Tôi nắm song sắt cửa sổ, bần thần nhìn ra ngoài.
Trời đã hửng nắng từ bao giờ, đổ dài xuống mảnh vườn héo quắt những dải sáng lấp lánh sắc vàng.
Đám mây lững lờ phía góc trời im lìm, lớp dày nối lớp mỏng nhuộm màu đỏ tươi.
Màn sương trắng xóa phủ lấy rặng non xanh cao, phủ lấy tầng tầng ngói gạch ngay nơi nhà người.
Chớp mắt, một ngày mới lại đến.
Sáng sớm, từng đợt gió rét ùa vào phòng, xộc thẳng vào khí quản, như lưỡi dao sắc nhọn cứa trên da thịt.
Tôi rùng mình, kéo màn và cài kín cửa sổ, sau đó xuống giường mang giày.
Múc từng gáo nước trong gầu đổ vào chậu gỗ, tôi chia ra hai đợt đổi nước.
Đợt đầu là cho lần rửa mặt cùng súc miệng, đợt hai là nhúng ướt khăn lau người.
Vì thuận tiện cho việc tắm rửa nên ngày nào tôi cũng chịu khó ra giếng lấy nước về để sẵn trong phòng.
Sau khi dùng xong, tôi lại đem chỗ nước dơ ấy ra phía sau vườn xử lí.
Kể ra cũng không dễ dàng gì.
Nhất là khi trời đột ngột chuyển lạnh và kéo dài liên tiếp nhiều đêm.
Nhớ lúc đó, mặt tôi trắng bệch, chân tay sưng đỏ đến độ run rẩy, sống lưng ê ẩm đau nhói.
Nhưng nghĩ đến thân thể mệt mỏi của mình được ngâm trong nước, được khăn ướt chà rửa sạch sẽ thì dù vất vả đến mấy cũng thấy đáng giá.
Giờ này vẫn còn sớm, tôi tranh thủ làm cho xong mấy việc vặt khác, như gấp chăn gối, giặt giũ quần áo, quét tước từ trong đến ngoài một lượt.
Ổn thỏa đâu đó hết rồi, tôi mới có thời giờ rảnh rỗi ngồi xuống chăm chút bản thân.
Bắt đầu từ đôi môi sưng to cần được bôi thuốc, tiếp đến chải gọn mái tóc khô cứng, cuối cùng là thoa một lớp bột đặc sệt lên quầng thâm mắt và hai bên gò má bị thâm sạm.
Trời lạnh thì da dẻ thô ráp, nứt nẻ.
Trời nóng thì da dẻ sưng đỏ, ngứa ngáy.
Khổ hết biết.
Tôi khoác thêm áo lông, tay xách gầu nước ra khỏi phòng, theo thói quen, tôi ngó mắt sang phòng bên cạnh.
Cửa lớn, cửa nhỏ vẫn đóng chặt.
Ba anh nhà kia hẳn còn chưa dậy.
Lại chuyển tầm mắt qua gian nhà chính phía đối diện.
Cửa giữa mở toang hai bên, thấp thoáng ánh đèn yếu ớt chỉ vừa đủ chiếu sáng một góc phía trong.
Một góc rộng bao quát còn lại thì nghiêng hẳn trong bóng tối.
Giống như bao người khách trọ, phạm vi hoạt động của tôi chỉ được quanh quẩn ở nơi gia chủ cho phép.
Và nơi duy nhất tôi không được phép bén mảng đến gần, dù chỉ nửa bước chân, chính là gian nhà chính đối diện – nơi ở của chị Xuân và lão chủ quán khó tính.
Đến tận giờ, tôi vẫn ghi nhớ lời cảnh cáo của Xuân: Lão ghét cay ghét đắng mấy kẻ lạ mặt hay tự tiện đi vào đó.
Nếu để lão phát hiện, chỉ đuổi thẳng cổ là còn nhẹ.
Điều làm tôi hiếu kì, lão ta sẽ làm gì nặng hơn với những người lỡ đi vào đó? Liệu còn gì đáng sợ hơn việc bị đuổi ra ngoài nhỉ?
Có một lần không nhịn được, tôi đã hỏi Xuân về thắc mắc của mình.
Kết quả, thay vì nghiêm túc trả lời, thị chỉ nhìn tôi rồi cười nhạt.
Nom thế nào, cũng thấy nụ cười ấy có vẻ là lạ… Nhưng thị đã không muốn nói thì tôi không tiện hỏi thêm.
Dẫu thi thoảng, bụng dạ vẫn liên tục cồn cào khó chịu vì tò mò.
Không nghĩ đến thì thôi, vừa nghĩ đến là khắp người lại bồn chồn không yên.
Thầy dạy, làm người thường nên biết an phận, hỏi ít nhưng phải hiểu nhiều, đừng hỏi nhiều mà hiểu ít.
