Độc Cô Thanh Tùng nhất định chết theo cha, nên trối trăn việc Đại Hội Kim Đảnh và tỏ lời vĩnh biệt Lam Y lão tổ xong, liền hụp đầu khỏi mặt nước.
Song với một người quen thủy tánh, tìm lối tự tử trong nước là một việc vô hiệu. Chàng cố dìm mình xuống, tiềm thức sở năng lại đẩy bật lên. Đành rằng Độc Cô Thanh Tùng có thể mược khí lạnh của nước đầm mà hủy diệt tính mạng mình, chàng chỉ có thể chết mòn dần chứ chẳng khi nào chàng bị trầm tịch mà chết.
Do đó, chàng hụp xuống, lại bị nhồi lên mấy lượt như vậy, thân hình chao chao di chuyển khỏi chỗ cũ, theo đường nứt nẻ của băng giá mặt hồ đến gần vách hố.
Bỗng chân chàng chạm phải một tảnng đá, đồng thời tay chàng đụng đá, chỗ đá đó lại nham nhúa khác hẳn các mặt vách khác. Đứng trên tảng đá, chàng không còn hụp xuống được nữa vì tảng đá nổi các chỗ khác trong đáy đầm, mặt nước chỉ ngập đến nửa ngực chàng thôi.
Đồng thời một ý niệm phát sanh nơi tâm tư chàng. Chàng nhớ đến Mẹ.
Chàng thầm nghĩ :
"Gia gia đã chết nhưng Mẹ chưa chết, ta có thể chết theo gia gia bỏ người sống trong tay kẻ thù chăng ? Ta chết đi, Gia gia cũng không sống lại, mà Mẹ cũng sẽ chết với kẻ thù. Tại sao ta không sống để lo liệu cứu Mẹ và các người thân kia ? Cái hiếu đâu chỉ với Cha không mà thôi, còn Mẹ nữa chi ? Trọn hiếu với Cha, bất hiếu với Mẹ, ta cũng không trọn đạo làm người như thường. Huống chi ta vẫn theo một cái hiếu ngu muội, một cái hiếu không giúp gì được cho Cha mà còn hại Mẹ ? Ngoài ra ta còn mang thêm cái tội không trả được mối huyết hải thâm cừu cho Cha, cho Mẹ, cho các người thân !" Nghĩ đến đấy chàng rít lên :
- Độc Cô Thanh Tùng, Độc Cô Thanh Tùng ! Đừng hành động theo trí đoản. Mi phải sống, giải thoát cho Mẹ, cho các vị thúc bá, rồi muốn chết theo Cha thì chết.
Nhắc đến Mẹ, nhắc đến thúc bá, Độc Cô Thanh Tùng nghe lửa hận bùng lên, chàng không còn cảm giác lạnh nữa.
Đứng trên tảng đá, một tay ôm Thánh Kiếm Vũ Sĩ, tay kia vịn vào vách đá, chàng cố lắng đọng tinh thần, tìm lối thoát.
Chàng thở phào mấy tiếng, vận chuyển khí huyết, châu lưu trở lại toàn thân, khí lạnh bị khu trục ra ngoài, người chàng khoan khoái dần dần.
Chàng tiếp tục điều tức vận công một lúc nữa, khí lực khôi phục phần lớn.
Chàng nhìn mặt Thánh Kiếm Vũ Sĩ khấn vái :
- Gia Gia ơi ! Con muốn chết theo Gia Gia lắm, nhưng con còn nhiều việc phải làm, xin Gia Gia lượng thứ cho con ! Con sẽ báo thù cho Gia Gia, consẽ giải thoát cho Mẹ, cho các vị thúc bá. Nhất định phải có một ngày con lấy đầu kẻ thù, tế điện vong linh Gia Gia !
Chàng đưa chân rà ra theo tảng đá, chung quanh thì bằng mặt, nơi chính giữa có một lỗ khuyết xuống. Chàng rùn chân đứng để thọc chân kia vào lỗ khuyết, xem sâu cạn thế nào. Chân chàng vẫn không đụng đáy.
Linh tính báo cho chàng biết là tảng đá nhô cao này hẳn phải có liên hệ gì với Minh Đầm này không ít. Chàng suy diễn :
- Tại sao đáy đầm vô tận mà lại có tảng đá này nhô lên ? Hơn nữa tảng đá lại có lỗ khuyết như một miệng hang ? Hay là lối xuất nhậm của Minh Đầm ?
