Lại nói, nghe Cát Ti bảo vùng Chân Lạp và bán đảo Mã Lai không vấn đề gì, Giang Phong hỏi :
- Khu vực đó hiện nay ra sao ?
Cát Ti ngẫm nghĩ một lúc mới đáp :
- Hồi bẩm Đại nhân. Nước Chân Lạp giờ đã cực kỳ suy yếu, mấy chục năm qua thường xuyên bị nước Thái bên cạnh tấn công. Nước Thái trước kia cũng là một bộ phận của Chân Lạp, sau tách ra độc lập và tấn công Chân Lạp, lấn chiếm dần đất đai. Chân Lạp hiện giờ vẫn đang cố bảo vệ kinh thành Angkor trong tuyệt vọng, không còn khả năng quản đến những vùng khác.
Chân Lạp chính là đế quốc Khmer, đóng đô ở Angkor với thành Angkor Wat nổi tiếng. Còn Thái chính là vương quốc Sukhothai tách ra độc lập từ đế quốc Khmer từ năm 1238, sau đó đến năm 1350 thì bị vương quốc Ayutthaya thay thế. Cả hai vương triều Sukhothai và Ayutthaya đều được gọi tắt là ‘Thái’, nghĩa trong tiếng Thái là ‘tự do’ (tên gọi Xiêm La chỉ có chính thức từ thời vương triều Chakri năm 1782, được sử dụng đến năm 1939, sau đó sử dụng một giai đoạn ngắn nữa 1945 – 1949), và đều đã từng chiếm lĩnh Chân Lạp nhiều năm liền, nhưng rồi lại bị đánh lui. Đến năm 1431, Angkor bị Ayutthaya chiếm lĩnh, đế quốc Khmer diệt vong. Một bộ phận còn lại ở phía nam xây dựng kinh đô mới tại khu vực mà ngày nay là Phnom Pênh, trở thành vương quốc Khmer nhỏ yếu.
Cát Ti lại nói tiếp :
- Còn ở bán đảo Mã Lai hiện nay vừa hình thành tiểu quốc Malacca. Tiểu quốc này do một vị vương tử của vương quốc Srivijaya bên Sumatra thành lập sau khi Srivijaya bị Majapahit ở Java tiêu diệt. Tiểu quốc Malacca này tuy mới thành lập, nhưng thế lực phát triển rất nhanh, lấn chiếm dần các tiểu quốc lân cận. Nghe nói vị tiểu vương này có mộng tưởng thành lập vương quốc và đối kháng với Majapahit.
Mọi người đều phì cười, cho rằng đó là mộng tưởng viễn vông, không nói đến bọn Giang Phong, chỉ riêng vương triều Majapahit ở Java đã là một bàng nhiên đại vật rồi, cả vương triều Srivijaya ở Sumatra còn bị bọn họ chiếm lĩnh, đừng nói chi một tiểu quốc bé nhỏ ở Malacca. Nhưng Giang Phong biết rằng mộng tưởng đó sẽ thành hiện thực, bởi trong lịch sử có tồn tại vương triều Malacca cùng vương triều ở Java phân đình kháng lễ cho đến khi thực dân ở châu Âu đến đây.
Triệu Phong nghe Giang Phong hỏi Cát Ti tình hình Chân Lạp và bán đảo Mã Lai, biết ngay lại có cơ hội chinh chiến, liền hỏi :
- Đại nhân. Khi nào sẽ xuất quân chiếm lĩnh hai xứ đó ạ ?
Giang Phong nói :
- Khi nào Puni an định sẽ xuất quân.
Triệu Phong nói :
- Đại nhân. Hiện tại Puni đã an định rất nhiều rồi. Nhìn thấy hậu quả của các bộ lạc chống đối, phần lớn các bộ lạc ở đó đều chịu chiêu an. Để lại 1 vạn Định Hải nhị sư cũng đủ giải quyết tàn dư còn lại. Chúng ta có thể điều Định Hải nhất sư xuất quân công chiếm một trong hai xứ đó.
Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi chỉ vào một khu vực trên Đông Dương Hải Đồ, nói :
- Vậy hãy công chiếm khu vực này, thiết lập Gia Định tỉnh.
Khu vực mà Giang Phong chỉ đó chính là vùng miền Đông và miền Tây Nam Bộ của Việt Nam ngày nay, thời Nguyễn thiết lập Gia Định Thành, cai quản phần Nam Kỳ lục tỉnh. Khu vực này Giang Phong rất quen thuộc (không quen sao được), tổng diện tích hơn 60.000 kilômét vuông, đủ để thành lập một tỉnh. Triệu Phong nhìn khu vực đó, hoan hỉ nói :
- Toàn là vùng duyên hải. Đại nhân an tâm. Chỉ cần nửa năm là thuộc hạ sẽ bình định được khu vực đó.
Khái niệm bình định của bọn Giang Phong không phải là kiểm soát đến từng thôn làng, từng vùng đất, mà chủ yếu là kiểm soát những vị trí quan trọng, từ đó khống chế các vùng phụ cận, chiêu an các thôn làng trong vùng. Khi nào có chống đối mới xuất quân đánh dẹp. Dù sao thì bọn Giang Phong cũng không đủ người để phái xuống kiểm soát từng thôn làng. Chỉ cần dân bản địa không chống đối là có thể yên ổn sinh sống như trước đây. Hơn nữa, nhờ bọn Giang Phong đến nơi, dẫn theo các thương đội, hoàn cảnh sinh hoạt của dân bản địa còn có phần được cải thiện. Giang Phong rất chú ý việc này, bởi chủ trương trọng thương. Dễ thấy nhất là vùng Puni, các khu dân cư do Giang Phong xây dựng đã thu hút rất nhiều dân bản địa bỏ bộ lạc ra đấy sinh sống, tìm việc làm trong các công xưởng. Một số bộ lạc ở lân cận cũng kéo cả bộ lạc ra lập làng gần đó. Còn bản thân khu dân cư thì thành một khu chợ lớn để các bộ lạc trong vùng đến mua bán trao đổi hàng hóa. Nhờ vậy mà đảo Puni rộng lớn chỉ mất vài tháng là cơ bản ổn định. Riêng vùng Lã Tống, do các tù trưởng và quý tộc của các bộ lạc đều đã bị