Từ xưa đến nay, lẽ đời vẫn khuyên răn, dốt nát tìm thầy, bóng bẩy tìm thợ [6].
Thật tình, không phải không muốn nghe.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Vấn đề ở chỗ, những lời này hoàn toàn vượt ngoài khả năng lí giải cùng tầm hiểu biết hạn hẹp của tôi.
Nói cho cùng, bản thân hỏi ít mà vẫn chỉ hiểu ít đấy thôi.
Có lẽ, giống với câu ngu như lợn, dốt như bò, người ta vẫn thường đem ra chì chiết nhau.
Trong tiếng thở dài não nề, tôi xách gầu múc nước đã rửa sạch đi vào bếp.
Không ngoài dự đoán, lão già quái gở kia đang nằm ngủ trên sập.
Cái tướng ngủ của lão ta xấu thậm tệ! Miệng há to, nước dãi chảy xuống cổ áo, chân và tay trái buông thõng xuống sập.
Tấm chăn nhàu nát bị lão vứt thẳng dưới đất, mặt trên toàn vết ố đen và dầu mỡ dính vào.
Chắc hẳn đêm qua, lão ta lại chạy vào đây ăn vụng nên chén đĩa dơ mới chồng chất cao như núi thế kia.
Rồi đến mấy thứ khác trong bếp cũng bị ném vứt lung tung.
Nhìn mà hoảng hồn phát khiếp [7].
Tôi cuộn tấm chăn bỏ vào cái sọt trong góc bếp, định khi nào trời nắng sẽ đem ra sân giặt giúp lão.
Dòm xuống bãi rác bừa bộn dưới chân, quả thật ngán đến tận cổ.
Tôi xắn cao tay áo, bắt đầu dọn dẹp.
Làm xong những việc này còn phải nhanh chóng nấu bữa sáng cho kịp giờ.
Không biết từ bao giờ, việc chuẩn bị cơm nước hay chuyện dọn dẹp nhà cửa hàng ngày đều do một tay tôi phụ trách.
Lão chủ quán như kẻ dại kẻ điên.
Người hầu duy nhất ở quán lại thường xuyên đi vắng.
Còn ba anh em kia, tay chân vụng về hệt như nhau, động vào đâu bể đổ đến đó.
Tôi mà không gắng sức làm thì có nước chết đói cả đám mất.
Rửa xong chén đĩa, tôi xếp ngay ngắn trên chạn.
Vừa quay đầu, đã thấy lão ấy ngồi dựa vào tường, lườm tôi lom lom.
“Cháo của tao đâu? Rượu ngon của tao đâu?”
“Ông phải đi tắm đàng hoàng thì mới có cháo để ăn, có rượu ngon để uống.”
“Phiền phức quá! Áo quần còn thơm tho, tắm làm gì!” Lão ngúng nguẩy không chịu, miệng mếu máo chực khóc.
“Biết cả rồi.
Vậy mà mày lại chê tao.
Chê tao thằng già lọm khọm, người bẩn thỉu tanh tưởi, máu nghèo, máu hèn ngấm trong xương tủy.”
Nghe lão nói vậy, tôi không khỏi rối rắm nhìn xuống ống quần rách nát, lấm lem bùn của mình, thầm so sánh hoàn cảnh hai bên.
Chí ít, ông còn nhà cửa đàng hoàng, dù bề ngoài trông hơi tồi tàn.
Bên cạnh có người hầu tận tụy chăm sóc, dù trông người nọ không mấy đáng tin cho lắm.
Chí ít, hàng ngày ông vẫn có cơm ăn, có nước uống.
Nghĩ thế nào, cũng thấy tốt hơn tôi nhiều.
Lão gối đầu lên cánh tay, lim dim đôi mắt mơ màng.
Tôi sợ lão lại ngủ thiếp mất nên cố gắng kéo người đứng dậy.
Đồng thời giở hết mánh khóe cùng chiêu trò, dụ lão ta ngoan ngoãn đi tắm.
Tôi phải nói mải, nói hoài, nói đến khàn cả giọng mới xem như thành công.
Nhân lúc không có ai ở đây làm phiền, tôi tiếp tục việc nấu nướng còn dang dở: Vo gạo, luộc khoai, lặt rau, nhào bột… Loay hoay cả buổi, bận rộn không nghỉ tay.
Mặt trời đã lên cao, ánh nắng ấm áp chiếu qua cửa sổ, hằn trên vai tôi mấy vệt sáng mờ ảo.
Tôi nghe tiếng bước chân dồn dập vọng ra từ phía ngoài chái bếp, sau đó lại nghe thấy tiếng vải vóc cọ xát, tiếng nước chảy ào ào không dứt.
Ắt hẳn ba anh nhà kia đã thức dậy, đang tắm rửa trong sân.