Mặt đầm rộng độ mấy mươi trượng vuông, tảng đá nầy có vẻ là vật duy nhất tron glòng đầm giúp chàng thoát. Từng thám hiểm nhiều hòn núi hùng vĩ, hiểm trở, chàng rất hiểu sơn hình, địa thế, những lỗ khuyết như vậy phần lớn là những đừng dẫn đến một hang động hoặc gần hoặc xa, vhoặc rộng hoặc hẹp và luôn luôn những hang động thiên nhiên đều có lối thoát ăn thông với thế gian bên ngoài.
Đó là một cơ xảo của tạo hoá, có những lối thông dễ tìm, có những lối khó tìm, còn như thoát được hay không cũng như tìm ra được lối thông hay không là do sự thông minh và năng lực của người bị kẹt.
Rất có thể khi tìm ra Minh Đầm này để đặt làm một tử địa hãm hại kẻ thù, bọn Huyết Aûnh Cung và tuyết Ma Ban không hề khám phá ra tảng đá ấy, bởi chúng có dám làm cuộc thí nghiệm dưới Minh Đầm lạnh lẽo này đâu ?
Chàng đưa chân rà lại chỗ khuyết một lần nữa. Chắc ý như mình đã suy đoán rồi, chàng điểm một nụ cười thầm nghĩ :
"Hỡi Vạn Cực Đế Quân, Vạn Cực Thiên Tôn, Vạn Cực Ảo Nữ, Từ Diện Diêm Quân ! Uổng phí công linh các ngươi tận dụng tâm cơ tìm cách hãm hại ta ! Độc Cô Thanh Tùng nầy nếu có chết cũng không phải chết tại Minh Đầm !" Chàng cười lớn :
- Ha Ha !, Ta sẽ thoát khỏi Minh Đầm ! Ta sẽ tảo thanh Huyết Aûnh Cung, tận diệt Huyết Ma Bang !
Nhìn xác của Thánh Kiếm Vũ Sĩ, chàng rơi lệ, vái :
- Không phải con đành để Gia Gia ở lại chốn nầy, xin Gia Gia hồn thiêng hãy lượng thứ cho con , con sẽ tận diệt kẻ thù cho Gia Gia nhắm mắt ngậm cười nơi chín suối ! Con đi đây !
Chàng nghiến răng ken két, buông xác chết xuống tảng đá, đoạn hụp nhanh mình xuống lỗ hổng. Nhưng chàng lại trồi lên, kẹp xác Thánh Kiếm Vũ Sĩ vào nách rồi nhảy xuống. Nhờ chàng trầm khí, lại có thêm sức nặng của xác Thánh Kiếm Vũ Sĩ nên chàng trầm xuống rất nhanh.
Chàng thầm nghĩ :
"Thà mình đem xác Gia Gia theo, nếu thoát được thì mang lên thế gian, tìm nơi an táng, còn không thoát được thì cũng bỏ thây một chỗ, cho khỏi tủi vong hồn của nhau. Bỏ xác Gia Gia ở lại nơi nầy, nếu mình thoát được, làm sao trở lại tìm kiếm ?
Đúng như chàng suy đoán, lỗ hổng đó là một cửa động, che khuất dưới mặt nước Minh Đầm, như động Thuỷ Liêm. Miệng động rất nhỏ, chỉ vừa đủ cho hai người chui một lượt.
Miệng động đã nhỏ, con đường sau miệng động lại không lớn gì hơn, lại ăn đứng xuống, gia dĩ lại chìm trong nước. Vượt qua một con đường như vậy, không phải là một việc dễ dàng, dù chính là một kẻ tài năng quán thế như chàng.
Chàng cảm thấy khó khăn khổ sở quá, toan trồi mình trở lên, bỏ quách ý định thoát đi.
Thực ra, chàng quá liều lĩnh. Dù đó là một đường hang dẫn đến một lòng động, nhưng con đường hang đầy nước dài bao nhiêu, lòng động ở tận đâu, có khô ráo, sáng sủa, hay chỉ là một cái bộng chứa nước đen tối, dưới lòng đất sâu ? Nếu thế, chàng sẽ dẫn thân vào tử địa rõ ràng.
