Ngày mùng chín, mười hai, mười lăm tháng Ba chính là thời gian thi võ.
Mấy ngày này Tịch Tà bận bịu sàng lọc trước hơn năm trăm võ cử nhân một lần, liệt kê danh sách những người có sách luận ưu tú, võ nghệ siêu quần lúc thi hương rồi viết thành sớ.
Lúc bấy không còn nhàn rỗi rời cung thăm Lý Sư được, chỉ đành lệnh cho Khương Phóng sai người không ngừng đi vào nhà trọ chăm sóc, chỉ nói không lâu sau sẽ có tin của Tịch Tà, xin y đợi thêm, chớ sốt ruột.
Người thường đi là một ông lão họ Nghê, mỗi lần về đều nói: Lý Sư vô cùng yêu thích thanh kiếm Tà Nguyệt này, ngày ngày cầm kiếm tập võ, không đi đâu cả; mỗi ngày Thẩm Phi Phi đều ngồi đờ ra trước cửa sổ, trông thấy lão Nghê đi vào mới lập tức phấn chấn tinh thần, thấy phía sau ông không có ai đi theo thì lại tức thì một tỏ vẻ chán ngán.
“Kiếm Tà Nguyệt?” Tịch Tà cười nói, “Bất kể thế nào đó cũng là kiếm yêu của anh, sao lại tặng Lý Sư?”
Khương Phóng đáp: “Chủ nhân quên Tà Nguyệt là kiếm của chủ nhân rồi ư? Gia muốn tặng y vũ khí sắc bén nhất thì chỉ Tà Nguyệt là có trọng lượng thích hợp, có thể sánh với đối thủ của gia thôi.”
“Nghe giọng điệu của anh kìa, lão Nghê rất quý mến Lý Sư đấy.” Tịch Tà cười khổ hỏi, “Sao ta lại không cảm thấy y có chỗ nào khiến người ta thích thế nhỉ?”
Khương Phóng đáp: “Gia coi ấn tượng ban đầu là đúng, vì y đi khắp nơi la hét tên gia, khiến gia có thành kiến với y trước.” Trong lòng Khương Phóng lại nghĩ khác, cho rằng việc Tịch Tà để ý chính là Lý Sư lại lấy mất sự coi trọng của thái giám Thất Bảo, còn để thanh kiếm bình sinh quen dùng cho Lý Sư, tâm trạng mất mát lúc này của hắn giống như một đứa con thơ được chiều chuộng, đột nhiên có thêm một đứ em trai vậy.
Vẫn là lòng dạ thiếu niên! Khương Phóng nghĩ tới đây không khỏi cười ha ha.
“Anh cười cái gì?” Tịch Tà nói với ánh mắt sắc bén.
Khương Phóng đang khó xử không biết đáp lại thế nào thì thấy Như Ý đi tới, lớn tiếng gọi Tịch Tà: “Hoàng thượng đợi đã lâu rồi, tại sao em còn kì kèo ở bên ngoài?”
Lòng cảm kích của Khương Phóng đối với Như Ý thật khó diễn tả được, anh ta lễ độ cung kính vái chào: “Nhị gia mau dẫn Tịch Tà đi đi, đúng là vướng víu chết đi được.”
Như Ý cười nói: “Anh em tôi có cùng suy nghĩ, đường đường là tổng quản thị vệ chứo ăn hiếp em sáu của bọn tôi.”
Khương Phóng liên tục nói đúng rồi đưa bọn họ vào cung Càn Thanh.
Dừng thi đã hơn mười năm, hoàng đế mở lại kỳ thi võ, xử trí vô cùng cẩn thận, đặc biệt mang bài thi sách luận trận đầu tiên hôm mùng chín ra cùng xem với Tịch Tà.
Mặc dù số cử nhân không nhiều như thi văn, trận đầu vẫn chọn đến hai trăm người, vừa xem vừa bàn như vậy mất trọn một ngày đến tận đêm khuya.
Hoàng đế khép bài thi cuối cùng lại mới thấy đói, sai người truyền thiện.
“Như vậy xem ra, Ông Trực chọn hơi quá rồi.”
Tịch Tà nói: “Bởi vì phải góp đủ số lượng hai trăm người, làm khó cho thượng thư bộ Binh rồi.”
