Hoàng đế đã quyết định ngày mùng một tháng Bảy sẽ về cung ở Ly đô nên hai mươi chín tháng Sáu là lần đi săn cuối cùng của năm nay.
Mới vừa mưa to, thời tiết Thượng Giang vô cùng mát mẻ hợp dễ chịu, hoàng đế dậy thật sớm, tinh thần phấn chấn mà mặc giáp.
Nghị phi Triệu thị, Hoà thục nghi Mộ thị, công chúa Cảnh Ưu đều mặc quân trang, tư thế hiên ngang đi tới cùng đám nội thần nữ vây quanh.
Hơn trăm nội thần ngăn cách giữa Thành Thân vương và thị vệ với nội quyến trong cung.
Kèn lệnh vừa vang lên, hoàng đế nhảy vào trước, Nghị phi và Hoà thục nghi cầm nỏ nhỏ trong tay theo sát phía sau.
Hoàng đế thạo cung ngựa, thấy sừng hươu chợt lộ ra trong cây rừng bèn phóng ngựa đuổi theo.
Hoà thục nghi cười, khẽ quát một tiếng rồi uốn lượn đi theo, thuật cưỡi ngựa không kém chút nào.
Hai mũi tên đầu của hoàng đế đều hụt, mũi tên thứ ba cắm giữa cổ hươu, lại bắn bồi mũi nữa, huơu đực ngửa đầu kêu thảm một tiếng rồi ngã xuống đất, không ngừng thở dốc.
Cát Tường nhảy xuống ngựa, rút dao găm từ hông, cắt cổ hươu lấy máu.
Hoàng đế cười quay người lại đã thấy Hoà thục nghi buông dây cương, hai tay che mắt không đành lòng nhìn.
“Không sao, đã tắt thở rồi”.
Hoàng đế quay về bên nàng cười nói.
Mộ Từ Tư vẫn che mắt, cứ lắc đầu mãi.
Hoàng đế gỡ hai tay nàng ra, thấy hai mắt nàng nhắm nghiền, khóe mắt mang theo ánh lệ thì dịu dàng nói: “Cá lớn nuốt cá bé chính là như vậy.
Hôm nay nàng không nhìn thì sau này sẽ luôn sợ hãi…”.
Tính cách nàng là vậy, nói không nhìn thì sẽ không nhìn, dù hoàng đế nói thế vẫn chỉ lắc đầu thưa: “Không, hôm nay thần thiếp mới biết đây vốn là chuyện mình không thích, xin hoàng thượng đừng ép”.
Chợt nghe hoàng đế hét lớn một tiếng: “Mở mắt ra”, làm giật mình, đành mở hai mắt ra.
Hương thơm thoang thoảng trước mặt, hoàng đế cầm một một bó hoa lan vừa cúi người hái, cười nói: “Cái này đẹp chứ?”.
Mộ Từ Tư nín khóc mà cười, nhận lấy rồi kẹp trên vạt áo lồng trong giáp: “Hoàng thượng thật giỏi dọa nạt người ta”.
Hoàng đế nhìn nàng mỉm cười.
Cát Tường bỗng qua đây, nhét mấy cành hoa lan vào trong tay hoàng đế rồi hướng về phía Nghị phi đang bĩu môi chậm rãi đi tới.
Hoàng đế ngầm hiểu, lên đón và tự mình cài lên tóc mai của Nghị phi.
Nghị phi được yêu chiều mà đâm lo sợ, run rẩy nói: “Tạ ơn hoàng thượng”.
Mộ Từ Tư vỗ tay cười rằng: “Đẹp quá, chị thẹn đến đỏ mặt rồi”.
“Nhóc con dám giễu cợt chị”.
Quả thực Nghị phi đã đỏ mặt, thúc ngựa qua đây lấy một nhành từ vạt áo Mộ Từ Tư rồi cài lên tóc cho nàng.
Cát Tường than thở: “Vạn tuế gia nhìn kìa, suy cho cùng là cách điệu Nghị phi nương nương tự tay cài hoa khác hẳn với đàn ông như hoàng thượng”.
Làm sao Nghị phi không biết ngụ ý của y, trong lòng đắc ý mừng rỡ, nở nụ cười xinh đẹp với hoàng đế.
Hoàng đế chỉ cảm thấy dung nhan hai người như tranh vẽ thì khen rằng: “Thật là đẹp đến cực hạn, trẫm trông các nàng mà vui vẻ khôn tả xiết”.
Trong rừng cây vang tiếng móng ngựa, Như Ý chui ra ngoài nhìn, nói: “Thì ra vạn tuế gia ở chỗ này”.
