Tôi sinh ra ở Nha Trang, một thành phố biển xinh xắn nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ.
Những năm đầu đời, tôi sống cùng với bà nội ở tận ngoại ô thành phố.
Mãi cho đến khi chập chững biết đi, tôi mới được đón về ở cùng với ba mẹ.
Tôi là con út trong một gia đình có năm người con, có ba anh trai và một chị gái.
Chị gái duy nhất của tôi là con thứ tư của ba mẹ, ngay trước tôi.
Ba tôi đặt tên cho các anh chị lần lượt là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí.
Chị tôi không thích cái tên của mình lắm bởi hay bị bạn bè trêu chọc là giống tên con trai.
Tuy nhiên, khi ở nhà, chị được gọi bằng cái tên nữ tính hơn là "Nhã".
Nhưng xét cho cùng, tính cách chị giống con trai thật.
Bọn con trai trong xóm chẳng đứa nào đánh nhau lại chị, và suốt những năm tiểu học chị cũng được xem là đầu gấu trong trường (tôi nghe mấy anh chị trong xóm gọi thế).
Mặc dù vậy, chị lại rất dịu dàng với tôi, thật biết ơn ông trời vì điều đó.
Còn tôi, tôi không được đi học mẫu giáo mà chỉ quanh quẩn ở nhà suốt ngày.
Các anh chị luân phiên nhau trông chừng tôi, nhưng chỉ có chị Nhã là quan tâm đến tôi nhất.
Chị giống như một bảo mẫu nhí luôn có mặt mỗi khi tôi cần, vì thế mà tôi cảm thấy gần gũi chị hơn là với các anh.
Trước khi có chúng tôi, ba mẹ sống với nhau trên một cái rẫy nhỏ ở phía bắc huyện Cam Lâm, cách nơi tôi đang ở khoảng hơn một tiếng đi xe máy.
Kể từ khi có anh Hai, ba mẹ mới quyết định chuyển về Nha Trang sinh sống, tiện cho việc học tập của chúng tôi sau này và nhiều việc khác nữa.
Ngôi nhà của chúng tôi nằm trong một con hẻm nhỏ chỉ đủ một chiếc xe máy đi qua, trên một con đường nhỏ giữa lòng thành phố nhỏ bé ấy.
Chúng tôi sống giữa những bức tường được xây bằng gạch nung, bên ngoài phủ từng mảng rêu màu xanh đen, còn bên trong thì được quét sơ qua một lớp vôi trắng.
Những chiếc cửa bằng gỗ đã ít nhiều mục nát vì những năm tháng dầm mưa dãi nắng, luôn phát ra những tiếng kêu cót két khi mở ra hay đóng vào.
Mái nhà chỉ là vài tấm tôn cũ xếp chồng lên nhau, đầy lỗ thủng và những vết rỉ sét.
Khi trời sáng, nắng có thể xuyên qua những cái lỗ ấy, và khi trời mưa, những giọt nước sẽ không ngừng rơi xuống.
Kế bên nhà tôi là một cái giếng nước trong, cả xóm đều dùng nước ở đó để sinh hoạt.
Nhưng kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi về cái giếng là những ngày trời mưa, anh Tư tôi xách những gàu nước đầy rồi xối ào xuống đầu tôi để tắm.
Cuộc sống của chúng tôi khi ấy thiếu thốn đủ thứ chứ không được như bây giờ.
Mặc dù ba mẹ đã cố gắng rất nhiều nhưng hai anh đầu của tôi vẫn phải nghỉ học sớm để phụ giúp gia đình.
Tuy nhiên, mái ấm nhỏ bé ấy của chúng tôi vẫn luôn đầy ắp tiếng cười.
Trong mắt tôi, ba tôi là một người rất tài giỏi, vì ông biết làm rất nhiều nghề khác nhau.
Ông là một thợ mộc khéo tay, khi tất cả những cái bàn, cái tủ trong nhà đều do ông đóng, kể cả cái bàn học liền với cái ghế mà các anh chị đã thay phiên nhau sử dụng.
Ông là một thợ điện đầy kinh nghiệm, có thể sửa bất kỳ cái công tắc hay ổ cắm nào bị hư, và đèn nhà chúng tôi lúc nào cũng sáng, trừ khi bị mất điện.
