Mỗi ngày, Bụt đều có xuống tắm dưới dòng Neranjara.
Người thường đi bách bộ để thiền hành trên bờ sông hoặc ở những con đường mòn trong rừng do chính dấu chân của người tạo ra.
Có khi Bụt ngồi tĩnh tọa trên bờ sông bên dòng nước chảy.
Có khi Bụt ngồi tĩnh tọa dưới cây Bồ Đề trong lúc hàng ngàn chim chóc ca hát líu lo trên cành lá.Lời nguyện xưa bây giờ đã được thực hiện.
Bụt biết là người sẽ trở về Kapilavatthu.
Ở đó có nhiều người đang chờ đợi Bụt.
Nhưng Bụt cũng nhớ rằng ở thành Rajagaha, vua Bimbisara cũng đang đợi chờ người.
Vua Bimbisara quả là một người bạn tri kỷ của Bụt.
Bụt phải đáp lại tấm thịnh tình đó trước, và còn năm người bạn đồng tu nữa.
Bụt phải giúp đỡ họ.
Họ là những người có khả năng tiếp nhận đạo giải thoát.
Có lẽ năm người ấy cũng chỉ đang quanh quẩn trong vùng này mà thôi.Dòng sông, bầu trời, trăng sao, núi rừng cũng như từng ngọn cỏ và từng hạt bụi đều trở nên mầu nhiệm đối với Bụt.
Người thấy những năm lang thang tìm Đạo của mình trước kia không phải là vô ích.
Chính nhờ những năm phong trần ấy mà người thấy được rằng đạo sáng nằm ngay trong tự tâm mình.
Tâm của chúng sinh chính là tâm của giác ngộ.
Hạt giống tỉnh thức nằm ngay trong tâm của mỗi người.
Chúng sanh không cần đi tìm sự giác ngộ ở bên ngoài, bởi vì mỗi sinh vật chứa đủ trong tự thân tất cả trí tuệ và hùng lực của toàn vũ trụ.
Đây là một phát kiến vĩ đại của Bụt, và là một tin mừng lớn cho tất cả.Bọn trẻ đã rủ nhau trở lại nhiều lần để được Bụt dạy dỗ.
Trong khi tiếp xúc với chúng, Bụt vui mừng nhận ra rằng đạo lý giải thoát có thể diễn bày bằng một ngôn ngữ đơn giản và mộc mạc.
Bọn trẻ, dù là những em bé chưa bao giờ đi học cũng có thể hiểu được giáo pháp của Bụt.
Điều này làm cho Bụt phấn khởi.Có một bữa nọ, bọn trẻ đã tới Bụt với một rổ quít.
Rổ quít này do Sujata đem đến.
Chúng muốn được cùng ăn quít với Bụt trong sự tỉnh thức để thực tập lại bài học đầu tiên mà chúng đã được học về đạo Bụt.
Sujata nâng rổ quít đi mời từng người.
Trước hết cô bé quỳ trước Bụt và nâng rổ quít lên trên hai tay, đầu cô bé hơi cúi xuống trong dáng điệu thành kính.
Bụt chắp tay búp sen và tiếp nhận một trái quít từ trong rổ.
Sujata hướng sang mời Svastika hiện đang ngồi phía bên trái của Bụt, Svastika cũng chắp tay búp sen như Bụt để tiếp nhận một trái quít.
Sujata làm như thế cho đến khi mỗi người đều đã có trong tay một trái quít mới trở về chỗ ngồi.
Đặt rổ quít trước mặt, cô bé cũng chắp tay trước khi lấy lên một trái quít.
Bọn trẻ im lặng, Bụt bảo chúng theo dõi hơi thở và mỉm cười.
Rồi Bụt để trái quít lên trên lòng bàn tay trái, đưa lên, nhìn vào trái quít để quán tưởng chiêm nghiệm.
Bọn trẻ đồng loạt làm như Bụt.
Một lát sau, Bụt từ từ bóc quít, bọn trẻ cũng làm như người.
Thầy trò thong thả ăn quít trong im lặng, trong tỉnh thức.
Khi mọi người đã ăn xong quít, Bala đi thu hồi tất cả những cái vỏ quít.
Bọn trẻ rất sung sướng được ăn quít với Bụt trong chánh niệm và Bụt cũng cảm thấy một niềm vui lớn khi được ngồithực tập với bọn trẻ quê mùa nhưng rất dễ thương này.Bọn trẻ thường trở lại với Bụt vào những buổi chiều.
Có khi Bụt dạy chúng cách theo dõi hơi thở để điều phục tâm ý trong những khi buồn bực hoặc nóng giận.
Có khi Bụt dạy chúng cách ngồi yên để làm cho tâm trí tĩnh lặng.
Có khi Bụt dạy chúng cách đi thiền hành để học nếm sự thảnh thơi.
Bụt dạy chúng thật kỹ về cách nhìn người và sự việc: nhìn như thế nào để có thể thấy, có thể hiểu và có thể thương.