Cát Tường mắng: “Nói gì đấy?”.
Trời mát mẻ như vậy mà đầu Như Ý lại đầy mồ hôi, hoàng đế mới hỏi: “Việc chi gấp mà chạy thành như vậy?”.
Như Ý xấu hổ, nói: “Việc này… Vừa nãy người đi theo hầu công chúa Cảnh Ưu nói đã lạc mất công chúa, vốn không muốn làm hoàng thượng nhọc lòng…”.
Thị vệ bên này vẫn chưa hay biết, xa xa ngoài vòng nội thần, Khương Phóng nhìn thấy Tịch Tà vô cùng buồn chán, lười biếng thả ngựa rong chơi bèn tiến lên bắt chuyện, thấy sắc mặt hắn mệt nhọc thì lo lắng nói: “Tinh thần công công có vẻ không tốt”.
Tịch Tà cười: “Tối hôm qua, hai chó điên sủa dữ, ta đuổi thẳng đến trấn trên Thượng Giang, đánh chúng gần chết, gọi người dùng thuyền chở về kinh ngay trong đêm, đợi đại thống lĩnh về lột da chúng rồi chần để ăn”.
Khương Phóng cười to: “Không tiêu hóa nổi đâu, đợi trời lạnh hơn hãy nói”.
Tịch Tà than thở: “Không đợi trời lạnh được, có con chó điên chỉ chịu đúng đại thống lĩnh cắn thôi, tôi cũng không trói được”.
“Hừ hừ!” Khương Phóng nói: “Công công dạy bảo giỏi lắm, đừng cố vờ như không biết”.
Tịch Tà ho một tiếng, cười nói: “Đại thống lĩnh thử xem cũng không sao, để cho y biết vỏ quýt dày có móng tay nhọn.
Y rèn luyện nhiều thì mới có lợi đối với hai ta”.
Khương Phóng trầm ngâm trong chốc lát, chợt thấy nội thần rối loạn.
Tịch Tà nói: “Chỉ sợ có sự cố gì, tôi về trước xem thử”.
Chạy về đội ngũ, Như Ý bèn lặng lẽ nói với hắn.
Tịch Tà cười bảo: “Nơi đây đều là đất của hoàng gia, bốn phía bãi săn có bao người giữ, không chạy ra được đâu.
Nói không chừng là ngựa mệt nên tụt lại phía sau, để em vòng về xem thử”.
“Chớ làm ầm lên đấy”.
Như Ý nói: “Ngoại thần vẫn chưa biết đâu”.
“Em biết mà”.
Tịch Tà để ý, không dẫn người theo mà một mình giục ngựa trở về tìm kiếm.
Hắn biết chỗ có thể nghỉ chân ở đây chỉ có nhà thuỷ tạ trong hồ, lúc sắp đến thì mau chóng quất roi ngựa vun vút, siết chặt dây cương, ghìm cho ngựa hí không ngừng.
Quả nhiên ở con đường nhỏ bên hồ trước mặt có người phóng ngựa đến, quát: “Vị nào?”
Tịch Tà cười nói: “Thì ra là Úc thám hoa, tại sao không ở phía trước?”.
Úc Tri Thu đỏ mặt: “Lần đầu đến nên đi nhầm đường.
Sao công công không hầu bên hoàng thượng?”.
“Loạn rồi!” Tịch Tà trông bên cạnh giáp của Úc Tri Thu lộ ra một góc khăn trân châu, đưa tay ra hiệu ở trên người mình: “Công chúa lạc đường, nội thần đều đang tìm, thám hoa chớ đi lung tung, đụng phải phượng giá thì không hay đâu”.
Úc Tri Thu nhét khăn trân châu vào ngực, thẹn đến mức muốn chui xuống đất.
Tịch Tà cười nói: “Xin mau mau về đi, nô tỳ ra bên bờ xem thử, cáo từ”.
Tách gốc liễu ra là thấy hai con ngựa thủng thẳng phía trước, công chúa Cảnh Ưu ngồi ở bên lan can nhà thuỷ tạ, đang ném đá vào trong nước.
Nữ quan bên cạnh thấy Tịch Tà đến gần bèn vội vàng nói nhỏ bên tai nàng.
Công chúa Cảnh Ưu bĩu môi xem thường, ngâm nga hỏi: “Anh là tâm phúc bên cạnh hoàng thượng, chỉ sợ hoàng thượng không thể rời khỏi một khắc, sao lại rảnh rỗi tới chỗ này?”.
“Vạn tuế gia không thấy công chúa, nhớ đến nên mời công chúa về trước thánh giá của hoàng thượng”.