Hoàng đế nói: “Thà thiếu không ẩu, tuyển nhiều người không dùng đến như vậy, tương lai lại ăn không bổng lộc.” Lập tức cắt đi hơn năm mươi bài thi, gọi Cát Tường vảo bảo, “Một trăm bốn mươi hai người này là do trẫm chọn.
Khanh truyền chỉ cho Ông Trực, sao chép tên người làm các bài thi này, ngày mai là yết bảng đi.” Rồi nói với Tịch Tà, “Khanh ở đây ăn cùng trẫm.”
Tịch Tà Từ nói: “Nô tỳ không dám.”
Hoàng đế cười bảo: “Không phải là khanh không dám mà là không muốn.
Trong viện Cư Dưỡng có Minh Châu đợi, sung sướng hơn ăn ở chỗ trẫm.”
“Xin hoàng thượng tha cho nô tỳ.
Hoàng thượng đúng là thù lâu, nô tỳ đành tìm một chỗ ở một mình.”
“Thù lâu?” Hoàng đế cười nói, “Vì một Minh Châu, vẫn chưa đến mức đấy đâu.
Nếu khanh thật lòng thích, trẫm thưởng nàng cho khanh có xá gì?”
“Nô tỳ không thích Minh Châu.” Dường như Tịch Tà đã nổi nóng.
Hoàng đế gật đầu: “Trẫm biết rồi.
Khanh về đi.”
Giọng nói hoàng đế hiếm khi lạnh lùng.
Như Ý nhắm mắt làm ngơ, vẫn nghiêm trang sắp xếp bữa cơm, chỉ lúc hoàng đế nhìn chằm chằm bóng lưng thoăn thoắt không lay động của Tịch Tà, mới có thời gian liếc mắt một cái, lặng lẽ nuốt một tiếng thở dài về.
Mười hai tháng Ba là trận thi võ thứ hai, thi bắn tên trên ngựa trước, mục tiêu xa ba mươi lăm bước làm quy tắc; sau đó thi bắn tên trên mặt đất, mục tiêu xa tám mươi bước, người trúng bốn tên khi cưỡi ngựa, trúng hai tên dưới đất trở lên thì sẽ đỗ.
Số người giảm đi, hôm thi đình mười lăm tháng Ba chỉ còn tám mươi lăm người.
Một ngày trước khi thi đình, hoàng đế vẫn đến cung Từ Ninh thăm hỏi, không tránh được việc thái hậu cũng hỏi đến thi võ khóa năm nay: “Thế nào, có nhân tài nào có thể kham được nhiệm vụ lớn không?”
“Xem sách luận của họ, có vài người cực tốt, có vài kẻ vì xuất thân từ nhà võ tướng nên ít đọc sách.
Cuối cùng còn dư lại tám mười lăm người cũng có thể xưng là văn võ song toàn.”
Thái hậu cười bảo: “Ngày mai thi đình rồi, nhưng đây là thi võ, làm sao có thể vung đao múa thương ở trước đại điện được? Không ra thể thống gì cả.”
Hoàng đế nói: “Trước đây vốn không có thi đình, chẳng qua là con trai còn trẻ thích náo nhiệt mới nghĩ ra ý ấy.
Sau khi bàn với bộ Binh và bộ lễ, con đã chuẩn bị để thi đình ở ngoài cửa Càn Thanh.”
“Con cũng muốn đi.” Công chúa Cảnh Ưu ở bên đột nhiên quấn lấy thái hậu nói, “Náo nhiệt như thế, con cũng muốn xem thử.
Mẫu hậu đồng ý với con đi.”
“Còn thể thống gì!” Hoàng đế trách mắng đầu tiên, “Đây là việc lớn của triều đình, em cho là xem kịch à? Mình mang thân phận công chúa, đứng ở ngoài cửa Càn Thanh còn ra gì nữa?”
Thái hậu cười nói: “Chắc là đứa bé này nghe thấy mấy chữ ‘văn võ song toàn’ nên bắt đầu mơ mộng rồi.”
“Trẫm đã có dự tính về việc hôn nhân của em rồi, em đừng nghĩ quàng nghĩ xiên.”
