Ngoài vấn đề tiền tệ và tôn giáo, việc giáo hóa cũng có nhiều tiến triển. Trải qua gần 10 năm cố gắng, kể từ thời kỳ còn ở Tư Dung hành doanh, sự nghiệp giáo hóa của Đế quốc giờ đây đã rất phát triển. Giang Phong cũng quan niệm rằng “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, nên rất quan tâm đến việc bồi dưỡng hiền tài. Giang Phong không đánh giá cao thiên tài, nhân tài, bởi “có tài mà không có đức cũng là người vô dụng”. Chỉ có hiền tài là cần được đề cao.
Theo quan niệm phương đông, thiên tài là bậc thấp nhất, hiền tài mới là bậc cao nhất của những người tài giỏi. Các vua thời xưa thường cho treo bảng cầu hiền, tức là cầu hiền tài (Bác Hồ sau Cách Mạng Tháng Tám cũng có cầu hiền). Những người tài giỏi được phân cấp như sau :
1. Thiên tài : là những người có thiên phú, mới sinh ra đã có tài năng đặc biệt, khi còn nhỏ được gọi là thần đồng. Có điều rất ít thần đồng phát triển được tài năng của mình cho đến lớn. Đặc biệt, đa số thiên tài tính cách khác người, rất khó gần gũi.
2. Địa tài : là những người không có thiên phú, nhưng nhờ cần cù cố gắng, ham học hỏi, nên rèn luyện được tài năng, còn gọi là ‘chân tài thực học’. Những người này được coi trọng hơn thiên tài. Có điều, địa tài không có thiên phú, nên thành tựu bị giới hạn.
3. Nhân tài : là người gồm đủ thiên tài và địa tài. Đã có thiên phú, lại cố gắng học hỏi, tất thành tựu phi thường. Xưa nay vẫn có quan niệm : nhân tài một phần nhờ thiên phú, chín phần nhờ mồ hôi; hay “bác học không có nghĩa là ngừng học”.
4. Lương tài : nhân tài là chỉ người có tài năng đặc biệt về một lĩnh vực nào đó, chưa hẳn có ích. Ví dụ như người giỏi việc cướp của giết người, cũng kể là có tài năng. Chỉ những nhân tài mà làm việc có ích cho xã hội mới được xem là lương tài. Người “có tài mà không có đức là người vô dụng”. Lương tài mới hữu dụng.
5. Hiền tài : lương tài đồng thời là hiền nhân, được gọi là hiền tài, là “nguyên khí của quốc gia”.
Để bồi dưỡng hiền tài, Giang Phong rất coi trọng việc giáo hóa. Từ Thái Học Viện ban đầu, đã phát triển thành một hệ thống trường học trải khắp các quận huyện. Thậm chí nhiều thôn trấn còn mở lớp học, do những người biết chữ dạy lại cho những người chưa biết chữ. Để khuyến khích việc giáo hóa, Giang Phong còn đặt ra nhiều ưu đãi cho những người nói được tiếng Việt, hay đọc viết được Thiên tự. Các thầy đồ, giáo sư cũng được đãi ngộ cao. Có điều, thầy đồ và giáo sư của Đế quốc không giống nho gia bên Tàu, chỉ dạy chữ, rồi làm thơ viết văn, “bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật”, mà đều thông thạo toán thuật, kỹ nghệ. Ở Đế quốc, “bách gia tranh minh”, bách nghệ đều được coi trọng như nhau. Tuy vậy, trên thực tế vẫn có phân biệt, do ảnh hưởng tư tưởng của Giang Phong, nho sinh dài lưng tốn vải, nên nho gia có địa vị kém nhất, thua cả thương nhân. Tư tưởng nho gia có lợi cho việc ngu dân, ổn định nền thống trị. Nhưng Giang Phong không cần, mà cũng không muốn ngu dân. Nếu không đã không tổ chức hệ thống trường lớp khắp cả các quận huyện thôn trấn, đẩy mạnh việc giáo hóa trong toàn Đế quốc.
Có thể nói, so với các nơi khác trên thế giới lúc bấy giờ, Đế quốc có tỷ lệ người biết chữ cao nhất. Ở Trung Hoa thì khỏi cần nói, các triều đại đều ‘độc tôn nho thuật’, thực hiện chính sách ngu dân. Ở Ấn Độ, do ảnh hưởng của Ấn Độ giáo (tiền thân là Bà La Môn giáo), sự phân chia 4 giai cấp rất rõ rệt, 2 tầng lớp dưới chiếm đại đa số dân chúng, và hầu như đều mù chữ. Còn ở phương Tây, lúc này đang trong thời kỳ đêm dài Trung Cổ, 1 nghìn năm đen tối.
Lịch pháp ở Đế quốc cũng sử dụng lịch âm theo kiểu phương đông (thật ra là Âm dương lịch, bởi vì có tính đến cả mặt trời và mặt trăng, nên mới có tháng nhuận), nhưng Giang Phong không cho sử dụng cách tính niên đại theo kiểu các triều đại phong kiến lúc bấy giờ, như Vĩnh Lạc nguyên niên, Vĩnh Lạc đệ thập niên, … của Minh triều, hay Thánh Nguyên nguyên niên của Hồ Quý Ly, Thiệu Thành nguyên niên, Khai Đại đệ ngũ niên, … của Hồ Hán Thương. Cách tính như thế rất phiền phức, khó nhớ, khó tính. Chẳng hạn từ Thánh Nguyên nguyên niên (năm Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, mở đầu nhà Hồ) cho đến Khai Đại đệ ngũ niên (năm mà Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt, nhà Hồ diệt vong) là bao nhiêu năm. Nếu không nhớ lịch sử thì làm sao tính ra.
Thánh Nguyên nguyên niên (1400, Hồ Quý Ly chỉ làm vua 1 năm, rồi nhường ngôi cho con mà làm Thái Thượng Hoàng), Thiệu Thành nguyên niên (1401), Thiệu Thành đệ nhị niên (1402), Khai Đại nguyên niên (1403), Khai Đại đệ nhị niên (1404), … Khai Đại đệ ngũ niên (1407). Tính ra nhà Hồ kéo dài gần 8 năm.
Tính toán kiểu đó quá khó khăn và