Lại nói, tấn công vô ích, trốn thoát không đường, quân Minh đành chạy lên một ngọn đồi gần đấy, rồi lăn đá xuống, chặt cây ném xuống ngăn cản kỵ binh, cố thủ trên đấy. Quân Minh không thể chạy được nữa, kỵ binh vệ úy Ngô Minh kể như đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cũng không gấp tấn công, chỉ cho quân chia ra bao vây ngọn đồi đề phòng quân Minh đào thoát.
Ngô Minh giục ngựa đi vòng quanh đồi khảo sát địa hình, tìm cách tiêu diệt quân giặc. Trên đồi cây cối rậm rạp, lại đang mùa hạ, có thể sử dụng hỏa công. Thế là Ngô Minh phái mấy đội kỵ binh đi thu gom các vật dễ cháy. Số còn lại chia làm hai đội, luân phiên tuần tra, ngăn không cho quân Minh có cơ hội đào thoát.
Trưa hôm sau, khi đã thu gom được một lượng lớn các vật dễ cháy, lại đang lúc trưa nắng, Ngô Minh truyền lệnh phóng hỏa đốt rừng. Quân sĩ ném vật dễ cháy vào các bụi cây rậm rạp dưới chân đồi, rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa dần dần bốc cao và lan dần lên trên đồi. Khói bốc mù mịt. Kỵ binh được lệnh lui ra phía xa xa, và chuẩn bị truy sát số quân Minh có thể vượt qua ngọn lửa mà thoát được xuống đồi.
Ngọn lửa khi đã bốc cao thì lan rất nhanh lên trên đồi. Cả ngọn đồi giờ đây trông giống như một ngọn đuốc khổng lồ. Quân Minh trên đồi bị khói hun, bị lửa đốt kêu la inh ỏi. Cả ngọn đồi chìm trong biển lửa, sức nóng kinh hồn. Phần lớn quân Minh đều bị thiêu chết trên đồi. Chỉ có chưa đến trăm người đào thoát được xuống đồi, nhưng rồi lại nhanh chóng làm mồi cho cung tên của kỵ binh. Đối diện kỵ binh truy sát, bọn họ không ai đào thoát được. Huệ Châu vệ của Minh triều hoàn toàn bị xóa sổ. Sau đó, kỵ binh vệ quay lại cùng bản sư công phạt các xứ đông bắc Quảng Đông, dần dần bức cận Phúc Kiến.
Không chỉ Trấn Phong quân, cả 8 đạo quân thuộc Đông lộ đều tứ diện khai hoa, công thành bạt trại, chiếm lĩnh cướp phá hàng trăm phủ huyện dọc theo duyên hải, nam từ Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) cho đến tận bờ nam Trường Giang ở phía bắc.
Minh triều hiện tại đang trong giai đoạn suy yếu, có thể nói là suy yếu nhất kể từ ngày đầu kiến quốc đến giờ. Sử sách ghi lại, giai đoạn cường thịnh nhất của Minh triều (năm 1392, thời Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương), quân đội ước tính có 16.489 tướng lĩnh, 1.198.434 binh sĩ và 45.080 chiến mã. Nhưng sau ba cuộc đại quy mô chiến tranh do Vĩnh Lạc đế phát động : Tịnh nạn chiến tranh (1398 – 1402), Đại Minh – Đại Ngu chiến tranh (từ 1406 đến giờ), Đại Minh – Mông Cổ chiến tranh (1410), binh lực suy giảm rất nghiêm trọng, đặc biệt là cuộc nội chiến Tịnh nạn.
Binh chế của Minh triều không thực hiện quân dịch chế độ mà thực hiện quân hộ chế độ, hay còn gọi là vệ sở chế độ. Minh triều tại toàn quốc các nơi quân sự trọng điểm chiến lược thiết lập vệ sở trú quân. Mỗi vệ có quân đội 5.600 người, bên dưới có thiên hộ sở, bách hộ sở, dưới nữa là tổng kỳ và tiểu kỳ. Các vệ sở đều thuộc quyền quản hạt của Ngũ quân đô đốc phủ, chỉ có số ít ngoại lệ thuộc quyền quản lý của Binh bộ, có chuyện gì thì tập trung điều động, không chuyện gì thì trả về vệ sở.
Minh triều không tuyển mộ binh sĩ từ dân chúng (theo kiểu quân dịch chế độ), mà quân đội có nguồn gốc từ thế tập quân hộ (tức quân hộ chế độ), do mỗi quân hộ phái 1 người làm chính đinh đến vệ sở gia nhập vệ sở quân. Binh sĩ tại vệ sở luân phiên tuần phòng và làm ruộng. Lương thực thu được qua làm ruộng sẽ được sử dụng để cung cấp cho tướng sĩ và những nhu cầu cần thiết khác của vệ sở. Mục tiêu của việc này là dưỡng binh nhưng không hao tốn tài lực quốc gia (ngụ binh ư nông chính sách). Quân hộ số lượng cố định, thế tập từ đời này sang đời khác, một người làm lính thì cả nhà đời đời làm lính. Do vậy, binh nguyên của quân đội Minh triều có hạn, chỉ hạn chế trong số binh hộ đó thôi. Mãi đến đời Gia Tĩnh sau này (bối cảnh của Truyện Kiều), do loạn lạc nhiều mới thực hiện quân dịch chế độ, mộ binh từ dân chúng để đối phó với nội ưu (quân khởi nghĩa trong nước) ngoại hoạn (uy khấu ở phía đông, hải tặc ở phía đông nam, quân Miến Điện ở phía tây nam, quân Mông Cổ ở phía tây bắc, quân Nữ Chân ở phía đông bắc). Quân hộ chế độ tuy làm quốc khố bớt tốn kém, nhưng cũng có những nhược điểm nghiêm trọng : binh nguyên bị giới hạn; sĩ binh thiếu thời gian huấn luyện (theo quy chế thì mỗi ngày 2 giờ tuần phòng 8 giờ làm ruộng, nếu huấn luyện thì tính vào thời gian tuần phòng, mà vùng quản hạt không thể không tuần phòng, thành ra