Cảnh Ưu gấp đến độ mặt đỏ lên, lớn tiếng nói: “Hoàng huynh nói lung tung, ức hiếp em, giờ em sẽ đi mách thái phi.”
“Ôi!” Thái hậu ôm Cảnh Ưu bảo, “Đây là ta không đúng.
Cảnh Ưu muốn xem náo nhiệt, không có gì đáng trách cả.
Nó nói như vậy, ta cũng muốn đi xem thử.”
Hoàng đế trở tay không kịp: “Mẫu hậu!”
“Hoàng đế yên tâm.” Thái hậu bảo, “Bọn ta không đi ra, chỉ sai người buông rèm trong cửa Càn Thanh, không làm lỡ việc chính trị của hoàng đế đâu.”
Đây chính là ý chỉ.
Hoàng đế trông con mắt âm u dưới khuôn mặt tươi cười của thái hậu, nghe Cảnh Ưu vỗ tay vui cười thì chậm rãi gật đầu.
Hôm mười lăm tháng Ba, Tịch Tà dậy từ rất sớm, nhìn lại cuốn sổ ghi danh sách thi võ một lần, quả nhiên người mình chọn sàng lọc trước đó đều còn cả, yên tâm đặt sổ đặt lên bàn, chỉ chờ Như Ý tới lấy.
Tịch Tà lường trước hôm nay thi đình, lễ nghi phiền phức, hoàng đế sẽ bận rộn cả ngày, còn mình lại được nhàn rỗi vì thế nên hôm qua đã sai người đưa chiến thư tới chỗ Lý Sư, hẹn đầu giờ tị hôm nay gặp nhau ở am Tịnh Thủy thành tây.
Minh Châu biết hôm nay hắn có việc nên cố ý qua đó chuẩn bị cơm sáng.
Chưa tới giờ Thìn nhưng Cát Tường đã vung phất trần đi vào, nói: “Cô nương Minh Châu ban cho tôi bát sữa với.” Minh Châu cười y quá khách sáo, xoay người đi vào phòng bếp.
Cát Tường nói: “Danh sách của em đã duyệt lại xong chưa?”
“Rồi ạ.” Tịch Tà đưa sổ con cho Cát Tường.
Cát Tường cười không nhận, nói: “Tự em dâng cho hoàng thượng đi, vạn tuế gia gọi em đến cung Càn Thanh đấy.”
Tịch Tà cau mày nói: “Chuyện gì thế?”
“Anh nào biết đâu.” Cát Tường thở dài, “Anh nói này em sáu, Như Ý đang lo thay em đấy, nó kể lại chuyện lúc trước cho anh rồi.
Anh hỏi em, nếu em không thật lòng thích Minh Châu thì lúc đó cần gì từ chối, bây giờ hoàng thượng lại đang nhớ đến chuyện này.”
Mắt Tịch Tà chợt co rụt lại: “Em tự lý của mình.”
Cát Tường lạnh lùng bảo: “Anh thấy em đã quên hết lời thầy dạy dỗ rồi.”
Tịch Tà nghe y lấy thái giám Thất Bảo ra răn mình thì vội vàng thõng tay đứng lên.
“Tại sao phải làm chuyện hoàn toàn không cần thiết này? Em còn muốn sống không? Rốt cuộc Minh Châu này cho em bùa mê thuốc lú gì mà làm em to gan như vậy?”
Dưới ánh mặt trời mới lên ngoài cửa, cái bóng thon dài chợt lóe lên trước mắt Tịch Tà, bóng mờ quả quyết khắc lên đôi môi mỉm cười của hắn: “Không phải là đại sư ca không biết, em từng làm chuyện hại mình lợi người chưa? Chỉ cần hoàng thượng nhắc lại việc này thì tức là thật sự thích Minh Châu, đồ càng khó lấy, hoàng thượng sẽ càng quý trọng.
Nàng được yêu chiều càng lâu, há chẳng phải càng có lợi với chúng ta? Khi đó cho dù là một trăm Minh Châu, em cũng sẽ tìm đưa cho ngài.
Chưa từng có quyết định nào mà em không đành lòng, càng chưa nói chỉ là một cung nữ.”
Cát Tường nói: “Anh biết rồi.
