Lại nói, khi nghe Long nhi và lão quản gia Ferdinand Caracciolo bàn bạc về hạm đội, Đinh An Bình không khỏi bật cười, bảo :
- Hạm đội của Hải quân Đế quốc chiến đấu không phải bằng cách đụng chìm địch hạm, mà là bắn chìm.
Long nhi ngạc nhiên hỏi :
- Bắn chìm là sao ?
Đinh An Bình nói :
- Đương nhiên là sử dụng thần công đại pháo bắn chìm.
Long nhi ngơ ngác hỏi :
- Thần công đại pháo ?
Đinh An Bình chỉ vào dãy thần công đại pháo nằm dọc hai bên mạn thuyền, cười nói :
- Đó chính là thần công đại pháo.
Bọn họ đi trên chiến thuyền của Hải quân, nên đương nhiên có trang bị thần công đại pháo. Trừ Thần Thánh Đế quốc, đối với thời bấy giờ, ở cả phương đông và phương tây, hải chiến vẫn là sử dụng chiến thuyền đụng nhau, hoặc cung thủ và chiến sĩ quyết chiến. Long nhi nghe nói, liền chạy đến bên một khẩu thần công đại pháo, xem thử, sờ thử, rồi hỏi :
- Nó lợi hại lắm à ?
Đinh An Bình cười nói :
- Nó có thể bắn vỡ địch hạm cách chúng ta hơn 5 dặm, điện hạ nghĩ có lợi hại không ?
Long nhi mở tròn mắt, kinh ngạc nói :
- Lợi hại thế cơ à ?
Đinh An Bình lại nói :
- Trước đây, khi tấn công các thành trì duyên hải, thần công đại pháo của Hải quân còn được sử dụng để bắn sập thành tường của các thành trì nữa kia. Thành tường bị phá, quân ta chiếm thành sẽ dễ dàng hơn.
Khi ra đến căn cứ Hải quân ở Long Sơn, nhìn các chiến thuyền nằm đầy trong vịnh, Long nhi cứ ngần ngừ mãi không biết nên lựa chọn thế nào. Đây chỉ là tiểu hình, trung hình chiến thuyền mà trước đây Giang Phong đã định cho thoái dịch, bán lại cho thương nhân dùng làm vũ trang thương thuyền. Nhưng những chiến thuyền dài 60 mét, 80 mét thì đối với Long nhi cũng là rất lớn, so với các chiến thuyền của Âu châu thời bấy giờ thường chỉ dài hơn 10 mét, tối đa cũng chỉ 20 mét là đã rất lớn. Chỉ về những chiến thuyền trong vịnh, Đinh An Bình nói :
- Thuyền nhỏ có tải trọng khoảng 700 vạn cân, thuyền lớn khoảng 1.700 vạn cân. Ngoài ra chiếc thuyền chúng ta vừa đi đó có tải trọng hơn 3.000 vạn cân. Tùy ý điện hạ lựa chọn, miễn sao không quá 1 ức cân thì thôi.
Long nhi cùng lão quản gia bàn bạc một lúc rồi quyết định chọn 1 chiếc đại hình chiến thuyền (3.000 vạn cân), 2 chiếc trung hình chiến thuyền (1.700 vạn cân) và 5 chiếc tiểu hình chiến thuyền (700 vạn cân), tổng tải trọng là 9.900 vạn cân. Đây là những chiến thuyền thời kỳ đầu, mỗi chiếc chỉ có từ 10 đến 20 khẩu thần công đại pháo. Tiểu hạm đội có 8 chiến thuyền, được Long nhi đặt tên là “Hạm đội Angers”, theo tên lâu đài của nhà Louis tại Anjou, cũng còn được gọi là trái tim của Anjou. Kỳ hạm, tức chiến thuyền chỉ huy, được đặt tên là “René de Anjou”, theo tên em trai của Long nhi, người sẽ thừa kế lĩnh địa Anjou và danh hiệu Công tước sau này (do Long nhi nhường lại). Hai chiếc trung hình chiến thuyền được đặt tên là “Comte de Maine” (Bá tước của Maine) và “Comte de Provence” (Bá tước của Provence), đều là các tước vị mà René sau này sẽ được thừa kế.
Sau khi đã thành lập Hạm đội xong, Đinh An Bình điều thủy thủ đến phục vụ tạm thời trên Hạm đội Angers, chờ sau này đến Âu châu sẽ bàn giao cho nhà Anjou, và giúp bọn họ huấn luyện tân thủy thủ. Tiếp đó là lương thực và vũ khí được chuyển lên các chiến thuyền.
Sau 10 ngày chuẩn bị, George Đệ Nhất và Ferdinand Caracciolo cùng đoàn tùy tùng lên thuyền trở về Âu châu. Đoàn thuyền rời Gia Định Giang, đi về phía nam đến Tân Thành, sau đó đi theo tuyến hàng hải đông tây, qua Tích Lan, Somali, Yemen vào Hồng Hải rồi đến Sinai. Đến thành Suez nằm bên bờ vịnh Suez, lương thực vũ khí được đưa lên bờ, rồi chuyển xuống thuyền nhỏ, theo kênh đào Suez đưa ra bờ Địa Trung Hải. Còn Hạm đội không thể vào kênh đào Suez, đành phải đi dọc theo bờ biển Phi châu, mất nhiều thời gian hơn.
George Đệ Nhất và Ferdinand Caracciolo dẫn đoàn tùy tùng khẩn cấp đi sang thành Sinai ở bên bờ Địa Trung Hải, bên bờ vịnh Buhayrat al Manzilah. Bọn họ thuê thương thuyền để đưa lương thực vũ khí vượt Địa Trung Hải về Provence và Trento.
Khi Ferdinand Caracciolo về đến Provence thì đã vào cuối mùa đông năm Giáp Ngọ, theo Tây Lịch thì đã vào đầu năm mới 1415. Từ năm ngoái, quốc vương Anh Cách Lan Henry V (lên ngôi năm 1413) đã từ chối đề nghị giảng hòa của phe Armagnac đang nắm quyền nhiếp chính triều đình Pháp Lan Tây. Do đó, mọi người đều đang chờ đợi một cuộc chiến tranh quy mô lớn tái bùng phát.
Giai đoạn từ năm 1389 đến năm 1415 này được các sử gia phương tây gọi là “giai đoạn hòa