Cảnh tượng trước mặt Tang dừng lại và biến thành một bức họa, trong đó Ất bà bà cùng một đứa nhỏ giống Giang Tân như đúc nhưng tên là Tiểu Nhị đang đứng ở trung tâm.
Lúc sau bức họa này run lên và kịch liệt lùi về sau hóa thành một chấm đen ở chân trời.
Mà cùng lúc đó trước mặt Tang xuất hiện một hình ảnh khác, trong đó Ất bà bà lại già hơn một chút, hiện tại bà ta đã không khác gì bộ dạng trong tranh tết.
Bà ta béo hơn, cũng hơi trắng ra, tuy khóe mắt và đuôi lông mày lại nhiều thêm mấy nếp nhăn nhưng thần khí thì tốt hơn trước nhiều.
Lúc trước tuy bà ta cười nhưng có thể nhìn ra tươi cười ấy thực miễn cưỡng, trong lòng rõ ràng là đang rối rắm nhưng vẫn phải cố cười.
Còn lúc này tươi cười kia trong sáng, giống như ánh dương ấm áp ngày thu, tưới xuống mảnh đất tươi đẹp này.
Quả bông già đã mọc ra rồi, chúng to như cái màn thầu, mỗi cây đều có mười mấy quả, khi gió thổi qua chúng nặng trĩu đong đưa.
“Ất bà bà xem, quả bông già đều mọc ra rồi, chúng ta đã có thể may khăn tay, dệt vải bông, làm áo bông.
Về sau tới mùa đông sẽ không sợ phải ra cửa nữa.” Tiểu nhị cũng trưởng thành hơn một chút, hiện tại hắn chừng 10 tuổi, xấp xỉ tuổi Giang Tân, hai người đúng như một khuôn mẫu khắc ra.
Ất bà bà nhìn hắn, “Sao có thể dễ dàng như ngươi nghĩ thế được.
Lúc này còn phải bỏ hạt, xe sợi, tất cả đều phí sức……”
Tiểu Nhị cười hì hì nói, “Ta đã thấy rồi, bà biết hết.
Chỉ cần có bà ở đây thì không có núi cao nào không thể qua.
Nhưng Ất bà bà, một thân bản lĩnh của bà học được từ đâu thế?”
“40 năm dài như thế luôn phải làm cái gì đó mới được,” Ất bà bà xoa đầu đứa nhỏ, tóc hắn thực mềm, giống như mũ lông dê, “Sau khi tới Nhai Châu ta phát hiện dân bản địa không nuôi tằm, không trồng gai nhưng lại mặc một loại vải dệt ta chưa thấy bao giờ.
Nó mềm hơn vải gai, lại giữ ấm tốt hơn tơ lụa.
Sau đó ta mới biết đó là bông, những quả cầu trắng mọc khắp núi đồi chính là bông.
Thứ cây này không cần nhiều công chăm sóc nhưng lại có tác dụng lớn.
Nó vừa không đắt lại có thể chống lạnh, phải nói là cực kỳ tốt.
Ta còn phát hiện ở đó mặc kệ là nam nữ hay già trẻ đều biết xe chỉ và dệt vải, hàng dệt của bọn họ thủ công tinh tế, sắc thái đa dạng, nghe nói là cống phẩm cho hoàng đế.”
“Sau đó ta theo bọn họ học được cách trồng bông, thu hoạch và dệt vải.
Dân bản xứ nhiệt tình lại cẩn thận cho nên ta nhanh chóng quen thuộc những kỹ thuật ấy.
Chẳng qua Nhai Châu thời tiết nóng bức, vào đông chỉ cần mặc một cái áo đơn cũng đủ chống lạnh…… Ta nghĩ tới mùa đông ở quê nhà, nghĩ tới đêm đông ta bị nhốt ở ngoài cửa.
Ta nghĩ nếu ngày đó có một cái áo bông thì hẳn ta cũng không bị lạnh đến tàn nhẫn như thế.
Vì vậy ta làm một cái áo bông, bên trong nhét đầy bông rắn chắc.
Đúng như ta nghĩ, nó mềm mại nhẹ nhàng lại giữ ấm, so với bất kỳ cái áo khoác nào ta mặc trước đây đều thoải mái hơn.
Nhưng cũng trong một khắc ấy ta biết mình nhớ nhà.
Nỗi nhớ nhung ấy thấm vào cốt nhục khó mà hủy diệt.
Dù nơi này mang tới cho ta những hồi ức như ác mộng còn Nhai Châu bốn mùa đều có ánh mặt trời thì ta vẫn muốn trở lại đây.”
“Nhưng ta biết về nhà chỉ là một niệm tưởng xa vời, những phạm nhân cùng bị lưu đày tới Nhai Châu như ta cách vài năm sẽ có người được ân xá trở về nhưng trong danh sách ấy trước sau không có ta.
Quan chủ quản nói rằng với tình huống của ta không bị phán tử hình đã là trời cao rủ lòng thương nên đừng vọng tưởng làm gì.
Nhưng lời này không những chẳng thể dập tắt ngọn lửa trong lòng ta mà ngược lại nó càng khơi dậy chút phản nghịch trong đó.
Ta biết mình phải về, nhất định phải về.”
“Ta giả vờ bị ngã xuống từ vách núi, để bọn họ nghĩ ta đã chết.
Vào