Anh chỉ nói cho em biết người như hoàng thượng quyết sẽ không từ bỏ ý định đâu.”
“Vâng.”
“Anh đã truyền lời xong, em thay quần áo rồi mau chóng đi đi.” Cát Tường thúc giục Tịch Tà vào bên trong phòng thay quần áo, còn mình thì bước thong thả ra cửa, cười nói với Minh Châu ở cửa: “Cô nương vất vả rồi, từ nhỏ sư đệ này của tôi làm việc chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ cần là điều nó mong muốn thì bất kể cái gì nó cũng không tính toán.
Người khó hầu hạ như thế, may nhờ có cô nương.” Âm cuối của Cát Tường kéo vừa dài vừa vang dội, mãi đến khi y đi mất tăm, cả viện vẫn còn vọng tiếng y.
Tịch Tà vội vã cài nút áo, nghe Minh Châu phía sau lặng lẽ đi tới thì nói: “Minh Châu, tôi phải đến cung Càn Thanh, giờ Tỵ không kịp tới.
Hôm nay Khương Phóng cũng không phân thân ra được, cô thay tôi rời cung đến am Thủy Tịnh, bảo Lý Sư đổi ngày khác.”
Hắn nén chịu sự trầm mặc hồi lâu của Minh Châu, mãi đến khi nàng chậm rãi nói câu “vâng” mới quay người lại, không liếc Minh Châu lấy một cái mà cuộn lấy sổ con, chạy ra khỏi phòng.
Hoàng đế đã mặc áo nón da xong, đợi Tịch Tà hành lễ rồi nhận lấy sổ con của Tịch Tà nhìn qua, sau đó nói: “Khanh hiểu rõ chuyện này hơn trẫm, lúc này trẫm cũng không nhớ được nhiều người như thế.
Hôm nay khanh đi cùng trẫm.”
Tịch Tà và Khương Phóng bên cạnh đều cả kinh, Khương Phóng thưa: “Hoàng thượng, việc này không hợp lễ.
Tịch Tà chỉ là thái giám áo xanh của cục Châm Công thôi.”
“Có gì nghiêm trọng chứ?” Hoàng đế rất thích vẻ chợt kinh ngạc trong mắt Tịch Tà, cười nói, “Bây giờ trẫm dẫn hắn xem cảnh tượng hoành tráng.”
Tịch Tà quỳ xuống dập đầu: “Nô tỳ tuân chỉ.”
Cát Tường tiến đến bẩm báo: “Vạn tuế gia, trăm quan và võ cử nhân đều ở ngoài cửa Càn Thanh chờ chỉ rồi ạ.”
“Thái hậu đâu?”
“Thái hậu đã ở cung Khôn Ninh nghỉ ngơi từ sớm, vừa rồi bắt đầu khởi giá từ cung Khôn Ninh, chưa đầy một khắc nữa sẽ giá đáo.”
“Trẫm đi đón thái hậu.” Hoàng đế đứng dậy, vẫy tay với Tịch Tà và nói, “Tịch Tà đi theo.”
Lúc này hai bên cửa Càn Thanh đã có trăm quan hầu hạ, võ cử nhân đứng ở giữa quảng trường mênh mông, năm mươi thị vệ ăn vận rực rỡ cầm đao ngăn cách họ ra xa khỏi ghế ngự ngoài cửa Càn Thanh.
Một bức rèm che rủ ở bên trong cửa, trong đó đặt ghế ngự của thái hậu, bên cạnh có một ghế hầu.
Giờ Thìn ba khắc, một thái giám áo màu hoa hạnh ngũ phẩm của giám Ti lễ đi ra từ trong cửa Càn Thanh, cầm roi trong tay, quất xuống đất vun vút, thái giám dẫn đường đi ra hét: “Hoàng thượng giá đáo! Chúng thần phục xuống!” Nhạc công hợp tấu nhạc lành, trong cửa Càn Thanh ầm ầm tiếng bước chân, bức rèm che khẽ lay động, đầu tiên là hai người Cát Tường, Như Ý lui ra dẫn đường để hoàng đế ngồi vào ghế.
