Mở to mắt, đây lần thứ năm Hứa Qua dưới bầu trời đêm đầy sao gặp hiệp sĩ đi xuyên tường. Một năm không gặp, bờ vai anh ngày càng rộng và rắn chắc.
Đến giờ, Hứa Qua vẫn không biết được khuôn mặt của anh ra sao. Mỗi lần anh tới đều là lúc trời tối, ánh sáng đèn ngủ trong phòng rất mơ hồ. Với ánh sáng ấy, Hứa Qua mơ hồ nhìn ra dáng mặt anh cùng những người con trai ở trên chợ không khác biệt lắm, chỉ là đường nét mặt anh đẹp hơn một chút.
Khuôn mặt kia dù màu da gì, thì mắt anh không phải màu xanh hay màu nâu, mà chính là màu đen giống màu mắt Hứa Qua. Anh nói anh sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của cô, miễn là trong khả năng của anh.
"Anh có thể nói tiếng Anh không?" Hứa Qua nghĩ nhất định anh chỉ biết tiếng Ả rập.
"Có"
"Vậy tiếng Trung thì sao?"
"Có"
"Vì sao trên người anh không khoác áo choàng?" Hứa Qua đã xem mấy bức tranh về các hiệp sĩ, mỗi lần làm nhiệm vụ đều khoách lên mình chiếc áo khoác rực đỏ, trong tay là cây giáo với hoạ tiết uốn lượn đẹp đẽ.
"....."
Ban đầu, Hứa Qua cực kì tò mò về hiệp sĩ, cô hỏi anh không ít chuyện, nhưng anh rất kiệm lời khi đáp lại. Cuối cùng Hứa Qua quy vấn đề thành anh không thể tiết lộ cơ mật của nhóm hiệp sĩ.
Đêm nay, cô hỏi anh một chuyện khác.
"Em hỏi nè, cái quần jeans mặc trên người anh đồ bị trộm của nhà họ Hách không?" Đôi mắt nhìn chằm chằm chiếc quần trên người anh. Chiếc quần này nhìn quen lắm.
Đứa con thứ ba nhà Hách, Hách Tang là học sinh cấp trên ở trường. Trong lúc nghỉ hè nhà Hách có thuê một người phóng viên nước Mỹ làm công. Người phóng viên đó trước khi về nước đã tặng cho Hách Tang một chiếc quần jeans. Cậu ta liền coi nó thành bảo bối, mỗi khi có cơ hội để khoe là mặc liền. Không lâu sau, Hách Tang mặt như đưa đám nói quần jeans đó đã bị trộm. Cậu ta thề nếu bắt được kẻ đó sẽ lột da rút gân.
Hỏi xong vấn đề kia, Hứa Qua mỏi mắt mong chờ, cho đến khi cô tưởng không hi vọng gì với câu trả lời thì ---
"Hừ!" Người hiệp sĩ còn bồi thêm: "Quần jeans đó nhìn không tồi, không phải sao?"
Gật đầu, anh nói chính xác, dáng người Hách Tang trông cũng bình thường mặc chiếc quần vào nhìn thêm mấy phần khí chất. Nhưng Hứa Qua lại nghĩ nếu người ấy mặc quần jeans này thì đảm bảo quanh anh toả ra ánh sáng hào quang luôn. Chỉ là chân anh dài quá, Hứa Qua nghĩ mỗi lần anh tiếp bóng với đôi chân dài thẳng ấy, động tác nhanh nhẹn phát bóng giống như gió thu cuốn hết lá vàng bay lên.
Trước khi đi ngủ, cô vô cùng rầu rĩ vì người ấy nói nếu cô còn hư sẽ phạt nặng. Mắt rời khỏi quần jeans, vừa nhìn thấy anh là tâm trạng cô lập tức trở nên vui vẻ.
"Làm sao vậy?" Anh xích gần lại cô hơn một chút: "Cảm thấy hiệp sĩ trộm quần jeans là việc xấu à? Chuyện trộm đồ nhất định anh không bao giờ làm, trước khi lấy chiếc quần anh đã để lại ở nhà cậu nhóc đó ba đồng vàng rồi."
