nước, với điềm lành này lại càng ứng nghiệm.
Như quẻ Địa Thiên Thái, trời ở trong mà đất ở ngoài.
Ví Quan gia là vầng thứ nhất có sắc vàng, ví Thái thượng hoàng là vầng thứ hai, bao bọc vầng thứ nhất như cha bảo vệ con, có sắc đỏ.
Quẻ này là đại cát, chủ thiên địa hòa xướng chi tượng, tượng trời đất giao hòa.
Nay chúng thần thay mặt thiên hạ, chúc mừng hai vua.
Mong cho cơ nghiệp vững bền, non sông nghìn thủa vững âu vàng.
Ối! Bách bây giờ mới biết người xưa học văn là để làm gì.
Những lời kia tuyệt không phải là ai cũng nói được, đây mới đúng với chữ nịnh.
Là nịnh có kiến thức, nịnh có nghiên cứu.
Mỗi từ nói ra có chứng có cứ, mỗi câu thốt ra như gang như thép.
Sau này phải học hỏi.
Văn Hưu à, tiểu đệ bội phục không bằng.
Lê Văn Hưu nói xong, quần thần đồng thanh quỳ xuống:
- Mong cho cơ nghiệp vững bền, non sông nghìn thủa vững âu vàng.
Thái Tông ngửa mặt cười lớn, Thánh Tông đứng bên cha mặt rồng phấp phới, hai vua đứng ra giữa kỳ đài, chịu quần thần và bách tính triều bái.
Quang Khải ở phía sau, thấy cha và anh mình vẻ vang như thế, khuôn mặt tự hào.
Xong lần triều bái này có lẽ cái Thiên cẩu thực nhật hồi đầu tháng đã chả còn nghĩa lý gì nữa.
Vua quan trên lầu vui vẻ, lúc này Quang Khải mới quay sang Trần Quốc Tuấn:
- Có lẽ Hưng Đạo Vương không quên 2000 quan của ta chứ.
Quốc Tuấn cưới đáp:
- Hôm nay đúng là vận khi ta không tốt, thua tất cả các bên.
Ngay cả việc mặt trời mọc ở đăng tây là Ma Lĩnh kia ghi bàn mà cũng xảy ra thì chỉ trách ta đen đủi thôi.
Xin Quang Khải yên tâm, tiền ta sẽ sai người mang tới, chỉ là đến cuối năm nếu Vạn Kiếp có thư lên, nói Quốc Tuấn hết gạo, nhà không còn cái ăn.
Xin Thượng hoàng và Quan Gia nể mặt cho vay thóc.
Mọi người nghe thế thì cười rộ.
Thái Đường thấy mọi người đều vui thì phụng phịu:
- Chỉ có ta là không thắng được phụ hoàng, chuyến này xôi hỏng bỏng không?
Thái Tông lại xoa đầu nàng, cười nói:
- Nào có chuyện ấy, ta phải thấy may mắn vì không có đội nào ghi thêm bàn nữa, còn con làm ăn không vốn thì kêu ca cái gì?
Mọi người lại cười rộ lên.
Thái Tông lại tháo cái trâm vàng xuống, đưa sang tay nàng.
Thái Đường bẽn lẽn cầm lấy, nở nụ cười vui sướng.
Lúc này, Trần Hưng Đạo mới quay lại nói:
- Thần nghe nói Chiêu Minh Vương đêm nằm mộng, thấy trời loan báo, biết hôm nay sẽ giáng điềm lành ứng vào hai vua.
Người trong nước từ nay không còn tơ tưởng đến tiền triều nữa.
Đúng là phúc đức của nhà ta.
- Hưng Đạo Vương quá khen rồi! Nào có nằm mộng gì.
Ta là được cao nhân chỉ bảo, biết trước thiên tượng nên nhân đấy làm kế để cho người trong nước kính sợ đấy thôi.
Không chỉ Trần Hưng Đạo, quần thần ai nấy khiếp sợ.
Trước cũng chỉ nghe nói có chuyện mộng mị chỉ lối mới chiêm bốc được tương lại.
Nay lại nghe được có người thần toán, tính được cả dị tượng, ai mà chẳng hãi hùng.
Trần Hưng Đạo cũng là người tài hoa, lại là tướng soái, chủ việc hành quân đánh trận nên tinh thông các thuật tinh tượng nên tò mò hỏi:
- Cao nhân ấy là ai mà tài học vượt cả quỷ thần như vậy?
- Cao nhân đấy nay đã vân du gót hạc.
Nhưng đệ tử thì còn đây, tên là Hoàng Bách, người Tam Giang Phủ.
Chính người này đã hiến cho triều đình thiên tượng hôm nay.
Trần Quốc Tuấn chuyển ánh mắt, nhìn sang Bách.
Thấy y một thân thư sinh non nớt, nhưng khuôn mặt chính trực, không có vẻ là người tiểu nhân.
Bèn hỏi:
- Ngươi là đệ tử cao nhân?
Bách thấy Quốc Tuấn nhìn mình.
Nói thật hắn ở thời trước đã 35, nay Quốc Tuấn mới 30 tuổi, trong mắt hắn thì còn là hậu sinh.
Nhìn thẳng vào Quốc Tuấn trả lời:
- Chính là ta!
- Thầy ngươi quý tính là gì?
- Thầy ta đến từ quốc gia bên kia bờ Đông Hải.
Thầy nhũ danh là Cung, nhưng xưng mình là Ái Quốc, biệt hiệu là Nam Sơn.
- Ái Quốc! cái tên hay quá! Vậy Nam Sơn cư sĩ theo học phái gì?
- Thầy tiếp thu tinh hoa bốn bể, khi còn trẻ đi khắp năm châu tìm đường cứu nước, thực hiện xong nguyện vọng thì ẩn cư nhàn tản, tự lập học phái, gọi là Minh Triết.
- Quả là kỳ sự! Vậy học phái này đã truyền ra những đâu?
- Chưa truyền đến đâu.
Chỉ truyền cho mỗi ta.
Bá quan nhìn hắn, có người cười khẩy.
Chỉ có một người mà tự xưng học phái, đúng là lời đứa trẻ con.
Lúc này, Trần Ích Tắc lại nhìn Bách thú vị, hắn thấy ở đây chỉ có hắn là bé nhất, sau là đến thiếu niên này, sinh ra đồng cảm.
Bèn nói:
- Thầy ngươi có một mình ngươi là đồ đệ, lại mới khai tông lập phái, nhân số ít là đúng rồi.
Nguyên việc tính được thiên tượng đã là môn học mà không học phái nào làm được.
Ngươi có thể dạy ta không?
- Được! Nhưng để tính được thiên tượng ngươi cần học giỏi toán học và bác vật học đã.
Lúc này một người trong đám quan lại bước ra.
Người này trạc hơn 30 tuổi, nhìn Bách khinh thường nói.
- Ngươi nói vậy là đã tinh thông toán học, bác vật học?
- Không dám nói là tinh thông, chỉ đủ để tính được thiên tượng thôi.
- Được lắm, nhóc con kiêu ngạo.
Trương Xán này từ khi bó tóc đi học tới nay, trải qua bao gập ghềnh mới được bái làm môn hạ Lưu lão quốc tử giám, nghiên cứu bảy năm, mới biết chút đường lối, cầu học không dễ, ngươi lại khinh thường học vấn như vậy.
Vậy có biết giải