Sau lưng hoàng đế, ngoại trừ người cầm trượng ra thì còn có một thái giám áo xanh theo sát bên hoàng đế, đứng hầu bên ghế ngự.
“Thánh cung vạn phúc.” Lấy Thành Thân vương làm đầu, chúng thần chúc tụng, ba quỳ chín lạy.
Cát Tường tuyên: “Truyền tám mươi lăm người đám Úc Tri Thu thi võ khóa năm nay yết kiến!”
Tám mươi lăm võ cử nhân đỗ kỳ thi hội nhất tề tiến lên quỳ xuống dập đầu.
Hoàng đế nói: “Trung nguyên thái bình đã lâu, dân chúng xao nhãng chuyện bắn cung cưỡi ngựa, nay kẻ thù bên ngoài dòm ngó, triều đình há không khích lệ võ trị? May mắn có các khanh văn võ song toàn mới làm được việc lớn, sau này tuân theo kỷ luật quân đội, giết địch báo quốc, chớ phụ kỳ vọng của trẫm.”
Mục thi đình là kỳ thi mà hoàng đế thêm vào, vốn không có quy chế cố định, lệnh cho tám mươi lắm võ cử nhân phát huy hết sở trường của mỗi bên, bất kể là trên ngựa dưới đất binh dài khí ngắn.
Nơi đây ngoại thần nội thần đứng đầy cả quảng trường, không cần phải nói đến các đại tướng đã trải qua chốn sa trường của bộ Binh, đám người chung quanh hoàng đế như Tịch Tà, Khương Phóng, Cát Tường, Như Ý thì càng là cao thủ tu luyện cả nội ngoại, có người khoa chân múa tay làm sao có thể giấu được đôi mắt sáng như đuốc của họ.
Mãi đến người đỗ thi hội thứ mười bốn Du Vân Dao lấy một thanh trường kiếm ở trên kệ, đứng giữa quảng trường, bẩm rằng sở trường của mình là kiếm pháp.
Vóc người anh ta gầy guôc như thư sinh, âm thanh thong thả điềm tĩnh, ung dung nói nhưng cả quảng trường đều nghe được rõ ràng.
Trong cửa Càn Thanh có tiếng vọng ong ong, làm đám người Tịch Tà xốc tinh thần lên.
Cổ tay Du Vân Dao khẽ rung, kiếm kêu ong ong dần thành con rồng trắng nhàn nhã bơi.
Hắn dùng bộ kiếm pháp này một cách từ tốn khoan khoái, trường kiếm phản chiếu ánh mặt trời lướt qua tạo thành mảnh ánh sáng bạc liên miên không ngừng lấp lóe, đến lúc say sưa thỏa thích thì cả người như thể đang phóng ra hào quang.
Khương Phóng không kiềm được mà gật đầu lia lịa, suy đoán đây chính là kiếm pháp nhà họ Du thất truyền đã lâu.
Nhà họ Du từng là dòng dõi thế gia vọng tộc ở nam hồ Thiếu, gần ba mươi năm cảnh nhà điêu tàn, thì ra con cháu đã làm quan, bây giờ mới có cơ hội tận mắt thấy.
Kiếm pháp nhà họ Du phải khí định thần nhàn, tĩnh dật như thường nhưng chiêu kiếm lại rối ren phức tạp, trong mỗi một chiêu đều có ba bốn mươi biến chiêu, coi trọng việc dùng khí điều khiển cốt, lấy cốt đuổi kiếm, tạng phủ hình hài luôn động mới có thể tạo ra chiêu kiếm biến hóa.
Chiêu của Du Vân Dao lướt qua vẫn còn để lại dư quang, chính là do ngọn kiếm đổi chiêu trong nháy mắt.
Có người nói cao thủ thực thụ của nhà họ Du có thể thay đổi hơi thở đến mức nhỏ nhất, đến nỗi sử dụng một bộ kiếm pháp giống hệt như kiếm pháp bình thường mới tính là đạt đến cảnh giới tự nhiên như không.
Quả nhiên nghe Như Ý bên cạnh thấp giọng lẩm bẩm: “Cũng may chỉ có bảy phần hỏa hầu, không đáng sợ.” Đám người Như Ý đã ở trong cung thấm nhuần từ nhỏ, có kiến thức phi phàm.