Công chúa Cảnh Ưu đứng lên nói: “Người vây chung quanh, không có lúc nào được tự tại, trông thấy các người đã bực mình rồi”.
Tịch Tà nhìn nàng tùy ý quất roi ngựa tới bèn vội vàng tránh ra xa hơn, chỉ thấy roi dài của công chúa lướt qua, lá liễu trong rừng bay loạn.
Tịch Tà theo sau nàng, chỉ đành cẩn thận che mắt.
Cảnh Ưu đột nhiên dừng bước, hỏi: “Có phải hôm nay rất mát không?”.
Tịch Tà vội vàng cười theo nói: “Đúng ạ”.
“Đã nói mà, gió mát biết bao”.
Công chúa Cảnh Ưu đưa hai cánh tay ra, lá liễu bị gió cuốn qua đính vào quần áo, trên mặt, trên tóc của nàng, không biết nàng nhớ tới cái gì mà ngửa đầu vui vẻ cười.
Sau khi đi săn, hoàng đế lại nghỉ ngơi một ngày, chuẩn bị vật ngự dụng rồi mới chào từ giã với thái hậu, để hoàng hậu lại hầu từ giá của thái hậu, thái phi, mang theo Nghị phi, Hoà thục nghi đi về kinh thành theo đường bộ.
Vì đã lên chức, có được phẩm cấp nên chuyện đầu tiên của Tịch Tà là đến phủ nội vụ chuyển giao giấy tờ, xin đổi lệnh bài.
Ai ngờ phủ nội vụ đã được tin từ lâu, quản sự đang cầm lệnh bài ngà trắng như tuyết đi ra, cười nói: “Con bài ngà của anh sáu đã làm được mấy ngày rồi, chúc mừng chúc mừng”.
“Ôi, phiền các vị đại nhân để tâm rồi”.
Tịch Tà vội vàng kêu Tiểu Thuận Tử dâng quà cảm ơn và đổi lệnh bài gỗ mun.
“Nơi đây còn có quà mừng của Thành Thân vương, bảo tôi thay mặt giao cho anh sáu đây”.
Quản sự bưng một cái tua đeo lệnh bào, trên tơ lụa buộc cài đầy ngọc xanh biếc, lấp lánh loá mắt.
Tịch Tà suýt cười khẩy thành tiếng, nét mặt khó nén kinh ngạc: “Vương gia nhọc lòng rồi.
Hôm khác sẽ dập đầu với vương gia”.
Trở lại phòng, hắn ném bộp tua đeo lệnh bài lên trên bàn, nói với Tiểu Thuận Tử: “Khóa vào, đừng để ta trông thấy nữa”.
“Vâng”.
Tiểu Thuận Tử vuốt ve từng hạt châu ngọc thượng hạng, không biết nó đã chọc giận gì Tịch Tà, thở dài lưu luyến không rời rồi đặt xuống đáy hòm.
Lát sau trước cửa viện Cư Dưỡng đã đông như trẩy hội, các nha môn trong cung đều có mấy người tương quan nhân đến chúc mừng, uống chén trà xong mới tản đi.
Lại có Nghị phi nói Tịch Tà có công hộ giá, sai người trong cung đến ban thưởng, cuối cùng lặng lẽ cười nói: “Nương nương muốn cảm ơn công công đã nói tốt ở trước mặt hoàng thượng”.
“Xin bẩm lại cho nương nương hay…” Tịch Tà nói: “Hoàng thượng nghiêm chỉ không cho nô tỳ đi lại ở các cung nên chỉ đa tạ nương nương quan tâm ở đây thôi.
Chỉ cần sau này nương nương rộng lượng, quý trọng đám người Hoà thục nghi thì hoàng thượng tất nhớ đến sự hiền huệ của nương nương trong lòng, so với người khác thì giống như trên trời dưới đất, chẳng phải sẽ cao hơn một tầng hay sao?”
“Công công nói phải”.
Người nọ thấy Tịch Tà hơi mệt mỏi liền vội vàng xin từ biệt.
Tịch Tà hiếm khi rảnh rỗi, nâng chén trà lên, đã nguội từ lâu rồi.
Từ sau khi hắn trúng độc làm vết thương cũ tái phát, Minh Châu luôn săn sóc chu đáo, vả lại trời thì nóng nên nước trà ấm vừa miệng.
Lúc này nhớ tới Minh Châu vẫn còn ở Thượng Giang, không khí trong phòng như thiếu thứ gì, khiến hắn không sao tự tại được.