Vừa muốn lên, chàng lại nhớ đến mẹ. Bằng mọi cách chàng phải cố thoát khỏi nơi đây, để cứu Mẹ. Trở lên cũng chết, chắc chết rồi. Đi luôn theo lòng hang, có thể chết mà cũng có cơ sống, thà đi xuống luôn, may ra thoát được. Trong hai cảnh cùng, dĩ nhiên chàng phải chọn cái cảnh còn phần nào hy vọng.
Chàng nín hơi trầm mình xuống mãi. Vừa trầm xuống, chàng vừa nghĩ :
"Nếu có chết, thì chết như vầy càng hay ! Không ai tìm được xác của mình, còn hơn chết trong tay kẻ thù để chúng bộc lộ thi hài mình. Chết như vậy khỏi mang tiếng nhục bại trước kẻ thù !" Chàng xuống sâu được mấy trượng rồi.
Tuy chàng rất quen thủy tánh thật, chàng có thể nín thở lâu thật, song quen tới đâu cũng có mức chịu đựng, quá giới hạn là con ngươi bức rức, đầu choáng, mắt hoa.
Không khí dồn chứa trong lồng ngực không thể giữ lâu mãi, bắt buộc chàng phải từ từ thở hắt ra. Thở ra mà không có hít vào, sức chịu đựng phải kém giảm nhanh chóng.
Bỗng nhiên, chân chàng chạm phải một bậc đá. Chàng mừng rỡ vô cùng, rà rà theo bậc đá, nhận đúng là bậc thang. Không do dự, chàng đặt một chân lên bậc, đưa chân kia rà rà, lại gặp một bậc nữa ở phía trên.
Chàng bước lên liền, rồi từ bậc, từ bậc, chàng lên dần.
Đi một lúc, chàng ló đầu khỏi mặt nước, phồng ngực thở phào, trút hết không khí ứ đọng, hít không khí mới vào cho khỏe khoắn. Chàng nhẩm tính , đã vượt độ hai mươi bậc thang.
Khoan khoái trong người, chàng hét lên như cuồng dại :
- Ta thoát hiểm rồi ! Ta không còn sợ chết nữa !
Chàng vượt thêm tám bậc thang nữa, lên khỏi hẳn mặt nước, nhìn xác cha dưới nách, cười khoái trá :
- Gia Gia thấy chưa ! Con thoát nạn rồi đó !
Song chàng bặt cười ngay. Xác chết dưới nách truyền cảm giác lạnh ngắt sang mình chàng, làm chàng chợt tỉnh ngộ.
Chàng chưa thể cho mình thoát nạn được. Bất quá chàng chỉ thoát khỏi Minh Đầm, rời Minh Đầm để đến một nơi khác vậy thôi. Ngoài cái lợi trầm mình trong nước lạnh, chưa thấy một tia hy vọng nào hơn.
Tuy nhiên, chàng không nản lòng, đảo mắt nhìn quanh một lượt, thấy một vầng sáng xanh nhạt không rõ do vật gì phát xuất từ trên đỉnh đầu chiếu xuống, rọi rõ mấy bậc thang đá tại ngay trong vách núi. Tận đầu thang lại là một vách đá chắn ngang không còn lối đi nữa.
Chàng có cần tìm hiểu vật gì phát xuất ra ánh sáng ? Tâm tư chàng chú trọng trọn vẹn vào tấm đá chắn ngang đầu thang, chàng lại thất vọng một lần nữa.
Nếu không có lối thông, chàng phải chịu giam cầm tại đây chờ tới lúc đói lả người ra mà chết. Như vậy có sự thay đổi may mắn đâu ? Thay vì chết gấp trong nước lạnh của Minh Đầm, chàng sẽ chết đói nơi đường thang này, chết dần mòn, đếm từng ngày, từng giờ mà chết.
Ôm xác cha, Độc Cô Thanh Tùng lần theo mấy bậc đá tiến lên cho đến tận đầu thang, chàng nhận ra ánh sáng xanh phát xuất từ hai chữ rất lớn "Minh Thất" Đọc hai chữ đó, chàng rùng mình thầm kêu khổ :
"Rời Minh Đầm để đến Minh Thất ! Thì ra mình vẫn còn lẩn quẩn trong khu vực U Minh, gian sau của Diêm Chúa !" Chàng thừ người đứng lặn một lúc, mắt lơ đản nhìn tới nhìn lui, nhưng không chú ý đến sự vật xung quanh đó.