So với Du Vân Dao thì lúc này Khương Phóng lại khen ngợi sư huynh đệ Như Ý nhiều hơn.
Trong mục kiếm thuật, người đỗ đầu khoa thi hội khóa năm nay là Úc Tri Thu cũng báo danh.
Tuổi gã chừng hai mươi hai, vóc người cường tráng, lông mày, lông mi rậm rạp, khuôn mặt trắng nõn lộ ra khí khái anh hùng tràn trề, đúng là thiếu niên tài giỏi đẹp trai.
Kiếm pháp của gã thạo về ngoại gia, đại khai đại hợp, khí thế hào hùng như rồng bay hổ chồm, lộ vẻ xuất sắc.
Trong đại tướng bộ Binh có người khá giỏi về công phu ngoại gia, lúc này mặt có vẻ khen ngợi, nếu không có hoàng đế ở đây thì sợ là đã trầm trồ khen hay rồi.
Cuối cùng là đọ tài cung trên ngựa, người ứng cử rất nhiều, hoàng đế lệnh cách năm mươi bước, tám mươi bước, một trăm bước thì dựng bia, từ năm mươi bước trở đi mà trúng ba tên thì có thể bắn tiếp theo thứ tự, sai nội thần ghi lại thành tích của mọi người.
Tới khoảng cách một trăm hai mươi bước vẫn có năm người không chệch một tên.
Hoàng đế rất mừng, lệnh năm người đến gần báo tên.
Lục Quá cũng ở trong năm người đó, lúc ngẩng đầu đáp lời thấy một hoạn quan trẻ tuổi đẹp đẽ vô cùng bên cạnh hoàng đế đang mỉm cười với mình, nhận ra là Khu Ác tới chùa Đông Hoằng Nguyện dò hỏi thì không khỏi lấy làm kinh hãi.
Hoàng đế nói: “Thì ra Úc Tri Thu cũng giỏi cưỡi ngựa bắn cung.”
“Vâng.” Úc Tri Thu cũng báo tên thi bắn cung trên ngựa, quả thực làm người ta không thể khinh thường.
Hoàng đế đã có ý chức trạng nguyên thuộc về Úc Tri Thu, gật đầu nói: “Khanh am hiểu binh pháp, bất kể trên ngựa hay trên bộ đều có thể nói là thành thạo võ nghệ, quả là nhân tài tương lai của triều đình.
Các khanh…” Hoàng đế nói với bốn người khác, “có muốn mài giũa với hắn nữa không?”
Lục Quá nghe ra ý của hoàng đế, vốn muốn xin kiếu, đã thấy hoạn quan trẻ kia chậm rãi gật đầu với mình, trong đôi mắt lạnh như băng trở nên ấm áp vô ngần vì tràn đầy ý cổ vũ.
Lục Quá khom người nói: “Bẩm hoàng thượng, võ cử nhân Lục Quá của núi Đô Quốc xin phân cao thấp với người đứng đầu thi hội.”
Ba người kia cũng không muốn dễ dàng nhường vị trí trạng nguyên ngay lúc đó nên cũng đều phụ họa.
Hoàng đế cười nói: “Tốt, không sợ kẻ địch mạnh là bản sắc của đại tướng.
Lục Quá là người thứ hai trong thi hội, chắc cũng ngang ngửa Úc Tri Thu, giờ sẽ cho các khanh phân cao thấp.”
Năm người lại phóng người lên ngựa lần nữa, đích đã chuyển tới một trăm năm mươi bước, loại mất ba người, chỉ còn Úc Tri Thu và Lục Quá.
Lúc thi một trăm tám mươi bước, đám bề tôi ban võ đã đổi sắc.
Cung được dùng lúc này đã là loại mà người tầm thường không thể kéo nổi, nhưng vẫn không thể bắn tới một trăm bước được.
Khương Phóng bèn sai người lấy hai cây cung lớn mà mình dùng từ phòng thị vệ ra, tự mình đưa tới trước mặt hai người.
Hai cây cung đều được chế tạo từ loại gỗ rắn chắc thô ráp, tô điểm bằng sừng tê, ngang ngửa chiều cao của mấy người ấy, dây to cỡ ngón út, thấp thoáng ánh vàng.