Bài dạy nào bọn chúng cũng hiểu được.Một hôm nọ, Nanbadala và Sujata quyết định cùng nhau may một chiếc áo cà sa mới để dâng Bụt.
Hai chị em đã để ra một ngày để làm chuyện này.
Chiếc áo cà sa mới này màu gạch, hơi giống với tấm vải mà Bụt đang choàng.
Sujata đã khám phá được nguồn gốc của tấm vải đó.
Đó là tấm vải đã được phủ lên thi hài của Radha, người ở của nhà cô, khi còn quàn ngoài nghĩa địa.
Radha đã chết vì bệnh thương hàn.
Ba mẹ của Sujata đã nuôi một người ở khác tên là Purna.
Khi biết rằng thầy mình đã phải lấy một tấm vải ngoài nghĩa địa để giặt đi mà làm áo cà sa, Sujata như muốn khóc, và đó là lý do khiến cô bé đi tìm người chị họ.Ngày hai chị em đem áo vào dâng, Bụt đang ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề.
Hai chị em ngồi im lặng đợi cho đến khi người xuất thiền mới dâng áo cà sa lên.
Bụt rất vui lòng khi có áo mới.
Người nói người sẽ cần đến áo này.
Và người nói người muốn giữ lại tấm vải, để mỗi khi giặt áo thì có vật khoác lên trên người.
Nghe nói thế, Nanbadala và Sujata quyết định may thêm cho Bụt một chiếc nữa để người có thể thay được áo ngoài mà đem đi giặt.Một hôm nọ, bọn trẻ được nghe Bụt kể một chuyện tiền thân.
Hôm ấy chúng đến khá đông, bé Balagupta hỏi Bụt về tình bạn.
Balagupta là một cô bạn gái của Sujata, mới lên mười hai tuổi.
Sở dĩ Balagupta hỏi Bụt về tình bạn vì ngày hôm trước cô đã cùng với cô bạn gái là Jatilika có chuyện xích mích cùng nhau, và hôm nay trước khi đi vào thăm Bụt cô bé đã định không ghé vào rủ Jatilika cùng đi, nhưng cuối cùng, Sujata đã ép cô vào rủ Jatilika, Jatilika đã chìu Sujata mà đi, nhưng khi tới cội Bồ Đề, đôi bạn ngồi ra hai góc chứ không ngồi gần sát bên nhau như trong những lần khác.Bụt kể cho bọn trẻ nghe về tình bạn giữa một con nai, một con chim và một con rùa.
Theo Bụt thì chuyện này đã xảy ra từ thời xa xưa, cách đây hàng ngàn năm, lúc Bụt còn là một con nai.
Bọn trẻ ngạc nhiên, nhưng Bụt bảo:– Trong những kiếp trước, chúng ta ai cũng đều đã từng làm đất, làm đá, làm sương, làm gió, làm nước, làm lửa.
Chúng ta ai cũng đã từng làm rêu, làm cỏ, làm cây cối, làm côn trùng, làm cá, làm rùa, làm chim muông, làm thú vật.
Điều này ta thấy rất rõ trong thiền quán của ta.
Vậy thì trong một kiếp trước, ta đã làm một con nai, đó là chuyện rất thường.
Ta còn nhớ, có một kiếp nọ, ta làm một mỏm đá trên đỉnh núi.
Có một kiếp khác nữa, ta đã làm một cây bông sứ.
Các con cũng vậy, chuyện ta sắp kể là chuyện một con nai, một con chim, một con rùa và một bác thợ săn.
Có thể là một đứa trong các con ngày xưa ấy đã làm con chim, và một đứa khác làm con rùa.Các con nên biết, có một thời nọ, trên cõi đất của chúng ta, chưa có mặt của loài người, và cũng chưa có mặt chim chóc và muông thú.
Lúc ấy chỉ có rong rêu dưới nước và cây cối trên cạn mà thôi.
Hồi đó, chúng ta chỉ có thể là đất đá, sương khói hoặc cây cối.
Rồi từ đó mà chúng ta luân chuyển thành chim chóc, thành các loài cầm thú và thành con người.
Ngay trong kiếp này, chúng ta cũng không phải chỉ là người.
Ta là người nhưng ta cũng đồng thời là cây lúa, là cây dừa, là trái quít, là dòng sông, là không khí… bởi vì không có mặt những thứ đó thì con người cũng không thể nào có mặt.
Cho nên khi các con nhìn cây lúa, trái dừa, trái quít, dòng sông, các con nên nhớ trong kiếp này tuy mình là người mình cũng phải nương tựa vào các loài ấy và mình cũng có thể nói rằng mình là những loài ấy.
Thấy được như vậy mới thật là có hiểu biết và có tình thương.
Chuyện ta sắp kể cho các con nghe tuy đã xảy ra cách đây hàng ngàn năm nhưng có thể là đang xảy