Ngoài đó có lu nước lớn, vài cái gáo múc treo trên cành cây.
Ba người sẽ đứng chen chúc cạnh lu nước đầy.
Cứ vậy, anh một gáo, em một gáo giội xuống người.
Đúng lúc này, nồi cháo khoai cũng vừa chín tới.
Tôi múc ra bốn cái bát lớn, rắc lên bề mặt một tí tiêu, hành khô và mắm tép.
Tiếp đó, mới chuyển qua xem nồi bánh hấp nóng hổi ở kế bên.
Những chiếc bánh bột nếp tròn vo, dẻo mềm, được xếp gói cẩn thận trong lớp lá chuối xanh mởn.
Một lát nữa, cả tôi và anh em Sa Vũ đều phải ra ngoài, có khi đến tối mịt mới trở về.
Cho nên, bữa trưa có thể thiếu, hoặc không cần ăn.
Nhưng bữa sáng, tuyệt đối không thể qua loa.
Khi ba người bước vào, tôi đã dọn sẵn mọi thứ lên mâm đồng.
Người họ ướt sũng, đi chân trần, chỉ mặc độc chiếc quần dài bạc màu.
Sa Vũ hí hửng trèo lên sập ngồi, với lấy đôi đũa trong mâm theo thói quen.
Tôi nhăn mặt, lập tức bước tới giật lại: “Đã dặn anh bao nhiêu lần rồi, phải đợi tôi bưng cháo lên nhà chính rồi mới được ăn kia mà?”
“Chà, tôi quên mất.” Anh ta ngượng ngùng gãi đầu.
“Cậu Thanh cứ yên tâm, trong lúc chờ cậu về, anh em tôi không ăn vụng đâu.” Sa Bình vỗ lồng ngực, miệng cười chắc mẩm.
Yên tâm mới lạ ấy.
Tôi chửi thầm trong lòng.
Sức ăn của mấy người như hổ như sói, làm gì có chuyện chỉ ăn vụng vài miếng nhỏ là thôi.
Vét sạch nồi, thừa mỗi cặn nước dưới đáy, đến khi không còn gì để bỏ vào bụng nữa, lại quay sang ỉ eo trách móc.
Tôi đặt bát cháo, đĩa bánh nếp và bình rượu nóng lên cái khay đựng, sau đó từ tốn bưng đến nhà chính.
Tôi không dám đi vào nên đành đặt khay xuống đất, lắc chiếc chuông nhỏ buộc trên cành cây, như lời Xuân căn dặn, mỗi khi đem đồ ăn đến.
Thị bảo, lão già nhà thị chẳng bao giờ dùng bữa cùng người khác, lão chỉ thích ăn riêng trong phòng.
Trong bếp, Sa Vũ, Sa Minh đang cầm lấy cái bát rỗng, đứng thập thò bên nồi cháo.
Còn Sa Bình, dáng ngồi trên sập thật thảnh thơi làm sao, và cái bát trong tay cậu ta chỉ còn chút nước dưới đáy.
Vừa bước vào, thấy cảnh này tôi không khỏi ngán ngẩm, quả nhiên họ xem lời của tôi nói như gió thoảng bên tai mà!
…
Cháo sánh đặc có màu vàng nhạt êm mắt, trên bề mặt rắc hành khô và mắm tép là những miếng khoai lang tươi được xắt nhỏ.
Mấy chiếc bánh bột nếp nắn tròn vo, lớp vỏ mỏng bên ngoài vừa dẻo lại vừa mềm.
Khi ăn rưới lên một ít nước mắm đường trộn giấm, hương vị đọng trong miệng càng thêm đậm đà.
Bữa sáng đầy đủ dinh dưỡng, ai cũng ăn no đến căng bụng.
Lúc này, trong đĩa còn mỗi một miếng bánh nếp cắt đôi.
Ba người phía đối diện bắt đầu lườm nguýt nảy lửa, nhào tới, giành giật kịch liệt.
Tôi húp vài ngụm nước ấm trong chén cho ấm người, không để tâm lắm đến cuộc chiến tương tàn trước mắt.
Cuối cùng, miếng bánh béo bở còn sót lại thuộc về Sa Vũ – người to con và khỏe nhất trong đám.
Sa Minh chỉ giật được nửa miếng bé xíu, đành ngậm ngùi ăn hết bát cơm cháy còn thừa hôm qua.
Sa Bình chợt buông đũa, hỏi tôi về Hiền.
Việc tìm kiếm đến đâu rồi? Dạo này có tin tức mới không? Anh ấy còn xuất hiện chăng?
Mỗi một câu hỏi của cậu ta, tôi đều lắc đầu thay cho câu trả lời.
Và mỗi một lần lắc đầu, lòng tôi lại càng lạnh lẽo.
“Đúng là mò kim đáy biển [8].
