…
Hoắc Chấn Diệp tiếp tục lái xe đến nhà thờ.
Manh mối vẫn chưa hoàn toàn đứt đoạn, có lẽ giữa các nhà thờ cũng có liên hệ với nhau.
Hắn hỏi cha xứ giữa các nhà thờ có hoạt động chung nào không.
Cha xứ nói với hắn rằng mỗi nhà thờ đều có thời gian hoạt động riêng, các tín đồ cũng không qua lại gì với nhau.
Bọn họ được vị cha xứ nào truyền giáo, gia nhập đạo ở nhà thờ nào thì sẽ vẫn luôn sinh hoạt tại nhà thờ đó.
Hoắc Chấn Diệp đi đến nhà thờ thứ hai.
Cha Brown còn nhiệt tình hơn cha John.
Ông nghe Hoắc Chấn Diệp nói điểm liên quan duy nhất trước mắt giữa ba gia đình là đều theo đạo thì trịnh trọng nói:
“Đây chắc chắn là âm mưu của quỷ Satan.”
Hoắc Chấn Diệp suýt nữa thì “ẻ” thành tiếng.
Cha xứ Brown còn là một người theo thuyết Ma quỷ.
Cha xứ Brown giơ cây thánh giá lên.
Ánh nắng hoàng hôn hắt xuống tấm kính màu trên mái vòm của nhà thờ, như một thứ ánh sáng thần thánh chiếu lên khuôn mặt ông.
Ông nói với Hoắc Chấn Diệp: “Quỷ Satan là ngọn nguồn của tất cả tội ác.
Vô số linh hồn tà ma dốc sức phục vụ cho ác quỷ cánh dài này, nó sẽ dụ dỗ loài người sa vào tội lỗi…”
Hoắc Chấn Diệp nghe mà ê ẩm hàm răng, định ngắt lời cha Brown.
Lúc này một người đàn ông trung niên vẻ mặt suy sụp bước tới.
Quần áo ông ta mặc có chất liệu rất cầu kỳ nhưng rộng thùng thình, chứng tỏ ông ta đã gầy rộc đi trong một khoảng thời gian ngắn, chưa kịp may Âu phục mới.
Sắc mặt người đàn ông rất xấu, giống như đã mất ngủ cả tháng vậy.
Ông ta thấp giọng chào: “Thưa cha.”
“Ông Tống, sức khỏe của vợ ông đã khá hơn chút nào chưa?”
“Thưa cha, xin cha hãy ban cho tôi một chút nước thánh.”
Hoắc Chấn Diệp nhíu mày, nhìn cha Brown múc một ít nước trong bồn rửa tội ra và đựng trong chai thủy tinh.
Cha Brown đưa nước thánh cho người đàn ông kia, rồi làm dấu chữ thập: “Nguyện Chúa Trời phù hộ cho ông, giờ đây con trai ông chắc chắn đang ở bên cạnh Ngài.”
Những lời này đã thu hút sự chú ý của Hoắc Chấn Diệp.
Chờ cho người đàn ông kia đi khỏi, hắn hỏi vị cha xứ: “Chuyện gì đã xảy ra với con trai ông ta vậy?”
Cha Brown lộ vẻ tiếc thương.
Hai vợ chồng ông Tống vô cùng yêu thương nhau, bọn họ có một đứa con trai rất đáng yêu.
Cả gia đình bọn họ đều là giáo đồ thành kính, hàng năm đều quyên góp rất nhiều tiền cho nhà thờ.
Năm ngoái con trai ông Tống bị bắt cóc, mặc dù gia đình đã trả cho tên bắt cóc một món tiền chuộc rất lớn nhưng đứa bé ấy vẫn không thể trở về được nữa.
Cũng từ đó bà Tống sinh bệnh.
“Đứa bé kia sinh vào ngày nào ạ?”
Cha Brown lắc đầu.
Ông chỉ biết họ tên của ba người nhà kia thôi.
Hoắc Chấn Diệp nhớ kỹ tên của bọn họ.
Nghĩ đến điều gì đó, ngẩng đầu hỏi: “Ông Tống chỉ quyên góp cho nhà thờ này thôi sao?”
Cha Brown nói: “Ông Tống là một giáo đồ vô cùng thành kính.
Nhà ông ấy rất hào phóng, mỗi dịp Giáng sinh còn đích thân đi phát quà.”
Cũng có nghĩa là không chỉ quyên góp cho nhà thờ này.
Hoắc Chấn Diệp lái xe về Đồn Cảnh sát, nói với Đầu Bự: “Khoảng một năm trước, có một thương nhân tên là Tống Phúc Sinh có con trai bị bắt cóc.
Anh kiểm tra xem con trai của ông ta mấy tuổi, ngày sinh tháng đẻ là gì.”
Đầu Bự lật lại tập hồ sơ vụ án một năm trước, vừa nhìn đã sững sờ: Tống Minh Kiệt, con trai của Tống Phúc Sinh, mười tuổi, sinh ngày mồng chín tháng chín.
Cậu bé bị bắt cóc trong lúc đi mua quà sinh nhật cùng mẹ, và bị tên bắt cóc “đưa về” với cha mẹ mình ngay đúng hôm sinh nhật của cậu.
Đầu Bự há hốc miệng: “Liệu chuyện này có liên quan gì không?” Ngày sinh của những đứa trẻ này thật sự quá trùng hợp.
Hoắc Chấn Diệp cảm thấy không thể kết luận vội vàng được, nhưng đây quả thật là một manh mối: “Đi, đi nhà họ Tống một chuyến.”
Tống Phúc Sinh mang nước thánh về nhà.
