Sau khi thành thị thành hình, Giang Phong lại phải suy nghĩ đặt cho nó một cái tên. Chúng thuộc hạ nhất trí phản đối cái tên nguyên bản của nó : Mã Ni (tên Hán tự của Manila), cho rằng như thế kém văn hoa, giống như tên gọi của một xứ ‘man di’. Đành rằng trước đây nơi này đúng là một xứ ‘man di’. Nhưng giờ đây đã không phải nữa.
Sau một thời gian suy nghĩ, Giang Phong đặt tên cho thành thị là An Phú Thành, để tưởng nhớ quê hương, nơi Giang Phong đã sinh ra. Chúng thủ hạ đâu biết suy nghĩ của Giang Phong, nhưng đều chấp nhận tên mới này, vì nó mang theo hy vọng ‘an lành và phú túc’. Và như vậy thì tên vịnh, tên sông cũng sẽ đổi thành vịnh An Phú, và An Phú Giang.
An Phú Giang (tức sông Pasig) dài khoảng 27 kilômét, chảy từ Lâm Hải Hồ (tức hồ Laguna de Bay) đến vịnh An Phú (tức vịnh Manila), giờ đây đã trở thành một con sông quan trọng, vừa cung cấp nước ngọt cho An Phú Thành, vừa là tuyến đường chủ yếu vận chuyển nguyên liệu vật tư từ khu vực Lâm Hải Hồ đến An Phú Thành. Các lò nung gạch ngói, các mỏ đất sét, các xưởng thạch nê đều nằm bên bờ Lâm Hải Hồ. Một số khu khai thác gỗ cũng ở đấy. Do đã có thể sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, việc xây dựng kiến thiết ở An Phú Thành giờ chỉ còn phụ thuộc vào lượng sắt thép vận chuyển từ Hải Tân sang.
Một vạn căn nhà mới xây dựng xong, Giang Phong cấp cho 5.000 dân phu từ Đại Việt sang mỗi người một căn, chờ đón gia đình bọn họ từ Đại Việt sang ở chung; 5.000 căn còn lại cấp cho dân bản địa quy thuận, giờ đều đã trở thành thần dân của Giang Phong. Chỉ có một số ít vốn là quân của Vương quốc Hồi giáo Văn Lai, hoặc thủ lĩnh các bộ lạc, thị tộc, ngoan cố không thuần phục, hoặc là phần tử bất ổn định, nên bị bắt đi làm khổ công, làm những công việc nặng nhọc. Thần dân của Giang Phong, khi làm việc sẽ được trả công, còn khổ công thì chỉ được nuôi ăn nuôi ở. Bọn họ tuy không đến nỗi bị ngược đãi (Giang Phong cho rằng ngược đãi sẽ khiến hiệu suất làm việc rất thấp, nên cấm ngược đãi dân phu), nhưng cũng không được tự do. Tù binh mà.
Triệu Phong vẫn tiếp tục chinh chiến, mở rộng phạm vi kiểm soát. Tù binh và dân các bộ lạc bị công chiếm liên tục được đưa về. Những người này đều được Giang Phong cho đưa đi ‘lao động cải tạo’ (thực ra là tận dụng sức lao động), trước khi quyết định cho trở thành thần dân hay khổ công.
Trong An Phú Thành, ngoài 1 vạn căn nhà ở các khu cư dân, đương nhiên còn có khu trang viên dành cho tầng lớp trên, trước mắt là Giang Phong và chúng thủ hạ, sau này còn có thêm những người giàu có. Khu vực này nằm về hướng bờ sông, thật ra phải gọi là khu tiểu cung điện, bởi mỗi gian tuy diện tích không rộng, chỉ 5 trượng x 10 trượng (tức 20 mét x 40 mét), nhưng đều xây dựng rất nguy nga quý phái. Những tòa nhà bốn tầng rộng lớn nằm giữa một khu vườn, nhìn qua cũng đủ thấy quý phái sang trọng. Muốn xây dựng được những tòa nhà cao như thế, công xưởng ở Hải Tân phải sản xuất một loạt thép đặc biệt, sau khi đúc thành dạng thanh xong phải rèn đập nhiều lần để tăng độ kiên cố vững chắc, tốn nhiều công sức hơn.
Ở trung tâm thành thị, trên một khu đất rộng dài 100 trượng đang được xây dựng một tòa cung điện. Đó là nơi ở của Giang Phong sau này. Do công trình quy mô lớn, dù sử dụng nhiều lao động, nhưng không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được. Tạm thời Giang Phong vẫn phải ở tại một trang viên giống như chúng thủ hạ.
Ngoài ra, trong thành thị còn có một số kiến trúc được ưu tiên xây dựng như Y Viện, Học Viện. Thầy thuốc, thầy đồ đều được đưa từ Đại Việt sang. Giang Phong còn ra lệnh mọi thần dân chưa biết chữ, bất kể nam nữ trẻ già đều phải đi học cho đến khi biết chữ, học miễn phí. Đương nhiên trường học dạy thứ chữ do Giang Phong ‘sáng tạo’ ra. Giang Phong làm thế là để giảm ảnh hưởng của chữ Hán, đồng thời nếu mọi người cùng nói một thứ tiếng, cùng viết một thứ chữ thì đều sẽ là ‘người mình’ cả. Quan trọng nhất là học thứ chữ mới này không mất nhiều thời gian bằng học chữ Hán. Giang Phong không thể chờ đợi mấy chục năm rồi mới thấy hiệu quả được.
Mấy tháng trôi qua, mọi việc đã dần vào ổn định. Lúc này ở bờ Lâm Hải Hồ đã hình thành nên một thành thị thứ hai, cách An Phú Thành ước 80 dặm. Ban đầu nơi đó chỉ có một số lò nung gạch ngói, xưởng thạch nê xây dựng bên cạnh khu mỏ đất sét lớn. Dần dần có thêm xưởng gốm, xưởng mộc, xưởng thủ công mỹ nghệ, … và kèm theo là các khu nhà dành cho những người