Tôi thấy cậu Thanh bỏ cuộc đi là vừa, tìm suốt ba tháng rồi nhưng có ít lợi gì đâu.”
Lần nào nghe tôi nhắc đến việc tìm Hiền, Sa Vũ lại bày ra vẻ mặt đầy cau có, liếc nhìn tôi như một đứa ngốc toàn thích làm chuyện vô bổ.
Tôi không giận, nhưng lại bất lực.
Ba tháng trời ròng rã tìm kiếm, nếu giờ phải từ bỏ thì làm sao cam tâm.
“Manh mối về người này quá ít ỏi, đa phần còn là nghe ngóng được từ miệng dân làng, sự thật đúng sai thế nào ai mà rõ đâu.” Sa Bình đặt chén nước xuống mâm, ngón tay gõ nhịp nhàng trên đùi.
“Thái Hiền – cậu học trò nổi tiếng là tài hoa hơn người ở làng Ngọc Lĩnh.
Thuở lên năm, cha mẹ không may mất sớm.
Từ ấy, anh ta và anh trai mình sống nương tựa vào nhau.
Hai năm trước, anh trai Hiền – Thái Hà đột ngột qua đời vì bệnh nặng.
Một khoảng thời gian sau, đến cô Huệ – chị dâu anh ta cũng mắc bệnh lạ không thuốc nào trị khỏi.
Cụ thể là bệnh gì thì không một ai trong làng này biết cả.
Năm ngoái, trước sự ngỡ ngàng của bao người, thị bỗng dưng mất tích.
Bốn tháng sau đó, Hiền cũng bặt tăm, tới nay sống chết không rõ.”
Sa Bình vuốt cằm đăm chiêu: “Có người nói Hiền đã đến nơi khác sinh sống, hoặc đã giã từ cõi đời này từ lâu rồi.
Tuy nhiên, một tháng sau khi đến làng Ngọc Lĩnh, cậu Thanh đã thấy Hiền…”
“Đúng là vậy mà!” Tôi gật gù.
“Lúc đi ngang qua cánh rừng chồi sau quán trọ, tôi đã thấy Hiền.
Anh ấy đứng trên một ngọn đồi đá, mắt hướng về phía tôi.
Rồi thình lình biến mất như một làn khói.
Dù lúc đó khoảng cách tương đối xa, nhưng tôi có thể khẳng định, chính là anh ấy, không thể nào sai được.”
“Khoan đã…” Nhón miếng cơm cháy giòn rụm trong bát bỏ vào miệng, Sa Minh hỏi với điều thắc mắc.
“Nhìn từ khoảng cách xa như vậy, làm sao cậu Thanh biết là ai với ai? Nói không chừng vì quá nhớ nhung người ta nên cậu mới hoa mắt, tự mình suy diễn lung tung đó chứ.”
“Không thể nào! Tôi tin vào linh cảm đã mách bảo với mình.
Linh cảm bảo rằng là Hiền thì chắc chắn phải có nguyên do.” Tôi lập tức phản bác.
“Thôi, cậu Thanh đã nói vậy thì cứ tin vậy đi.
Người sống trên đời vốn nên lạc quan, huyễn hoặc một tí thì có làm sao.”
Sa Bình nói xong liền nhếch mép cười với tôi.
Một nụ cười vô tội mang ý đùa cợt rất rõ ràng.
Họ không tin những gì tôi kể.
Tôi có thể nhận thấy thông qua ánh mắt và biểu cảm trên mặt ba người.
Đến cả lời an ủi nhỏ nhặt nghe cũng giống như đang châm chọc vậy.
“Chẳng hiểu sao cậu toàn thích làm mấy chuyện vô ích.” Bước xuống sập xỏ giày, Sa Vũ lầm bầm mấy câu chê trách.
Rồi khi ra đến cửa, anh ta lại lớn tiếng cằn nhằn.
“Hai đứa mày tính ở lì đó đến bây giờ? Nhanh chân lên, heo bò hay gì mà lề mề mãi!”
“Lát nữa cậu Thanh có đến quán nước không?” Sa Minh đột ngột hỏi.
Tôi gật đầu: “Đi chứ.
Có lần nào vào chợ mà tôi không ghé qua đó ngồi đâu.”
“Nay bận việc nên tôi không thể đến đó với cậu.
Tiếc thật ấy.
Nói thế nào thì đi cùng bạn bè vẫn vui hơn mà.” Cậu ta ôm mặt rầu rĩ.
“Mồm mép của mày chỉ giỏi nói ngon nói ngọt, tốt lành gì đòi đi theo.” Sa Bình nhướng lông mày, ý cười sâu hằn đáy mắt.
“Mục đích mày đến đó còn không phải lén lút nhìn trộm con gái nhà người ta à? Mặt có dày cũng vừa phải thôi.”
“Gớm, anh biết gì mà nói cứ như