Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa xuân tháng ba.
Trấn Bắc Tướng quân Phạm Thế Căng suất lĩnh hai quân Bảo Tiệp, Linh Tiệp vượt đèo Ngang bắc tiến thảo phạt quân Minh, sai thám mã truyền hịch đi các nơi. Hịch rằng :
“Ta Trấn Bắc Tướng quân họ Phạm,
Tính thẳng ngay bố cáo hịch này,
Kể từ khi Ngô tặc sang đây,
Việc nhà nước chứa chan nhiều nỗi.
Dân Đại Việt vốn không lầm lỗi,
Giết bỏ đều quyền nội trong tay
Ngoài nhân dân ngậm đắng nuốt cay,
Trong triều sĩ đêm ngày ta thán.
Quân Trương Phụ, Lý Bân, Mộc Thạnh,
Giết dân ta máu chảy thành sông,
Chốn quân doanh uế trược muôn phần,
Giặc tàn bạo xa gần thiết sỉ.
Vâng Đế quốc Thánh hoàng mật chỉ,
Ta xuất binh nghĩa vị cần vương.
Đất Nam phương tề tận đao thương
Quét trừ bọn nhiễu nhương tàn bạo.
Đồng hiệp sức ra tay giữ nước,
Như thuốc hay chữa bệnh mau lành,
Tờ hịch văn truyền đến trấn thành,
Mong triều dã ứng theo đuổi giặc.”
(chú : Anh Quốc Công Trương Phụ, Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh, Phong Thành Hầu Lý Bân là 3 viên tướng Minh triều có chức tước cao nhất trong đạo quân xâm lấn Đại Việt. Nguyên còn có Thành Quốc Công Chu Năng làm thống soái, nhưng khi đến Long Châu, chưa ra khỏi đất Tàu thì đã chết, phó soái Trương Phụ lên thay).
Khi quân Thuận Hóa vượt đèo Ngang tiến ra. Tướng trấn thủ Kiềm Châu là Phạm Đống Cao đem dân binh các tộc Mường đi đánh đất Trà Long (Tương Dương, Nghệ An). Khi đến núi Bồ Cát thì gặp quân Minh cũng đang tiến lên. Song phương xông vào nhau quyết chiến. Phạm Đống Cao một thương một ngựa, xông thẳng vào giữa trận giặc đánh giết, ngựa đến đâu, quân Minh rẽ ra đến đấy. Dân binh các tộc Mường thấy thế càng thêm hăng hái, tràn lên đánh giết rất dữ dội. Quân Minh yếu thế không địch nổi, phải rút chạy về Trà Long. Quân Mường giết được sĩ tốt quân Minh hơn nghìn người, bắt được hơn trăm con ngựa và rất nhiều khí giới.
Thắng trận Bồ Cát, Phạm Đống Cao thừa thế suất quân tràn xuống vây thành Trà Long. Quan Tri châu là Cầm Bành vốn là một chi của họ Cầm ở Sầm Châu, nhận được thư của Cầm Công nên mở cửa thành ra hàng. Quân Mường chiếm được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy. Sau đó, Phạm Đống Cao dẫn quân thuận theo sông Lam tiến xuống đất Khả Lưu, cùng quân Thuận Hóa hợp vây thành Nghệ An.
Còn Phạm Thế Căng khi suất quân Thuận Hóa vượt đèo Ngang ra bắc, các châu huyện vùng bắc Tân Bình nguyên là vùng quản hạt cũ của Phạm Thế Căng đều mở cửa thành đầu hàng. Phạm Thế Căng vốn là đệ nhất danh tướng của Đại Việt lúc bấy giờ, lại từng có công dẹp giặc Chiêm Thành nên rất được lòng dân xứ này. Đại quân thuận thế tiến đến phía nam thành Nghệ An mà không gặp trở ngại gì đáng kể. Khi quân đến làng Đa Lôi, huyện Thổ Du (nay là huyện Thanh Chương), thì dân làng mang rượu thịt ra đón rước, khóc lạy mà nói rằng : không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ.
Tháng 4, Quân Thuận Hóa tiến đến Nghệ An, đóng quân ở phía nam thành, doanh trại kéo dài mấy dặm, quân thế rất mạnh. Quân Minh trong thành chỉ có hơn vạn, cùng năm nghìn dân binh của ‘ngụy tướng’ Phan Liêu, nên hết sức cố thủ, không dám ra đánh. Phan Liêu nguyên là con của Phan Quý Hữu, làm quan Thái Phó thời Trùng Quang Đế. Tháng 6 năm ngoái, quân Trương Phụ vào Nghệ An thì Phan Quý Hữu ra hàng, nhưng được mấy ngày sau thì mất. Trương Phụ cho con Quý Hữu là Liêu làm Tri phủ Nghệ An. Chính Liêu đã chỉ đường cho quân Minh vây bắt vua quan Trùng Quang Đế. Liêu biết mình phải tội lớn với Đại Việt, nên chỉ còn cách hết sức chống giữ, chờ cứu viện.
Trương Phụ ở Thăng Long nghe tin Phạm Thế Căng bắc tiến, đang vây thành Nghệ An, liền sai bộ tướng Lý An mang 5 vạn quân theo đường biển vào cứu viện. Bắc Dương Hạm đội Đại Đô đốc Mã Tân (nguyên tên thật là Matavamca, đại tướng của tiểu quốc Puni) đã phái một đội chiến hạm chờ sẵn ngoài biển, chờ các ‘tiểu’ chiến thuyền của quân Minh đi qua thì xông ra đánh. Sau một trận pháo kích cộng với xung kích, các ‘tiểu’ chiến thuyền của quân Minh đều bị bắn vỡ, bị đụng chìm. Quân Minh tử trận vài nghìn, còn lại đều bị bắt, không có ai chạy thoát.
Các chiến hạm của Bắc Dương Hạm đội tiêu diệt xong các chiến thuyền quân Minh, liền kéo ra bắc đồn trú ở cửa biển Thần Phù, ngăn hẳn các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Trường Yên (Ninh Bình) với quân Minh ở Thăng Long.
Nghệ An Thành.
Dừng quân nghỉ ngơi 3 ngày, Phạm Đống Cao tập trung 1.200 khẩu thần công thuộc 2 đạo quân, lập thành trận địa pháo ở phía nam thành, sau đó đồng loạt nã pháo vào tường thành, cửa thành. Đạn pháo làm thành tường chấn động rung rinh, đá rơi ra từng tảng từng tảng. Quân Minh cũng có một số thần công đại pháo thu được từ quân nhà Hồ, liền bắn trở ra. Thế nhưng hỏa dược của quân Minh chất lượng kém hơn hẳn hỏa dược của quân Đế quốc, nên phạm vi xạ kích không xa bằng, hoàn toàn bị áp chế.
Thành Nghệ An tuy kiên cố, nhưng cũng không thể chịu nổi 1.200 khẩu đạn pháo liên tục oanh kích. Chỉ sau hơn nửa ngày, tường thành đã sụp đổ một mảng lớn. Thật ra thì thành Nghệ An còn kém kiên cố hơn thành Đồ Bàn của Chiêm Thành nhiều, bởi đã lâu năm chưa được tu tạo sửa chữa. Mọi chú ý của nhà Hồ