Bảo sao, gần đây nhà họ Hách đổi TV lớn hơn, tu sửa lại các phòng, điệu bộ như nhà giàu mới phất.
Nhất định anh rất coi trọng cô nên mới tiết lộ chuyện này. Thế nhưng Hứa Qua lại đang bận lòng ảo não vì nãy cô quên không hỏi người ấy một điều quan trọng. "Nếu tiểu thư Brown làm hư đồ của anh, anh sẽ trừng phạt cô ta chứ?"
Nếu người kia trả lời "Có", như vậy cô sẽ nguôi ngoai đi một chút. Trở mình, cô nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ đêm đầy sao.
Anh hiệp sĩ không nói nữa. Xung quanh thật yên tĩnh, một ý nghĩ kia như men phomai, thúc giục cô mở miệng, kể một chuyện xưa cô nghe được ở chợ. Người kể là một ông lão người Palestine.
Từ thời xa xôi, một vị người ngoại quốc nhận nuôi một đôi song sinh trai gái mồ côi. Sau này khi hai đứa trẻ lớn lên được quốc vương tín nhiệm vô cùng. Chiến tranh nổ ra, lan đến vương quốc này, hai anh em khi ấy vì bảo vệ tổ quốc lâm nguy mà sẵn sàng dũng cảm lăn sả. Sau mấy chục năm, cuối cùng quốc vương cũng thu hồi được toàn bộ vùng lãnh thổ bị mất. Ở buổi tiệc mừng, quốc vương đã hỏi hai anh em họ muốn được thưởng cái gì, hai người không hẹn mà cùng trả lời, chờ đến khi tất cả nhân dân đều hưởng thái bình, an cư lạc nghiệp thì hãy cho phép họ được tìm về quê nhà. Mấy năm trôi qua, trong bóng đêm bao phủ, hai anh em cáo biệt quốc vương, đi theo ánh trăng trải dài một đường về quê nhà.
Hứa Qua còn nhớ rõ, khi ấy là hoàng hôn, trên mặt đất còn sót lại bao vết thủng của đạn bắn phá, ông lão ấy đã kể lại câu chuyện này ở dưới thành cầu.
Chuyện xưa rất khó khơi gợi được hứng thú của mọi người, nhiều người rời đi ngay. Ngày đó chỉ duy nhất Hứa Qua ngồi nghe câu chuyện đến hết. Nói xong chuyện xưa, ông cụ cười với Hứa Qua, rồi xoa nhẹ đỉnh đầu. Hứa Qua hỏi ông: "Vậy cuối cùng hai anh em kia..."
Nhà Hứa Qua có một truyền thống, đó là vào ngày Chủ Nhật, bữa tối luôn phải chuẩn bị đầy đủ phong phú. Đó đã là tập tục từ thời ông bà nhà họ. Mỗi khi Chủ Nhật đến, Hứa Qua sẽ giúp dì Mai nấu cơm. Trước mặt dì Mai, Hứa Qua nói rất nhiều. Thi thoảng dì Mai sẽ dừng công việc đang làm lại, nhìn kỹ cô rồi nói: "Cháu đúng là một cô nhóc trưởng thành sớm."
Mỗi khi dì Mai nói thế, cô sẽ kiêu ngạo mà đáp: "Vậy mà mọi khi dì vẫn coi cháu là đứa ngốc." Và dì Mai sẽ luôn đáp lại: "Trưởng thành sớm và thông minh là hai chuyện khác nhau."
Nhưng dần dần, khi giúp dì Mai chuẩn bị bữa tối, Hứa Qua không còn hơi tý mở miệng là nói về người ấy như trước. Thậm chí còn không biết vì sao, cô cố tình giảm tần suất nói về anh. Một năm trước thôi cô còn không kiêng kị như vậy.
Ông cụ nhìn khuôn mặt buồn bã của Hứa Qua, ông lại lần nữa áp tay l3n đỉnh đầu cô. Cô cụp mắt, đổi câu hỏi "Vậy cuối cùng hai anh em kia có ở bên nhau hay không" thành "Vậy cuối cùng hai anh em kia sống ra sao?"
Câu trả lời của ông cụ: "Lúc sau khi đã về nhà, anh em họ đến tận lúc chết cũng không có