Trên đường về biệt viện, Tiết Sư thần quân ở phía sau Tử Kính không ngừng nói: "Thượng thần, ngài không thể như thế này mãi được!!!"
Tử Kính phe phẩy chiếc quạt giấy trong tay, nghiêng đầu khó hiểu nhìn hắn: "Ta như thế nào?"
"Ngài không thể cứ để Đông Phong Hành bên cạnh ngài được, ngài không sợ sẽ xảy ra chuyện lớn sao? Ngài nghĩ kỹ đi, nếu ngài ấy là người phàm bình thường, cùng lắm chúng ta khiến ngài ấy trở nên ngu đần là xong, nhưng đây còn là hoàng thượng đấy, sau khi trở nên ngu ngốc sẽ hại bao nhiêu bách tính chứ? Vậy nên, hai người mà thật động tâm, thì về phía ngài hay ngài ấy đều không có kết quả tốt." Tiết Sư thần quân như vị phụ thân già nhìn thấy nữ nhi gặp phải ác bá, vừa gấp vừa lo khuyên nhủ nữ nhi mau mau rút ra.
Nhưng Tử Kính thấy hắn gấp gáp đến xoay vòng vòng như vậy thì có chút thú vị, cười nhẹ nói: "Tiết Sư, ngài nghĩ quá nhiều rồi!"
Tiết Sư thần quân lắc đầu vô cùng chắc chắn: "Ta không nghĩ nhiều, ngài đừng tưởng mình sống lâu hơn người khác là có thể tùy tiện nói người khác không hiểu chuyện bằng ngài.
Ta so với một người quanh năm suốt tháng ngoài đánh yêu ma thì ở lì trong Thanh Nghiêng đài như ngài, còn tiếp xúc với rất chuyện hơn đấy."
Tử Kính dập tắt nụ cười trên mặt, cũng nghiêm nghị nói: "Ta biết rồi, ta sẽ có giới hạn, ngài đừng lo nữa."
Mặc dù Tử Kính nói thật tâm vậy, nhưng Tiết Sư thần quân vẫn thấy lo, hắn cảm thấy tóc trên đầu mình sắp vì chuyện tình cảm của Thượng thần mà bạc trắng hết cả rồi.
Hắn phải kêu Diễm Ma thần quân xuống phụ thôi...
[...]
Chỗ phong ấn cuối cùng thật ra là nằm trong trong tẩm cung của Đông Phong Hành.
Đông Phong Hành đi theo Tử Kính vòng qua long sàn tới tấm bình phong ở phía sau, trên bức tường tại nơi có một hình vẽ nhỏ và kín đáo ít người có thể thấy được, Tử Kính giơ tay ra trên lòng bàn tay xuất hiện một trận pháp, sau đó nàng khẽ đọc mấy câu pháp chú, bức tường trước mặt không một tiếng động lẳng lẽ mở ra một cánh cửa.
Đông Phong Hành: "..." Chàng ở đây hơn mười năm, lần đầu biết phía sau tấm bình phong có mật thất đấy!
Tử Kính phất nhẹ cổ tay những ngọn nến bên trong lập tức sáng bừng lên.
Bên trong không khác gì động thiên, dây leo quấn chằng chịt bao phủ kín mặt đất, vách tường và chóp nhà, trong bầu không khí ẩm thấp ướt át chúng toả ra một mùi hương thanh thoát rất dễ chịu.
Hai người chậm rãi đi vào trong, đập vào vào mắt chính là một cái hồ lớn, bên cạnh hồ có một pho tượng rồng điêu khắc uy nghiêm đứng sừng sững, không ngừng có nước từ trong miệng rồng chảy xuống, ào ào chảy vào trong hồ, xung quanh hồ hơi nước như sương mù lượn lờ, phảng phất như tiên cảnh.
Tử Kính nhìn ôn tuyền đang bóc lên từng luồng hơi nóng trước mặt nói: "Trong ngũ hành Mộc sinh Hỏa tức lấy cây khô thiêu đốt sẽ tạo ra lửa, Hỏa lấy Mộc làm nguyên liệu đốt, nên phong ấn đầu tiên chúng ta củng cố là cánh rừng chết trong Thiên Dư Cảnh; tiếp đến, Hoả sinh Thủy tức kim loại nếu bị nung chảy ở nhiệt độ cao sẽ tạo ra dung dịch ở thể lỏng, nên phong ấn thứ hai củng cố là Hồ nước bên cạnh Ngự Hoa Viên; kế tiếp, Hỏa sinh Thổ tức lửa đốt cháy mọi thứ thành tro bụi, tro bụi vun đắp thành đất, mắt tượng rồng chính là Hoả và nơi chân tượng rồng đặt xuống chính Thổ, đó là phong ấn thứ ba và thứ tư; cuối cùng, Thổ sinh Kim, Kim trong kim loại, tức quặng hình thành từ trong đất, nên hình vẽ Tương Liễu dưới ôn tuyền đây chính là Kim."