Bất thình lình, chàng chồm người tới, nhìn lom lom vào vách. Nơi đó có dấu vết như một vọng cửa. Đắn đo một chút, chàng giơ tay xô thử. Hình vọng cửa vẫn trơ trơ.
Chàng bắt đầu quan sát một vòng theo dấu vết hình vọng cửa, tìm thấy một chỗ mà chàng cho là cơ quan mở đóng. Không ngần ngại, chàng đưa tay ấn thử xem.
Một thứ tiếng rột rột khẽ vang lên. Hình vọn cửa rung rinh, rồi từ từ mở vào trong. Bảng cửa dày độ năm thước mở ra, một luồng gió lạnh bên trong thổi ào ra ngoài rất mạnh. Độc Cô Thanh Tùng không đề phòng, bị gió đẩy chao người suýt ngã ngữa.
Chàng phải lùi xuống hai bậc thang mới đứng vững, hơi lạnh làm chàng run run người.
Chàng cười khổ :
- Minh thất thì phải lạnh, nơi đây cái gì cũng lạnh ! Mình còn sống đây mà cũng thấy lạnh, nếu chết đi thì hồn còn lạnh như thế nào ?
Chàng vung mình xua đuổi bớt khí lạnh trong người ra ngoài, bước lên chỗ cũ, thò đầu qua khung cửa nhìn vào.
Chính giữa thạch thất có một chiếc giường rất dài, chiều ngang rất hẹp, bằng đá màu đen ngòm. Chàng phát giác ra chình chiếc giường đó phát xuất luồng gió lạnh.
Ngoài chiếc giường ra, Độc Cô Thanh Tùng không thấy vật gì khác.
Chàng lo sợ. Dù chàng có thể chịu được khí lạnh trong Minh thất, nhưngít ra cũng phải có vật gì để ăn, để uống mới lây lất qua ngày. Tại đây không có một thực vật gì, dù sống dù chín, chàng mới làm sao ? Chàng thừa hiểukhông phải chỉ trong thời gian ngắn, chàng có thể tìm được lối thông ra thế gian nếu quả thực có lối thông.
Thành thử, lọt vào Minh Thất, vấn đề quan trọng nhất cho chàng là thực vật Chàng bước tới gần chiếc giường. Linh tính báo cho chàng biết, nơi đây chỉ có một chiếc giường duy nhất, hẳn phải có một nguyên do gì đó, nếu không ai lại đặt nó vào đây làm gì, trong khi không có một vật nào khác.
Dù đây là một ngọa thất thì ít ra cũng phải có một vài vật dụng nữa chứ ?
Chàng cần quan sát chiếc giường xem có gì lạ chăng ?
Vừa đến gần chiếc giường, chàng sửng sốt trông thấy hai hàng chữa khắc ngay nơi chính giữa sàng giường :
"Minh Thất không người, ai ở là chủ, không cần ăn uống, đừng sợ chết rũ." Độc Cô Thanh Tùng à lên một tiếng kinh dị, đọc tiếp mấy chữ sau cùng :
"Luyện tinh thần, tẩy cốt tuỷ để sớm thành bậc đại tài." Chàng tỉnh ngộ, thì ra nơi đây không phải là một trụ sở của một nhân vật nào cả mà là một chỗ luyện công. Chiếc giường kia là chỗ luyện tinh thần, tẩy cốt, nếu nằmlên đó dẫu không ăn uống vẫn no thoải mái.
Trước mắt không lối thoát, ở lại thì cần phải ăn nhưng lấy gì ăn ? Cần phải sống mà không lo cái ăn, chỉ có cách là Độc Cô Thanh Tùng lên giường kia mà nằm, để khỏi còn nghĩ đến vấn đề ăn chứ không phải thiết tha luyện tinh tẩy cốt gì đó.
Chàng tặc lưỡi tỏ bất mãn để khỏi lo, nhưng bắt buộc phải làm như vậy, còn biết làm sao bây giờ ? Chàng lẩm nhẩm :
"Đành vậy ! Luyện thì luyện, tẩy thì tẩy ! Bao nhiêu công phu tu vi từ trước đến giờ có lẽ phải bỏ hết để bắt đầu luyện lại, khi nào xương khô thì thôi.
Chàng nhếch nụ cười khổ mang xác Thánh Kiếm Vũ Sĩ đặt lên giường, đạon ghé xuống một bean. Chàng nằm nghiêng, đưa tay loon dưới cổ phụ thân, một tay đặt lên trên, ôm giữ cái xác sợ người cuỗm mất.
