Thiên Hải Hạm.
Đây là chiếc thuyền lớn nhất trong số các hải thuyền của Nam Dương Hạm đội, đồng thời cũng là chủ hạm. Thiên Hải Hạm nguyên bản là một chiếc ‘mã thuyền’ trong lực lượng Thủy sư của Minh triều đã được cải trang lại, có 8 cột buồm, 10 cánh buồm bằng mành vốn là đặc điểm của Thủy sư Minh triều đã được tháo xuống, thay bằng 10 cánh buồm vải. Hạm dài 74 trượng Tàu, rộng 30 trượng Tàu, tức dài khoảng 123 mét, rộng khoảng 50 mét, tải trọng ước gần vạn tấn. Để tăng cường oai lực, trên chiến hạm còn được trang bị 64 khẩu thần công, chiến đấu lực hơn hẳn Thủy sư đương thời, vì thế mới không dùng cách gọi Thủy sư mà gọi là Hạm đội.
Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư đang ở trên Thiên Hải Hạm, nghe đô đốc Đinh An Bình báo cáo về Hạm đội. Đinh An Bình nguyên là thống lĩnh Cấm vệ quân, sau khi thành lập Nam Dương Hạm đội đã được phong làm đô đốc.
Nhờ sự nỗ lực của bọn Cát Ti, Nam Dương Hạm đội hiện tại đã có được 16 chiến hạm, gồm 1 mã thuyền, 2 lương thuyền, 4 tọa thuyền và 9 chiến thuyền, đủ năng lực bảo vệ vùng biển ngoài khơi Nam trấn, thậm chí còn có thể phái một phần Hạm đội đi xa, thực hiện một số nhiệm vụ đặc biệt mà Giang Phong giao cho.
Nghe báo cáo xong, Giang Phong hài lòng khen ngợi mấy câu, sau đó chú ý quan sát cảnh quan trên biển. Quảng Tế Pháp sư không phải lần đầu xuất hải, nên chỉ đặc biệt cao hứng chứ không hề bị say sóng. Do lão phải quản lý luôn các công việc ở đảo Hải Tân, nên vẫn phải thường xuyên xuất hải. Lão chỉ về phía trước, nói :
- Đại nhân, phía trước là đảo Hải Tân, gần đến nơi rồi.
Giang Phong cũng đã nhìn thấy phía trước có hình bóng mờ mờ của đất liền. Đảo Hải Tân lúc này rộng hơn 4 kilômét vuông, cũng là một hòn đảo lớn trong khu vực (đến nay chỉ còn lại khoảng 2,2 kilômét vuông). Sau một lúc nữa thì hòn đảo đã hiện ra trước mắt. Trên đảo địa hình tương đối bằng phẳng, có nhiều cây xanh mọc rậm rạp thành rừng. Cũng may trên đảo có suối, cũng có thể đào được giếng lấy nước ngọt, nên con người có thể ở được. Nơi này mấy trăm năm trước đã có người Chiêm đến sinh sống, nhưng từ khi các châu Ô, Lý được cắt cho Đại Việt, dân Chiêm bỏ vào nam nên hòn đảo đã bị bỏ hoang cho đến khi bọn Giang Phong khai thác.
Chiến hạm cập vào bến cảng, bọn Giang Phong lên bờ, đi sâu vào trong đảo. Các công trình nơi đây được Giang Phong tự tay quy hoạch, nên tuy chỉ mới đến lần đầu, nhưng Giang Phong cũng chẳng thấy lạ gì. Từ ngoài bến có một con đường rộng lát đá dẫn thẳng vào trung tâm đảo. Ngay đầu đường, bên cạnh bến cảng là vọng gác. Đi theo con đường lát đá, cách bến vài trăm mét là khu sản xuất, với một bên là các Công xưởng, phía bên kia là dãy nhà kho.
Trung tâm đảo là khu dân cư. Dân số của đảo hiện tại chỉ hơn 500 người, gồm những thợ giỏi làm việc ở Công xưởng và các thuật sĩ nghiên cứu ở Thái học viện phía bên kia, cùng với gia đình của họ. Tuy cách xa đất liền, nhưng các thương thuyền, chiến thuyền ghé vào thường xuyên, trên đảo lại có đầy đủ các phương tiện phục vụ sinh hoạt nên cuộc sống bọn họ không hề đơn điệu. Trên đảo còn có cả trường học, tửu lâu, một khu giải trí phục vụ cả trẻ con và người lớn.
Bọn Giang Phong dừng lại ở khu trung tâm một lúc, Giang Phong ghé thăm các hộ gia đình ở đây, sau đó mới theo con đường chính của đảo mà đến Thái học viện ở phía bên kia. Thái học viện nằm cách biệt với khu dân cư, ở vị trí yên tĩnh, giữa rừng cây râm mát. Cách đó không xa còn có một bãi biển đẹp.
Thái học viện là nơi dạy các kiến thức bậc cao, đồng thời cũng là viện nghiên cứu. Quảng Tế Pháp sư theo lệnh Giang Phong lùng tìm khắp nơi, cả ở Đại Việt lẫn Minh triều, Chiêm Thành, Chân Lạp, Chà Và, … tốn rất nhiều công sức mới ‘thỉnh’ được vài chục thuật sĩ đến đây nghiên cứu. Giang Phong biết rất rõ tầm quan trọng của kỹ thuật, nên không hề tiếc tiền cho việc này.
Thái học viện là một khu vực gồm hàng chục dãy nhà lớn nhỏ, gồm cả nhà ở, đình viện, lâu các, thậm chí có cả một tòa tiểu cung điện. Tuy không thể so sánh với Hoàng cung ở Thăng Long, nhưng Quảng Tế Pháp sư từng nói rằng, so với Hoàng cung ở Tây Đô (Thanh Hóa) cũng không kém mấy. Thái học viện chỉ mới được xây dựng, nên vẫn còn thơm mùi gỗ mới. Mấy chục thuật sĩ đang bận rộn thu xếp nơi làm việc của mình ở đây. Còn nơi ở của bọn họ và gia đình đều ở khu dân cư tại trung tâm đảo. Thời bấy giờ, việc nghiên cứu không hề được coi trọng, phần lớn nghiên cứu của các thuật sĩ được ngoại giới xem như là việc luyện đan của đạo sĩ, mà mục đích ban đầu của các thuật sĩ cũng là phục vụ cho việc luyện đan. Thuật sĩ là một danh từ thời xưa dùng để chỉ những người nghiên cứu về vật chất, vật liệu, cũng có thể xem là các nhà hóa học cổ đại của phương đông, giống như các nhà