Tử Kính vừa nói xong đưa tay lên phất một cái, nói: "Khai!"
Nước từ trong miệng rồng theo cái phất tay của nàng đột nhiên ngưng hẳn, mà nước dưới ôn tuyền cũng biến mất, lộ ra hình vẽ bên dưới.
Đông Phong Hành nhìn qua, bên dưới là một con mãng xà màu xanh có chín đầu khổng lồ, mắt nó màu màu hổ phách so với Cửu Vĩ Hạc chỉ có sắt lạnh hơn chứ không có kém, trong rất hung hãn.
Tử Kính không nhanh không chậm nói tiếp: "Tương Liễu là hung thần, thân rắn chín đầu, ăn thịt người vô số chất thành ao đầm, năm xưa, ta chính là dùng ác niệm muốn cắn nuốt của hắn mà giam cầm hắn lại."
Nàng hơi ngừng một chút, thần sắc càng thêm phần nghiêm nghị nói: "Một hồi ta sẽ mở đường vào Thiên Dư Cảnh, con đường dẫn vào hơi dài trên đường đi dù có nghe thấy âm thanh gì, ngài cũng tuyệt đối không được ngừng chân lại cũng không được nói chuyện, ác niệm dễ làm loạn tâm can mà sự sợ hãi trong lòng sẽ càng làm cho ác niệm lớn mạnh hơn."
Đông Phong Hành gật đầu.
Tử Kính xoè tay ra, trên tay nàng xuất hiện một chiếc lồng đèn dầu, trong tim đèn đang phát ra tia sáng mỏng manh.
Đông Phong Hành nhìn kỹ phát hiện ra ngọn lửa trong lồng đèn dầu không phải ngoài đỏ trong lam như bình thường, mà ánh lên màu xanh biếc nhạt, hiện lên vẻ âm u lạnh lẽo ghê người, từ trên đèn dầu không cảm nhận được chút nhiệt độ nào.
Tử Kính đưa cho Đông Phong Hành, nói: "Đây là đèn dẫn hồn, dùng tro cốt của ta đốt cháy để phát sáng, chỉ cần ngài cầm nó ma vật sẽ không dám tấn công hay xuất hiện trước mặt ngài."
Đông Phong Hành đưa tay ra nhận lấy lồng đèn dầu: "Ngoại trừ cầm đèn đi, ta còn phải làm gì nữa không?"
Tử Kính: "Tin tưởng tay là được!"
Nàng chấp hai tay lại, trong miệng khẽ lẩm bẩm niệm mấy câu thần chú cổ xưa.
Đông Phong Hành chỉ thấy một cơn gió lạnh thổi qua người, chàng chớp mắt một cái đã thấy mình đang đứng trên một con đường tối đen như mực, xung quanh u lạnh không một tiếng động, yên tĩnh tới mức chàng có thể nghe được nhịp thở của chính mình, lúc này tim đèn dẫn hồn đột nhiên sáng bừng lên, chàng nhờ đó mà nhìn xung quanh rõ hơn, nhưng cũng chỉ thấy sương giăng mù mịt không thể nhìn thấy rõ đường trước mặt có gì.
Tử Kính lúc này bên cạnh chàng nhẹ giọng nói: "Đây là đường đi vào Thiên Dư Cảnh, ngài chỉ cần đi theo ta là được, tốt nhất là đừng nhìn hay nghe những thứ khác, kẻo khi ra ngoài lại bị đau mắt hay có những ám ảnh không nên có!"
Tuy lời của Tử Kính nghe vào tai thấy không tốt chút nào, nhưng Đông Phong Hành rất nghe lời gật đầu.
Kỳ thật chàng cũng không có hứng thú đến mấy chuyện về cuộc sống hằng ngày của lũ ma vật.
Tử Kính chậm rãi đi phía trước, Đông Phong Hành đi phía sau, từ ánh sáng yếu ớt của đèn dẫn hồn, chàng chỉ thấy bóng lưng bạch y như xa như gần ở phía trước.
Đi thêm một đoạn nữa, bên tai bỗng vang lên