Chàng chống chọi với cái lạnh tại Minh Đầm hai lượt, chàng lại phải ngụp lặn trong đường hang để đến Minh Thất, dù thân thể chàng có là sắt đá cũng phải hao moon, huống chi cũng xương cũng thịt như người thường ?
Võ công cao tuyệt chỉ giúp cho chàng duy trì đến giới hạn nào đó thôi, sau cùng chàng cũng phải mỏi meat, lúc chàng lên giường nằm thì thân thể chàng rã rời từng bộ phận.
Chàng muốn ngủ một giấc, nếu không nữa thì cũng phải vận công điều tức, khoi phục ngươn thần, nhưng chàng không thể làm gì được, hơi lạnh bốc ra từ chiếc giường làm chàng tê cóng xác thịt lẫn tinh thần, lạnh hơn nước trong Minh Đầm gấp mấy lần.
Chàng thấy nếu cứ bất động mãi má chịu cho cái lạnh xâm nhập vào người thì máu sẽ đông, huyết quản đứt, tim ngừng đập mà chết mất.
Chàng cố gắng vận tụ phần chân khí còn lại, điều động qua các huyệt mạch, xua đuổi khí lạnh ra ngoài.
Chàng làm một cuộc kiểm điểm chân lực trong người, thấy tiêu hao quá nhiều.
Phần còn lại rất mong manh, nếu chàng không xua đuổi nổi khí lạnh ra ngoài thì phần còn lại sẽ tiêu tan mất, chàng cầm chắc cái nguy trong tay.
Biết vậy mà chàng vẫn phải làm, vì không còn cách nào hơn... vã lại khí lạnh dù bị xua đuổi ra ngoài, cơ thể vẫn bị suy nhược như thường, ít ra cũng phải nhập định một lúc cho mọi xáo trộn cơ thể vừa qua lắng dịu lại, ngươn thần dần dần khôi phục.
Song, dường như chiếc giường có một công hiệu nhiệm màu, thay vì cơ thể suy nhược theo sự tiêu moon chân lực, chàng cảm thấy khoẻ khoắn vô cùng. Khí lạnh từ từ thoát ra, tinh thần dần sảng khoái trở lại; chân lực thay vì tiêu tan lại phục hồi dồi dào.
Chàng không còn thắm thía cái khí lạnh do chiếc giường phát ra nữa.
Chàng mừng rỡ vô hạn, niềm thất vọng tan biến, nhường chỗ cho sự phấn khởi tăng lên.
Bây giờ chàng mới biết chỗ huyền diệu của chiếc giường :
nằm trên đây mà luyện tinh tẩy cốt không phải để cho thân hình khô đét như chàng tưởng, trái lại tạo cho thân thể một sức chịu đựng vô biên.
Chàng vận dụng phương pháp luyện Cửu Âm Thần Công của Đông Hải Kỳ Tẩu, bắt đầu luyện.
Sau một lúc lâu, chàng lại theo phương pháp luyện cương khí của Địa Tường mà tiếp tục luyện. Lúc đó, Độc Cô Thanh Tùng không khác nào một tên học trò ôn bài, bắt đầu từ sở học sơ đẳng ôn dần đến cao đẳng, qua đủ các môn.
Khi chàng ôn đủ một vòng sở học, chàng nghỉ ngơi một chút. Trong người chàng sảng khoái vô cùng, chàng hoàn toàn tỉnh hẳn.
Đột nhiên chàng có ý nghĩ :
"Tại sao ta không thou luyện Hoá Huyết Công của Huyết Ảnh Tử Vưu Hồi ! Nếu ta đạt tới mức tinh vi độc đáo thì càng hay chứ sao ? Dù đó là một môn tà công, song có phải tà công đều ác độc cả đâu ? Vậy chứ Quỷ Phủ Âm Khí không phải là một tà công sao ? Có ác độc chăng là do con người sử dụng, chứ môn công có trách nhiệm gì?
Con dao kia dùng giết người thì là vũ khí tàn độc, nhưng dùng trong cuộc sống hàng ngày nó là một vật vô cùng cần thiết. Mình không nên quá cố chấp vì danh từ, về xuất xứ mà bỏ đi một tuyệt học. Nghĩ là làm ! Chàng theo bí quyết ghi nơi vách đá trong lòng động bên ngoài Đế Cốc bắt đầu luyện Hóa Huyết Thần Công.
