Năm Đinh Hợi (1407), mùa xuân. Gia Định Thành.
Tùng tùng tùng tùng tùng tùng….
Boong boong boong boong boong boong …
Long Phụng Cổ nổi dồn dập, Cảnh Dương Chung gõ liên hồi, báo hiệu điển lễ bắt đầu. Lúc này thời gian là chính Thìn, tức 8 giờ sáng, tất cả quan viên từ cấp tỉnh trở lên, hoặc tướng lĩnh quân đội từ Lục quân Hiệu úy, Hải quân Đô đốc trở lên đều tề tụ Trường Thanh Cung, tham gia Kiến quốc đại điển. Đã 9 năm kể từ khi Giang Phong xuyên việt, đã 3 năm kể từ ngày chuyển đại bản doanh đến Gia Định Thành, giờ đây, theo sự khẩn cầu của chúng thuộc hạ, cuối cùng Giang Phong cũng đã đồng ý kiến quốc. Tuy vậy, Giang Phong không xưng Hoàng đế, chỉ xưng Hoàng, ý là kế thừa Thái Cổ Tam hoàng, hiệu xưng Văn Hoàng, quốc hiệu Thần Thánh Đế Quốc (dựa theo Đế Quốc La Mã Thần Thánh ở châu Âu lúc bấy giờ, và Giang Phong lại là ‘thần’, tên đó phù hợp).
Chiếu theo cổ lễ, đầu tiên sẽ phải tế cáo thiên địa, nhưng nghi thức này đã bị bỏ qua, bởi Giang Phong là ‘thần’, là ‘chân thần’ chứ không phải ‘giả thiên tử’ như các vị đế vương xưa nay vẫn tự xưng. Giang Phong đã là ‘thần’, đương nhiên có thể trực tiếp câu thông thiên địa, vì vậy mà khỏi phải tế cáo nữa.
Giang Phong chỉ ngự ở Văn Nghi Điện, mặt quay về phương nam nhận sự triều bái của văn thần võ tướng. Các vị đế vương xưa nay đều ngồi quay mặt về phương nam nhận sự triều bái của quần thần, Giang Phong thấy cũng không cần thay đổi lệ đó. Ngai vàng của Giang Phong được đúc bằng vàng khối, nặng 10 vạn lượng, tức 3,75 tấn, được chạm trổ cực kỳ tinh xảo, hoàn toàn là một kiện nghệ thuật phẩm. Bọn Quảng Tế Pháp sư chuẩn bị cho lễ kiến quốc đăng cơ, đã lẳng lặng cho chế tạo từ năm trước, mất gần 1 năm mới hoàn thành. Ở Lã Tống có 31 mỏ vàng lớn nhỏ đang được khai thác nên Giang Phong không hề thiếu vàng.
Chiếu theo cổ lễ, Trung Hoa Hoàng đế sẽ phải vận cổn phục miện quan (mũ miện Thiên tử 12 dải), Đại Việt Hoàng đế sẽ vận hoàng bào long quan để làm lễ đăng cơ. Nhưng Giang Phong chỉ thích màu trắng, không ưa màu đen của cổn miện, cũng chẳng thích màu vàng của hoàng bào, vì vậy chỉ vận y phục toàn trắng, bạch y bạch bào, ngọc đái ngọc quan. Bọn Quảng Tế Pháp sư vì chiều theo sở thích của Giang Phong, đã tra duyệt cổ tịch cổ thư, tuyên bố rằng Thái Cổ Thượng Đế của Trung Hoa, Thái Cổ Phạm Thiên của Thiên Trúc đều vận y phục màu trắng, do đó màu trắng là màu tôn quý hơn cả.
Sách xưa ghi lại, vị Thượng Đế đầu tiên được biết đến ở Trung Hoa là vị Thương Đế hay Thượng Đế (phiên sang tiếng Anh là Shang Ti, vị này không phải là Ngọc Hoàng), là tổ tiên của nhà Thương, được các vua Thương tôn làm thần tối cao trên Thiên giới, vị này thường mặc y phục trắng. Đến thời nhà Chu, các vua Chu mới tôn tổ tiên của mình là Hoàng Đế, hay còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế (phiên sang tiếng Anh là Yellow Emperor), lên làm thần tối cao trên Thiên giới thay thế cho vị Thượng Đế thời nhà Thương, lúc này mới chuộng màu vàng. Còn ở Ấn Độ cổ đại, màu trắng là tôn quý nhất, chỉ tầng lớp tu sĩ mới được mặc; màu vàng là thấp kém nhất, dành cho nô lệ mặc. Khi Thích Ca lập nên đạo Phật, tuyên bố không phân biệt đẳng cấp, nên đã chọn màu vàng làm màu y phục của tăng lữ, nhưng đạo Phật ở Ấn Độ không mạnh, truyền sang Trung Hoa, Đại Việt thì tăng lữ thường không mặc y phục màu vàng mà là màu xanh (ở Trung Hoa) hoặc màu nâu (ở Đại Việt). Đến thời hiện đại, ở Ấn Độ màu trắng vẫn là màu tôn quý nhất. Ngay cả các tôn giáo khác trên thế giới như Công giáo, Hồi giáo cũng vậy.