Lục Quá tiện tay kéo một phát, mắt chợt lộ ra vẻ vô cùng kinh ngạc, nói với Khương Phóng: “Cung này là vật thần mà kẻ tục không thể dùng được.
Tiểu nhân đi quá giới hạn, không dám nhận.”
Úc Tri Thu cũng bảo: “Người có thể kéo được cây cung này tất là thượng tướng vô địch thiên hạ.
Tiểu nhân sao dám sánh cùng?”
Khương Phóng cười nói: “Phàm là binh khí thì đều là thứ giết người, là vật cực âm.
Người dùng ít, tội lỗi mãi không tiêu tan, chủ nhân sẽ bị hại.
Các anh cứ coi như đang giúp tôi, để chúng thả lỏng.”
Hai người cảm phục hắn rộng rãi sảng khoái, sinh lòng hào hùng, nhìn nhau cười, cầm cung chiến tiếp.
Ngoại trừ Khương Phóng ra, chỉ có Tịch Tà kéo hết được hai cây cung ấy, Lục Quá và Úc Tri Thu ở trên ngựa chỉ có thể kéo ra tám phần nhưng cũng đủ để bắn hơn hai trăm bước.
Lục Quá cái tên lông trắng, Úc Tri Thu kéo tên lông đen, ngựa chiến chạy như bay, dây kêu như tiếng kim loại, sáu mũi tên bắn ra liên tiếp.
Xa xa truyền đến tiếng nội thần kêu: “Sáu mũi tên đều trúng đích.”
Trăm quan quên hết tất cả, ầm ầm khen hay.
Úc Tri Thu vòng ngựa lại cười nói với Lục Quá: “Như thế thì không thể đọ tiếp nữa, dù chúng ta có thể bắn hai trăm bước nhưng nơi này không có chỗ lớn như vậy.” Đảo khóe mắt nhìn về phía chân trời xanh lam, một con én bay qua trên cao, “Chúng ta bắn con chim này để phân cao thấp đi.”
“Không được!” Lục Quá kinh hãi, muốn ra tay ngăn cản thì đã muộn.
Tiếng kêu đau buồn im bặt trên không trung, én quay cuồng mấy cái rồi rơi bộp xuống trước vua.
Quần thần sợ đến tái mặt, Khương Phóng vội vàng chạy tới dùng áo bào phủ lên con én.
Vẻ mặt hoàng đế không thay đổi, cười nói: “Nơi đây không có chỗ cho các khanh đọ nữa, đến đây thì dừng thôi.”
Cát Tường truyền chỉ lệnh võ cử nhân lại hành lễ tạ ơn trước vua.
Hoàng đế nói: “Người học võ coi trọng sự sảng khoái, muốn đánh nhanh thắng nhanh, không cần giống như thi văn.
Bây giờ sẽ phân chia thứ tự.” Đoạn sai Cát Tường đưa thành tích vừa ghi chép tới, hoàng đế đột nhiên cất cao giọng bảo: “Đưa cho Tịch Tà đi, hắn tinh thông binh pháp kiếm thuật, chớ ngại chọn ra ba hạng giáp đầu thay trẫm.”
Trong ngoài cửa Càn Thanh im phăng phắc, qua một lát mới có tiếng quần thần nhỏ giọng xôn xao.
Nhờ ơn Lý Sư, bây giờ cái tên Tịch Tà đã lưu truyền rộng rãi trong võ cử nhân, nét mặt các võ cử nhân cũng vẻ kinh ngạc.
Lưu Viễn đã tức đến mức cả người run lên, lẩm bẩm nói: “Không ra thể thống gì! Không ra thể thống gì!” Lão hất cánh tay đang đỡ mình của học sinh Miêu Hạ Linh bên cạnh ra, bước nhanh lên phía trước, đang định lên tiếng thì chỉ thấy bóng người áo xanh đẹp đẽ kia đã quỳ gối trước vua, tiếng nói trong trẻo tỏ tường: “Nô tỳ xin tuân theo thánh chỉ.”
“Thì ra là thế!” Lưu Viễn rùng mình một cái, lúc này Diêm vương nhỏ đến theo bóng đêm đang leo lên cung điện triều đình giữa ban ngày ban mặt.