Chàng không cần ăn, không cần uống, mà vẫn không thấy đói khát gì cả ? Hơn nữa chàng không nghe mệt mỏi, mặc dù chàng cố luyện, luyện mãi, không kể ngày đêm, bỡi ở nơi đây biết thế nào là ngày, thế nào là đêm mà nhận định ? Chàng chỉ biết là mình luyện không ngừng, thỉnh thoảng lại ức độ thời gian cho có một ý thức vậy thôi.
Qua một thời gian không rõ là bao nhiêu đến bao nhiêu ngày, Độc Cô Thanh Tùng nghe trong người ấm áp lạ thường. Chiếc giường đen lạnh chàng đang nằm không còn gây khó chịu nữa, trái lại nó ấm áp như nệm thúy trong điện ngọc cung vàng.
Rồi dần dần, chàng cảm thấy khí huyết lúc bình thản, lúc sôi trào trong chốc lát rồi lắng dịu trở lại. Những lúc khí huyết sôi trào, chàng ngưng luyện, đợi khi lắng dịu, chàng tiếp tục trở lại.
Bỗng một hôm, chàng nhìn đến thân hình, thấy trong như pha lê, chàng kinh hãi, đưa một cánh tay lên ngang tầm mắt nhìn kỹ. Chàng càng kinh hãi hơn nữa khi nhìn rõ những vật bên kia cánh tay, xuyên qua làn da thịt.
Chàng thầm nghĩ :
"Mình luyện thành Hoá Huyết Thành Công rồi sao ? Có lẽ nào một môn kỳ công tuyệt học như vậy mà mình có thể luyện thành một cách dễ dàng và nhanh chóng? Xưa cần phải có một thời gian xuýt soát trăm năm, Vưu Hồi mới luyện được thân hình thành Huyết Ảnh, còn mình bất quá chỉ có mấy hôm thôi lại đạt được kết quả phi thường ?
Chàng không tin là mình thành công quá nhanh chóng và quá dễ như vậy !
Chàng có biết đâu, nhờ những cuộc kỳ ngộ, chàng vượt tiến hết sức nhanh chóng, gần như có sự nhiệm màu giúp sức. Thành ra cái căn cơ tạo tựu nơi chàng ngang bằng với những bậc tu ví hàng trăm năm dài đăng đẳng. Bằng vào căn cơ đó, chàng có thể luyện một kỳ công , thu lượm kết quả trong năm mười hôm, hoặc một vài tháng, trong khi những cao thủ khác phải cần hàng năm mười năm, hai ba mươi năm mới đạt mức hỏa hầu.
Ở đây, về Huyết Ảnh công, chàng thành tựu sớm là một phần nhờ nơi căn cơ, phần khác nhờ bí quyết chân truyền, không như Vạn Cực Đế Quân chỉ lượm lặt một vài hiểu biết truyền thuyết, dù vậy, lão vẫn luyện được một công lực lợi hại, tuy không đạt tới tuyệt đỉnh như chàng.
Cái kết quả thân hình biến thành Huyết Ảnh đã quá hiển nhiên, chàng không muốn tin cũng phải tin.
Chàng không dằn được niềm thích thú dâng tràn, reo lên :
- Độc Cô Thanh Tùng ! Độc Cô Thanh Tùng ! Ngươi là Chưởng môn nhân đời thứ ba của Quỷ Phủ ! Ngươi là đồ đệ của Địa Tướng ! Ngươi là truyền nhân của Thần Phong Đại Đế ! Độc Cô Thanh Tùng ! Bây giờ ngươi luyện Hoá Huyết công, ngươi sẽ là Cung Chủ Huyết Ảnh Cung nữa à ?
Chàng lại lắc đầu thầm nghĩ :
"Mình sẽ là truyền nhân của Huyết Ảnh Tử Vưu Hồi sao ? Xưa kia, Vưu Hồi luyện thành Huyết Ảnh, giết người hàng ngàn hàng vạn, trở thành kẻ thù công cộng của toàn thể võ lâm. Nếu mình thành một truyền nhân của Vưu Hồi, chẳng những mình thừa kế một tà công mà mình còn thừa kế luôn mối thù công cộng trên giang hồ. Mình có chịu như vậy không ? Thanh danh mình còn gì ? Từ bao lâu rồi, võ lâm chánh phái đặt kỳ vọng vào mình, giờ mình gây nên sự công phẫn cho toàn thể không ?