Tài xế đã sớm xin thôi việc không làm nữa nên ông phải tự mình lái, sau đó dừng xe ở trong vườn hoa.
Một năm trước vườn hoa này là nơi mà vợ ông vô cùng yêu thích.
Bà trồng hoa nuôi chó, còn đứa con trai thì đánh cầu lông và đạp xe đạp trẻ em ở trong vườn.
Nhưng bây giờ trong vườn cỏ mọc um tùm, ánh nắng chiều còn sót lại cũng sượt qua ngôi nhà này và đổ về phía ngôi nhà đối diện, vừa vặn khiến cho cả ngôi nhà bị bao phủ trong bóng tối.
Tống Phúc Sinh vừa bước một chân vào trong bóng tối, cảm thấy giống như từ mùa thu vàng tháng chín đột nhiên bước qua mùa đông lạnh giá.
Ông siết bộ Âu phục cho khít người rồi đẩy cửa vào nhà.
Người giúp việc đứng ở cửa phòng khách thò đầu ra ngó nghiêng, chị ta vẫn đang đợi Tống Phúc Sinh trở về.
“Phu nhân sao rồi?” Tống Phúc Sinh đưa chiếc cặp da cho người giúp việc.
Người giúp việc nhanh chóng liếc nhìn ông: “Phu nhân ở trên lầu suốt, không hề đi xuống dưới.” Dạo trước rõ ràng bệnh tình của bà đã khá hơn một chút, nhưng thời gian gần đây lại trở nên nghiêm trọng hơn.
“Bà ấy ăn cơm chưa?”
Người giúp việc lắc đầu: “Chưa ạ.”
Tống Phúc Sinh đang định lên lầu thì người giúp việc nói với ông: “Ông chủ, tôi chỉ làm hết hôm nay thôi, từ mai tôi sẽ không làm nữa.
Người ông tìm bao giờ mới đến?” Phải có người mới đến thì chị mới được nghỉ.
Tống Phúc Sinh xua tay: “Chị không cần quan tâm, tôi sẽ cho chị thêm một tháng tiền công.”
Người giúp việc rất biết điều, nghe thấy vậy thì đi về phòng bếp chuẩn bị bữa tối cho Tống Phúc Sinh.
Chị ta không đợi nổi qua đêm nữa, nhận được tiền công thì đi ngay.
Tháng này đã có ba người giúp việc xin nghỉ.
Người này đi nữa thì trong nhà cũng chỉ còn lại ông và vợ thôi.
Tống Phúc Sinh leo lên cầu thang, thấy người giúp việc không mang thức ăn lên tận cửa phòng mà để ở cửa cầu thang thì không khỏi tức giận.
Người giúp việc đều nói phu nhân mắc bệnh điên, nếu ông không có nhà thì bọn họ không dám đưa đồ ăn lên cho bà.
Nhưng lửa giận trong ông nhanh chóng dập tắt, ông đẩy cửa phòng vợ mình ra một cách nhẹ nhàng: “Anh Anh, anh đã về rồi.
Hôm nay em thế nào, có khá hơn chút nào không?”
Rèm cửa trong phòng được kéo kín mít, chỉ có chút ánh nắng chiều hắt ra từ khe hở.
Một người phụ nữ ngồi bên chiếc nôi, tay khẽ đưa nôi và ngâm nga bài hát ru.
Coi như không nhìn thấy chồng mình và không nghe thấy ông nói gì.
Tống Phúc Sinh không đợi được vợ đáp lời, lấy bánh mì và sữa bò ra đặt trên chiếc bàn ngoài cửa: “Em đói thì ăn chút đồ nhé.”
Trong chai sữa bò có pha lẫn nước thánh mà ông xin từ chỗ cha xứ Brown.
Lần trước khi uống nước thánh xong vợ ông đã chịu mở miệng nói chuyện với ông.
Chỉ cần bà ấy uống nhiều nước thánh, nhất định sẽ khỏi bệnh.
Nhất định là vậy.
Người phụ nữ vừa mỉm cười vừa hát với chiếc nôi, thậm chí không chịu đưa mắt nhìn Tống Phúc Sinh.
Tống Phúc Sinh rầu rĩ đi xuống lầu, lấy tiền đưa cho người giúp việc.
Người giúp việc xách túi rời khỏi nhà họ Tống.
Trên bàn ăn chỉ có một phần bánh mì nướng.
Hoắc Chấn Diệp và Đầu Bự gõ cửa nhà họ Tống.
Tống Phúc Sinh hoảng hốt hỏi: “Các cậu là…? Các cậu tìm ai?”
Hoắc Chấn Diệp lấy thẻ cố vấn cảnh sát ra đưa cho Tống Phúc Sinh, nói: “Gần đây có ba đứa trẻ bị mất tích, chúng tôi đến để tìm hiểu tình hình.”
Cơ mặt Tống Phúc Sinh khẽ run rẩy, ông hạ thấp giọng nói: “Xin lỗi, vợ tôi không chịu nổi kích thích, chúng ta đi ra vườn hoa nói chuyện nhé, đừng để bà ấy nghe tiếng.”
Trước khi tới đây, Hoắc Chấn Diệp đã tra qua những bài báo cũ từ năm trước, vụ án này từng gây chấn động vô cùng lớn.
Sau khi lấy được một khoản tiền chuộc khổng lồ, tên bắt cóc đã bỏ thi thể của cậu bé vào hộp gỗ và trả về đúng vào ngày sinh nhật của cậu.
Chiếc hộp gỗ được buộc bằng một dải ruy băng, để cho cha mẹ