“Nô tỳ đi quá giới hạn, trộm nghĩ ba người đỗ đầu nên lấy lần lượt là Lục Quá, Du Vân Dao, Úc Tri Thu.” Tịch Tà cầm lấy sổ con trong tay Cát Tường, tiếp tục bẩm một cách trôi chảy, “Giáp thứ hai là Đường Đống, Hồ Động Nguyệt, Thang Gia Mạc…” Hắn dùng tiếng nói khoan thai điềm tĩnh báo tất cả tên từ trong những ghi chép hỗn loạn kia, “… Bốn mươi hai người đám Hạ Bội lần lượt là giáp thứ ba.
Xin ý chỉ của hoàng đế bệ hạ.”
Hoàng đế hỏi thượng thư bộ Binh: “Ông khanh, khanh xem để sót, có lặp lại không?”
“Bẩm hoàng thượng, không bỏ sót, cũng không có lặp lại ạ.”
“Ông khanh có ý kiến khác không?”
Vẻ mặt Ông Trực khó xử: “Bẩm hoàng thượng, thần không có ý kiến khác.”
“Thái phó thấy thế nào?” Hoàng đế nhìn chằm chằm Lưu Viễn và hỏi một câu.
Lưu Viễn không thể chịu đựng được nụ cười lạnh lẽo mà Tịch Tà quăng tới, biết mội khi lời mình ra khỏi miệng thì vận mệnh triều đình sẽ rẽ sang một phương hướng khác không rõ.
Lão khom cơ thể to béo, cúi đầu chậm rãi nói: “Thần cho rằng hợp tình hợp lý, không hề có thiên vị.”
Tiếng nói trầm tĩnh của hoàng đế đâm ra từ trong tiếng xôn xao lớn hơn của quần thần, tàn nhẫn khoét một dao ở trong lòng Lưu Viễn: “Vậy thì chuẩn theo tấu xin của Tịch Tà.”
“Hoàng huynh điên rồi!” Công chúa Cảnh Ưu thấp giọng tự nói sau bức rèm châu, xoay mặt nói với thái hậu, “Mẫu hậu, sao hoàng huynh lại chỉ định một tên thái giám nhỏ lơ mơ được? Rõ ràng võ nghệ của Úc Tri Thu lia tốt nhất nhưng lại chỉ được mỗi thám hoa…”
Thái hậu nở nụ cười từ trong sắc mặt âm trầm: “Đứa trẻ như con thì biết gì? Úc Tri Thu không biết tự kiềm chế, nóng lòng tham công, bắn tên sát sinh, chẳng những kinh động thánh giá, còn là điềm rủi.
Chọn gã làm thám hoa là vì hoàng đế yêu tài không so đo tiểu tiết, đã là từ bi rồi.
Tịch Tà hiểu rõ ý thánh, bình luận công bằng hợp lý, chọn rất khá!”
“Thì ra là thế.” Cùng lúc ánh mắt công chúa Cảnh Ưu quanh quẩn ở trên người Úc Tri Thu đang dập đầu tạ ơn trước vua thì Thành Thân vương cũng đang dùng ánh mắt hứng thú quan sát khuôn mặt thất vọng của gã, không có ai chú ý tới Hồng Tư Ngôn lặng lẽ cúi người ở trước thái hậu.
“Tịch Tà này không giữ được rồi.” Thái hậu nói bằng giọng nhỏ như tơ nhện.
Lúc Tịch Tà xuống khỏi cung Càn Thanh đã là giờ lên đèn, vì đèn đuốc sáng trưng sau lưng mà khuôn mặt trở nên lạnh lùng tối tăm.
Khương Phóng chào đón: “Chủ nhân…”
“Vừa rồi hoàng đế đã có ý chỉ, điều ta tới cung Càn Thanh chuyên việc công hàm tóm lược mật báo, gọi là giữ bút trong phòng sách, về phẩm cấp thì tạm thời chưa thăng.
Việc của cục Châm Công và cục Nội Chức Nhiễm phải giao lại trong hai tháng.”
“Tôi không hỏi gia việc này.” Khương Phóng vội la lên, “Tình cảnh hiện tại của gia giống như én trong sào