Ông là một thợ sửa xe chăm chỉ, luôn tự sửa chữa mọi thứ bị hư hỏng trên chiếc xe đạp của mẹ, hoặc trên chiếc xe máy của chính mình.
Ông là một đầu bếp giỏi giang, luôn nấu các bữa ăn cho cả nhà mỗi khi có thời gian rảnh, và các món ăn ông nấu còn ngon hơn của mẹ tôi.
Ông là một thợ may tỉ mỉ, khi có thể may được những bộ quần áo rất đẹp và vừa vặn cho các anh chị và tôi.
Ông cũng là một tài xế tận tụy, luôn thức dậy thật sớm để đưa mẹ tôi đi chợ, và đến trưa hoặc chiều muộn thì lại đưa bà về.
Tuy nhiên, nghề duy nhất ông làm để kiếm tiền là nghề nông, cái nghề mà ai cũng cho là quê mùa trong thời kỳ mà mọi thứ đang hiện đại hóa và công nghiệp hóa.
Ông thường lên rẫy để coi sóc những cái cây của mình, vài tháng mới về nhà một lần.
Mỗi khi về nhà, ông đều chở theo đầy những trái xoài ngon lành.
Mẹ tôi thì đơn giản hơn ba tôi, bà chỉ buôn bán nhỏ ở chợ Xóm Mới.
Bà thường dậy rất sớm đi chợ và tới tận chập tối mới về.
Mỗi khi ba tôi ngủ quên hoặc đang ở trong rẫy, bà lại tự đi ra chợ bằng chiếc xe đạp cũ của mình.
Thỉnh thoảng vào buổi trưa, bà có ghé về nhà ăn cơm, sau đó lại đi.
Cũng bởi mẹ tôi đi chợ sớm như vậy nên mỗi khi tôi ngủ dậy thì bà đã không còn ở nhà.
Và như bao đứa trẻ khác, tôi lại khóc rất to để đòi mẹ.
Tôi không thể không ngủ vào buổi tối, nhưng không dám ngủ trưa vì sợ khi thức dậy lại không thấy mẹ đâu.
Thế mà tôi lại hay bị bắt phải ngủ trưa, dù chẳng thể nào ngủ được.
Mỗi lần mẹ định đi chợ sau khi tôi đã "ngủ", tôi đều bật dậy và đòi đi theo.
Khi ấy, bà luôn an ủi và hứa sẽ mua kẹo cho, điều đó khiến tôi trở nên ngoan ngoãn nghe lời ngay lập tức.
Tuy nhiên, chẳng bao giờ bà nhớ đến việc mua kẹo cho tôi cả.
Một hôm, không biết bằng cách nào đó mà tôi có thể ngủ trưa được.
Và khi thức dậy, tôi không thấy mẹ đâu.
Tôi bắt đầu khóc, khóc to đến nỗi cả xóm ai cũng nghe thấy.
Tôi ngồi trên giường, đạp đạp hai chân làm cho chiếc giường yếu ớt kêu lên tiếng cọt kẹt và tôi gào to gọi mẹ, nước mắt nước mũi chảy xuống ướt cả áo.
Chị Nhã dỗ mãi mà tôi chẳng nín.
Chị ấy mua kem cho tôi cũng không làm tôi ngừng khóc được.
Cho đến khi chị bảo sẽ dẫn tôi đi tìm mẹ thì tôi mới ngưng tiếng rống của mình lại.
Tôi gật đầu và dụi dụi mắt nhìn chị, tiếng sụt sịt không ngừng phát ra từ trong mũi.
Hôm ấy, trời nắng rất to, chị đội cho tôi chiếc nón màu cam nhạt của chị rồi bế tôi ra khỏi cái xóm nhỏ, nơi mà tôi chưa từng rời đi nửa bước kể từ khi về ở với ba mẹ.
Lúc đó, hình như chị mới học lớp Hai, còn tôi thì chưa được ba tuổi.
Người chị rất gầy, và mỗi khi chị ẵm tôi thì mọi người lại trêu là trông giống như con chuột đang