Chàng cương quyết :
- Không ? Ta không cần luyện Hoá Huyết Thần Công nữa ! Ta không muốn làm truyền nhân của Vưu Hồi, ta rất sợ anh hùng hào kiệt quy oán về ta !
Chàng nắm chặt hai tay, gằn giọng :
- Không ! Độc Cô Thanh Tùng ! Ngươi không được tiếp tục luyện nữa !
Chàng nghĩ nếu mình là một truyền nhân của Huyết Ảnh Tử Vưu Hồi thì mặt mũi nào trở lại Quỷ Phủ Âm Cung ? Mình còn mặt mũi nào nhìn Địa Tướng ? Cũng như chàng sẽ ăn nói làm sao với Công Chúa tại Đế Cốc ?
Luyện Hoá Hyết Công là chàng mất hết những người thân, chàng cắt liên lạc với dĩ vãng để trở thành một con người mới, con người vô sĩ không hơn không kém !
Chàng quyết định bỏ luôn, không cần luyện tiếp, mặc dù kết quả hết sức tốt đẹp rồi ! Bất quá chàng chỉ cần kiểm soát để sửa chữa một vài sơ hở là chàng hoàn toàn đạt mức hoa? thần, chàng sẽ thành công ngang với Huyết Ảnh Tử Vưu Hồi.
Theo quyết định đó, chàng ngưng luyện thiệt sự, chàng vung tay làm một cử động cho đỡ bải hoải, bất giác chàng quơ nhằm xác của Thánh Kiếm Vũ Sĩ.
Chàng nhớ đến cái chết của cha, chàng nhớ tới cảnh lao lung của Mẹ chàng nhớ đến cái khổ cho các vị thúc bá , rồi chàng nhớ đến thực tại mình cũng bị cảnh tù cấm, không hy vọng gì thoát khỏi.
Chỉ còn một cách duy nhất là chàng phải luyện Hoá Huyết Công để biến mình thành cái bóng mà không có thể chất, có như vậy mới thoát khỏi Minh Thất này được.
Hữu hình, vô thể.!
Mấy tiếng đó cứ lởn vởn trong đầu chàng mãi, khiến chàng do dự sự quyết định vừa rồi không còn vững chắc nữa !
Luận theo đạo nghĩa, chàng không nên tiếp tục luyện Hoá Huyết Công nữa.
Nhưng biến phải quyền, côn gviệc cứu người cũng là một khía cạnh từ bi bác ái , huống chi sự bác ái đó còn gồm hiếu và nghĩa.
Chàng đắn đo mãi, lúc thì muốn bỏ, lúc lại thấy cần tiếp tục, ngã bên nào chàng cũng có lý vững chắc, chàng bị nhồi giữa cái mâu thuẫn đang xáo trộn tâm tư chàng.
Cuối cùng, bản năng tự tồn chiến thắng mọi tạp niệm, ý chí cứu người lấn áp mọi thắc mắc, chàng nhủ thầm :
- Luyện Hoá Huyết Công, cốt yếu thoát khỏi nơi đây hoàn thành bao nhiệm vụ, khi hành hiệp trên giang hồ, ta đừng sử dụng nó để hành động phi nghĩa, như vậy có gì đáng tội đâu ? Ngày xưa, Huyết Ảnh Tử Vưu Hồi dùng nó để giết người , ngày nay ta dùng nó cứu người, như vậy còn ai trách ta được ?
Rồi chàng cương quyết tiếp tục luyện.
Không bao lâu sau, chàng đạt tới mức hỏa hầu. Mỗi khi vận khởi Hoá Huyết Thần Công, thân hình biến thành cái bóng màu thể chất tan mất trong không gian, chàng xê dịch như bóng ma hình quỷ, ẩn hiện khôn lường.
Biến được thành bóng màu, chàng nghĩ đến việc thoát đi, bóng chàng chỉ thoát một mình, không làm sao mang xác Thánh Kiếm Vũ Sĩ theo. Chàng ngậm ngùi ôm xác cha. Mắt nhoà lệ thảm, lưu luyến một lúc đoạn xuống thang, chui mình vào nước theo đường hang trở lại Minh Đầm, bay lên miệng hố, vượt