Giang Phong vận bạch y bạch bào, ngọc đái ngọc quan, ngự trên kim long ỷ (vì làm bằng vàng nên có màu vàng, Giang Phong không hề ghét hoàng kim). Quảng Tế Pháp sư dẫn đầu bách quan quỵ phục trước Giang Phong, tâu :
- Thỉnh Đại nhân tức vị.
Theo nghi lễ soạn sẵn, Giang Phong phán :
- Trẫm đăng hoàng vị, kiến lập hoàng triều, kế Thái Cổ Tam Hoàng, khôi phục nền đại thống.
Bách quan hành đại lễ, tam quỵ cửu khấu. Giang Phong truyền bình thân, bách quan tam bái, về hàng. Dàn nhạc diễn tấu :
“Gia lạc quân tử,
Hiển hiện lệnh đức,
Nghi dân nghi nhân,
Thụ lộc vu thiên,
Bảo hựu mệnh chi,
Tự thiên thân chi.
Can lộc bách phúc,
Tử tôn thiên ức,
Mục mục hoàng hoàng,
Nghi quân nghi vương,
Bất khiên bất vong,
Suất do cựu chương.
Uy nghi ức ức,
Đức âm trật trật,
Vô oán vô ố,
Suất do quần thất,
Thụ phúc vô cương,
Tứ phương chi cương.
Chi cương chi kỷ
Yến cập thần tử,
Bách bích khanh sĩ,
Mỵ vu thánh hoàng,
Bất giải vu vị,
Dân chi du hý.”
Tạm dịch :
Nhà vua anh tuấn vui tươi
Lại còn đức tốt rạng ngời đẹp thay !
Thích hợp với dân hay quan tước,
Lộc trời vua được hưởng dồi dào
Trời phù hộ, dạy giúp vào
Tự trời hành động biết bao nhiêu lần !
Lộc cầu trăm phúc được liền,
Cháu con thì số ức thiên vô cùng.
Lại tuấn tú khiêm cung tất cả,
Ở ngôi vương hoặc giả chư hầu,
Đều không tội lỗi tí nào,
Noi theo phép tắc dựa vào phép xưa.
Uy nghi thận trọng kín thầm
Đều đều hằng có tiếng tăm tốt lành.
Con cháu không riêng tình ghét oán,
Nhiệm dụng người tài cán cao sâu.
Phúc thì vô hạn dồi dào,
Làm nên giềng mối, trông vào bốn phương.
Thánh hoàng ổn định kỷ cương
Bề tôi nhờ đó mà hòng được an.
Trăm chư hầu và hàng khanh sĩ,
Đều mến thương, tôn kính thánh hoàng,
Chẳng lười chức vị đã dành,
Thì dân chúng được yên lành vui chơi.”
Nhã nhạc tấu xong, chiếu theo cổ lễ thì đến phiên dâng ngọc tỷ, nhưng Giang Phong miễn luôn việc này. Ngọc tỷ là của Giang Phong, có lý đâu lại cần thuộc hạ dâng cho. Giang Phong không trọng Nho, trong triều không có nho gia, vì vậy mà mọi nghi lễ đều do Giang Phong định đoạt, không ai có ý kiến gì được. Giang Phong không muốn bị trói buộc bởi nghi lễ.
Ngọc tỷ chính là chiếc ấn quan trọng nhất, để đóng vào các chiếu chỉ quan trọng. Ngọc tỷ của Giang Phong được chạm khắc từ một viên bạch ngọc rất quý giá thu được từ Puni, được thợ giỏi chạm khắc công phu, mất nửa năm mới hoàn thành. Trên ngọc tỷ chạm hình Cửu trảo thần long (theo truyền thuyết là tổ của long tộc), bốn góc có tứ linh quỳ chầu. Mặt ấn khắc tám chữ “Thụ mệnh Giang tộc, thiên địa đồng trị”.
