Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa hạ, tháng 4. Salzburg.
Liên quân Đế quốc La – Đức – vương quốc Hungary huy động gần như toàn bộ lực lượng quân sự mà bọn họ có thể huy động được để đưa đến chiến trường Salzburg. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg của Đế quốc La – Đức đã huy động quân đội từ các công quốc Luxembourg, Bavaria, Áo, Bohemia, Moravia, Silesia, Saxony, Württemberg, Francony, Palatinate, Lüneburg, Bradenburg, Hesse, Cologne, và hàng trăm lĩnh địa lớn nhỏ khác, tổng quân số 190.000 người. Vương quốc Hungary cũng điều động 95.000 quân đến tham chiến. Tổng quân số của liên quân đông đến 285.000 người, thanh thế kinh nhân. Trên các cánh đồng của Salzburg toàn người là người, quang cảnh cực kỳ tráng quán.
Trong khi đó, bên phía liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento cũng có viện quân, nhưng chỉ có thêm 1 vạn tân binh Latium mới tuyển mộ, được đưa ra chiến trường để quen với việc chinh chiến. Tổng quân số liên quân đạt 213.000 người, tuy cũng đông, nhưng so với đối phương thì ít hơn khoảng 25%.
Ngày 26 tháng 4, sau khi đã ổn định quân tâm, an bài ổn thỏa nơi đóng quân, Hoàng đế Đế quốc La – Đức Sigismund de Luxembourg liền phái sứ giả sang doanh trại đối phương hạ chiến thư.
Sứ giả của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg tay cầm một lá cờ trắng nhỏ (cờ hiệu của sứ giả, báo hiệu không phải lực lượng chiến đấu), sang trước doanh trại của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento gọi lớn :
- Ta là sứ giả của Thánh Hoàng đế sang gặp Nguyên soái của các ngươi.
Trong doanh trại không ai lên tiếng, quân canh vẫn ở trên các vọng lâu, tiễn tháp nhìn ra ngoài, không ai thèm đáp lời sứ giả. Gã ta có cảm giác bị khinh thị, lại quát to :
- Ta là sứ giả của Thánh Hoàng đế sang gặp Nguyên soái của các ngươi. Trong các ngươi có ai có thể nói chuyện thì mau đáp lời.
Giây lát, từ trên vọng lâu có một giọng âm trầm truyền xuống :
- Đại vương của chúng ta thân phận tôn quý, đâu phải ai muốn gặp thì cũng có thể gặp được. Ngươi hãy chờ ở đó, chờ Đại vương định đoạt.
Sứ giả tự nhận rằng có đại quân hậu thuẫn, không hề lo sợ, nên quát trả :
- Ta là sứ giả của Thánh Hoàng đế, thay mặt Thánh Hoàng đế sang gặp Đại vương của các ngươi. Chẳng lẽ Thánh Hoàng đế của chúng ta lại không tôn quý hơn Đại vương của các ngươi hay sao ?
Trong thâm tâm của gã ta, Hoàng đế đương nhiên phải tôn quý hơn vương, nên dương dương đắc ý. Nào ngờ gã lại nhận được câu trả lời hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của gã. Đối phương khi nghe gã nói thế, cất tiếng cười dài, hồi lâu mới nói :
- Đương nhiên. Đương nhiên Đại vương của chúng ta tôn quý hơn Hoàng đế của các ngươi. Hoàng đế của các ngươi, so với các Hoàng đế của Trung Hoa, Mông Cổ, e rằng vẫn còn kém hơn một bậc. Trong khi Đại vương của chúng ta có thân phận còn tôn quý hơn cả các Hoàng đế của Trung Hoa, Mông Cổ.
Câu trả lời của đối phương khiến cho gã sứ giả ngớ người, lặng yên hồi lâu. Đối với người Âu châu thời bấy giờ, Trung Hoa, nơi có thể sản xuất tơ lụa, gốm sứ, trà diệp, … là một đại quốc. Còn Mông Cổ thì khỏi phải nói, đương nhiên là một đại quốc. Vó ngựa Mông Cổ đã làm biết bao người Âu châu kinh sợ. Người Âu châu và người Thổ - Hồi Giáo (đế quốc Ottoman) luôn thù hằn với nhau, nhưng khi Timur (Thiếp Mộc Nhi) của Hãn quốc Chagatai (Sát Hợp Đài) thống suất 140.000 quân tiến vào Ankara, tấn công Đế quốc Ottoman vào năm 1402, người Âu châu sợ quân Ottoman thất bại, quân Mông Cổ sẽ tràn vào Âu châu nên đã quay sang ủng hộ Đế quốc Ottoman. Kết quả, quân Ottoman vẫn thảm bại ở Ankara, khiến Âu châu chấn động. Còn trước đó, khi Hãn Batu (cháu nội Thành Cát Tư Hãn) dẫn quân tấn công Âu châu, Đức Thánh Cha Innocent IV đã phái sứ giả đến tận thảo nguyên Mông Cổ cầu hòa.
Marco Polo của thành Venice và Giovanni da Pian del Carpini, Giám mục Tổng giáo phận Antivari đã đến Mông Cổ và mang về Âu châu những thông tin về sức mạnh của Đế quốc Mông Cổ. Mặc dù vào thời Trung Cổ, những câu chuyện của Marco Polo bị nghi ngờ và bị cho là những câu chuyện viễn tưởng (ngay cả các nhà nghiên cứu thời hiện đại vẫn nghi ngờ, bởi lịch sử Trung Hoa không nhắc gì đến Marco Polo, trong khi ông tự nhận rằng mình đã được làm quan ở Trung Hoa dưới triều Nguyên của Hốt Tất Liệt; theo lẽ thường, một người Âu châu được làm quan ở Trung Hoa tất nhiên phải được ghi chép lại). Trong khi đó, những câu chuyện của Giovanni da Pian del Carpini lại được tin tưởng, bởi Ngài là Giám mục Tổng giáo phận Antivari, phụng mệnh Đức Thánh Cha Innocent IV đi sứ Mông Cổ. Ngài khởi hành từ Lyon vào lễ Phục sinh năm 1245, mang theo một bức thư của Đức Thánh Cha gửi đến Đại