Lại nói, trên đường rút chạy, quân Minh bị phục kích ở Vạn Kiếp, thiệt hại thảm trọng. Đến Nội Bàng, quân Minh chỉ còn lại chưa đến 2.000 người, tất cả đều mệt mỏi rã rời, chỉ vì sự sống còn nên mới miễn cưỡng cầm cự mà tiếp tục bước đào bôn.
Nội Bàng vốn là một quan ải, đồi núi hiểm trở. Khi quân Minh đi qua đó, lập tức từ trên núi có đạn pháo và cung tên bắn xuống, đồng thời còn có phục binh đổ ra đánh. Các tướng Minh hết sức chống trả, cướp đường mà chạy. Phương Chính suất lĩnh 1.000 quân đoạn hậu, bị chết trong đám loạn quân.
Chạy đến Lộc Châu, quân Minh lại gặp phục binh từ hai bên sườn núi bắn tên tẩm độc xuống như mưa. Các tướng Minh liều chết bảo hộ Trương Phụ chạy thoát, Mộc Thạnh tử trận. Qua khỏi Lộc Châu, quân Minh chỉ còn lại vài trăm người. Ai nấy thần tình ảo não. Trương Phụ không dám đi đường lớn nữa, dẫn quân lẻn theo đường tắt đi về phía châu Tư Minh.
Đến được châu Tư Minh là đã vào đất Quảng Tây rồi. Bọn Trương Phụ đều thở phào nhẹ nhõm. Nào ngờ, vừa đến gần quan ải thì từ bốn phía có đại quân đổ ra bao vây. Rồi từ trên quan ải có người nói vọng xuống :
- Trương tướng quân. Ta là Phạm Thế Căng, ở đây chờ tướng quân đã lâu.
Vừa nói xong, không để cho đối phương có thời gian phản ứng, Phạm Thế Căng truyền quân xông vào vây đánh. Ba nghìn quân trang bị tinh lương đối phó vài trăm người mỏi mệt rã rời, kết quả không cần nói cũng đủ biết. Bởi vì khi sang đánh Đại Việt, bọn Trương Phụ đối xử với dân Việt tàn nhẫn vô cùng, làm lắm điều tàn bạo gớm ghê, như là : xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu, còn những người Việt ai theo quân Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Do đó mà Phạm Thế Căng đã không bắt tù binh, sát tử tất cả.
Bọn Trương Phụ không thể chạy thoát được là do quan niệm thâm căn cố đế đã làm hại bọn họ. Sơn xuyên Đại Việt, bọn họ không thể nào thông thạo bằng bọn Phạm Thế Căng. Sau khi giải phóng Đại Việt, vây thành Thăng Long, Phạm Thế Căng danh tiếng lừng lẫy, dân Việt đều ủng hộ, sẵn sàng thông phong báo tín, báo tin về tung tích của quân Minh. Khi quân Minh còn ở trong thành Thăng Long, Phạm Thế Căng còn chưa nắm được rõ ràng. Nhưng từ khi quân Minh bỏ thành rút chạy thì chẳng bao lâu sau Phạm Thế Căng đã biết tin, bố trí phục kích. Bọn Trương Phụ cứ nghĩ rằng nơi đây cũng là đất Minh triều (quan niệm thâm căn cố đế rồi), cũng giống như bên Trung Nguyên, thành ra quên mất những vấn đề trên, dẫn đến toàn quân tận diệt.
Đế quốc có lực lượng Hải quân hùng hậu. Phạm Thế Căng ngay khi biết tin đã nhờ Hải quân vận chuyển 2 sư của Bảo Tiệp quân đến Vạn Kiếp, đồng thời lấy thêm dân ở đó giả làm quân đội để tăng thanh thế. Khi quân Minh đang chuẩn bị ăn cơm, mấy vạn đại quân kéo ra tấn công thì chỉ có 2 vạn quân ở phía trước là chính quy quân, còn phía sau đều là dân chúng giả trang. Khi quân Minh chạy được qua bên kia sông thì chỉ có 1 sư vượt sông đuổi theo, còn 1 sư theo đường biển sang đánh châu Tư Minh.
Tiêu diệt được bọn Trương Phụ rồi, Phạm Thế Căng thông tri cho Phạm Đống Cao ở Nghệ An ra trấn thủ Thăng Long, giao việc ổn định Thăng Long cho dân binh Mường của Phạm Đống Cao, rồi suất lĩnh Bảo Tiệp quân, Linh Tiệp quân tiến vào đất Quảng Tây. Khi Phạm Thế Căng đặt chân lên đất Quảng Tây thì 2 đạo quân Trấn Ninh, Trấn Phong đang công chiếm Giang Tây cũng giao cho Phạm Thế Căng thống lĩnh.
Mùa thu tháng 7, quân của Phạm Thế Căng và quân của Lý Ngân từ Vân Nam sang cùng hội họp dưới chân thành Quế Lâm. Sau khi Vân Nam, Quảng Đông, nam Giang Tây bị Đế quốc quân đội chiếm lĩnh, Quảng Tây đã trở thành một ốc đảo, bị bao vây tứ phía. Quân Minh ở đây không còn chút ý chí chiến đấu, đào binh vô số. Mà nguyên bản ở đây đã không có bao nhiêu quân đội, thành ra các phủ huyện nhanh chóng thất thủ, rơi vào tay Đế quốc.
Khi trước, để chuẩn bị lực lượng đánh nhà Hồ, Vĩnh Lạc đế đã cho điều động lực lượng từ Nam Kinh, theo đường thủy xuống hội binh với các lực lượng đang tập trung tại Quảng Tây, gồm 9,5 vạn quân từ các tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng (gồm Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay), cộng với 1 vạn kỵ binh và bộ binh lấy từ Cấm quân, 3 vạn thổ binh từ Quảng Tây. Minh triều cũng huy động chuẩn bị tác chiến 7,5 vạn kỵ binh và bộ binh từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Các xứ Vân Nam và Quảng Tây được lệnh mỗi xứ phải chuẩn bị 20 vạn thạch lương (mỗi thạch 100 cân, mỗi cân 0,6 kilôgam) cung ứng cho quân đội. Vân Nam cũng được lệnh huy động 1 vạn quân tiếp viện. Trận chiến này đã điều động đến 22 vạn quân ở phía nam (khi sang đánh, quân Minh nói thăng lên là 80 vạn để hư trương thanh thế), sau khi chiếm được đất Đại Việt thì thiệt hại cũng không ít.
Đến khi Giản Định đế và Trùng Quang đế nổi lên,