Theo lễ nghi của Minh triều, sau phần dâng Ngọc tỷ còn có “tựu vị, bái, bình thân, cúc cung, bái hưng, bái hưng, bình thân, hốt, cúc cung, tam vũ đạo, quỵ tả tất, tam khấu đầu, sơn hô vạn tuế, tái tam hô, quỵ hữu tất, xuất hốt, ………… quyển ban”. Từ ‘tựu vị’ cho đến ‘quyển ban’ kéo dài hơn 1 giờ mới xong, bách quan cứ làm đi làm lại quỳ, bái, hô vạn tuế, … thật lắm sự phiền phức. Lễ nghi Nho giáo này, cả vua quan đều thấy phiền, nhưng cứ phải làm theo để chứng tỏ triều đình trọng lễ. Có điều Giang Phong đã bỏ hết cho đơn giản.
Chiếu theo cổ lệ, Giang Phong cũng lập Thái Miếu, nhận tổ tiên mình là Đế Giang, kế thừa Phục Hy, Nữ Oa mà làm chúng thần cộng chủ (giống như nhà Chu nhận mình là hậu duệ của Hiên Viên Hoàng Đế, nhà Đường nhận mình là hậu duệ của Thái Thượng Lão Quân). Thái Miếu ở Gia Định Thành chỉ thờ ba vị : Phục Hy, Nữ Oa, Đế Giang, gọi là Tam hoàng. Còn vị Hoàng Đế tổ tiên của nhà Chu thì không được kể đến.
Đế Giang là vua của những tộc người đầu tiên sinh sống ở lưu vực sông Giang (tức Trường Giang ngày nay, thời xưa gọi là Giang thủy), bắt đầu việc trồng trọt, cách nay ước 4 vạn năm, cũng là chủ nhân của nền văn minh Thục Sơn, là tổ tiên chung của các tộc người Thái, Mường, Việt. Còn dân Hoa Hạ, đến thời nhà Chu (cách nay hơn 3.000 năm) vẫn còn sinh sống ở lưu vực sông Hà (tức Hoàng Hà ngày nay, thời xưa gọi là Hà thủy), nước Sở ở lưu vực sông Hoài còn bị xem là man di, đương nhiên không liên quan gì đến các tộc ở mạn sông Giang. Còn Phục Hy đại diện cho tộc người đầu tiên thuần hóa thú vật, Nữ Oa đại diện cho tộc người đầu tiên rời hang động, dựng lều để ở, cách nay khoảng 7 vạn năm. Ba vị này được Giang Phong tôn xưng là Tam hoàng, cho dựng đền thờ khắp nơi trong địa bàn của mình.
Sau khi tiếp nhận bách quan triều bái ở Văn Nghi Điện xong, Giang Phong suất bách quan đến Thái Miếu tế tự. Dù Giang Phong là ‘thần’, nhưng đối với Thái Cổ Đại Thần cũng phải tôn kính. Hơn nữa, Giang Phong còn nhận Tam hoàng là tổ tiên.
Lễ nghi đến đây, Giang Phong cho chấm dứt. Chiếu theo cổ lễ phải tiến hành các nghi thức cả ngày mới xong, Giang Phong không có nhiều kiên nhẫn đến thế. Lễ xong thì đãi yến triều thần. Giang Phong không cải chế (thay đổi chế độ quan lại) nên bách quan vẫn tiếp tục công việc trước đây. Sau này khi cần thiết thì sẽ điều chỉnh. Còn giờ thì tạm ổn rồi. Thể chế do Giang Phong đặt ra không hề giống triều đại nào trước đây, ngay cả chức bộ trưởng cũng mới lần đầu xuất hiện, do đó Giang Phong nói sao thì thành ra như vậy, không cần phải tuân theo cổ lễ gì cả. Giang Phong là ‘thần’ nên được lợi vô cùng, không cần phải theo các nghi lễ do ‘người phàm’ đặt ra, nhờ đó mà tránh được rất nhiều phiền phức.
Sáng hôm sau, Giang Phong cho các quan viên địa phương và các tướng lĩnh quân đội trở về cương vị của mình. Sắp tới có nhiều việc, cần được chuẩn bị sẵn sàng. Thời gian không còn nhiều nữa.
Chương 36 : CHIẾN TRANH ĐẠI MINH – ĐẠI NGU (1)
Gia Định Thành, Trường Thanh Cung, Thành Đức Điện.
Giang Phong thiết tiểu triều, chỉ gồm các thuộc hạ thân tín là bọn Quảng Tế Pháp sư, Cát Ti, Đào Anh, Triệu Phong, Đinh An Bình. Do Giang Phong không thân tự chấp chính, nên tiểu triều, đại triều đều có ý nghĩa như nhau, chủ yếu hồi báo kết quả công việc triều chính và nhận chỉ thị mới từ Giang Phong (đương nhiên giờ đây sẽ được gọi là thánh chỉ, Giang Phong vừa đăng cơ), khác biệt chẳng qua là quy mô số