Hôm sau thức dậy lúc hửng sáng, trên ghế ngoài phòng ngủ vẫn mắc quần áo trong cung mới giặt, mặt trên lại đặt một cái tua đeo lệnh bài mới tinh màu xanh đậm, trên tơ lụa mảnh nhường ấy chằng chịt một bông mai mới thêu, tài thêu tinh tế, thanh nhã đập vào mặt, chính là vết tích của Minh Châu.
Tiểu Thuận Tử dụi mắt đi ra chào: “Thầy dậy sớm thế”.
“Cái này từ đâu ra?”
Tiểu Thuận Tử nhìn một lát: “Tối hôm qua con thu xếp hành lý thầy mang về từ Thượng Giang thì thấy, cứ tưởng hôm nay thầy muốn đeo.
Hay là còn đổi cái cũ kia nhé?”.
Tịch Tà nắm tua đeo lệnh bài ở trong tay, nhìn kỹ rồi mỉm cười: “Không, cái này là được rồi”.
Tiểu Thuận Tử ghé vào trước mắt Tịch Tà, nói: “Con theo thầy nhiều năm như vậy, hiếm thấy thầy vui vẻ thật lòng.
Cái tua đeo lệnh bài sợi vàng sợi bạc gì thế? Con phải nhìn cho kỹ, để mở mang kiến thức”.
“Ba hoa!”
Tiểu Thuận Tử vui vẻ “phì” một tiếng, uốn người bỏ chạy: “Thầy mau lên đi, nếu mà muộn thì người xui xẻo lại là chân chó Tiểu Thuận Tử này”.
“Biết là tốt”.
Tịch Tà vội vàng thay quần áo, chạy tới cung Càn Thanh, quả nhiên hoàng đế đã dậy, đứng ở bên ngoài tự quạt cho mình, ngửa đầu nhìn sắc trời.
Tịch Tà dập đầu xong liền nói: “Còn chưa tới giờ, hoàng thượng đã chờ ở đây, lát nữa các thần mà biết lẽ nào không hãi?”
“Chỉ là trẫm có điều bận lòng, không ngủ được.
Hôm nay ngắm nhìn điện Thanh Hòa từ nơi này, lúc mặt trời mọc thì bầu trời xán lạn, cung điện huy hoàng, thảo nào bao nhiêu người thèm nhỏ dãi”.
Hoàng đế nói: “Kẻ nào có thể dễ dàng nhường cho người khác món đồ tốt như vậy chứ? Bất kể trong nước ngoài nước, muốn tranh với trẫm thì phải chuẩn bị đền tính mạng đi thôi”.
Như Ý buột miệng khen: “Chính là lý này”.
Hoàng đế nói với Tịch Tà: “Hôm qua mới vừa về cung, Lưu Viễn và Miêu Hạ Linh đã dâng tấu, vẫn là chuyện trưng thu tiền và lương thực ở đất phiên, đại chiến sắp tới, không biết mộ lính ở các nơi có kịp hay không”.
“Chỉ e diễn lại trò cũ không còn tác dụng nữa”.
Tịch Tà thưa.
Hoàng đế bảo: “Trẫm biết đám phiên vương không dễ đối phó.
Hồng Châu là chỗ xung yếu khi Hung Nô xuôi nam, an nguy có can hệ cực lớn đến chuyện này, Hồng vương sẽ không sinh lắm thị phi.
Chỉ là trong lòng cha con Đỗ Hoàn có ý đồ xấu, chỉ cần bắt lấy ông ta thì những người khác đều dễ xử lý”.
Nói thì nói vậy, thật sự phải nghĩ ra được thượng sách ngay cũng rất khó, cuối cùng hoàng đế vẫn theo sớ mà đám Lưu Viễn dâng lên, để Miêu Hạ Linh dẫn đầu việc này, tăng số người tuần phủ, chiêu mộ binh lính, tăng thuế khoán các nơi.
“Trăm họ đã rất khó, các khanh nhớ kỹ chức trách của tuần phủ không phải là kề dao trên cổ trăm họ ép họ nôn tiền ra, chuyện tăng thuế khoán phải cân nhắc dân tình địa phương, càng phải đề phòng những kẻ không có lương tâm mưu lợi bất chính từ đó”.
Ông Trực nói: “Triều đình cần người thì muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, nhưng ngựa lại là một chuyện khác”.
Hoàng đế nói: “Từ trước đến nay, hai châu Thanh, Hồng và cả Bạch Dương tạo ra nhiều ngựa tốt, bộ binh hãy đi thương lượng với họ”.
Tịch Tà chợt cười nói: “Tập tính dân Bạch Dương dũng mãnh, những dân chăn nuôi này thích mềm mỏng không thích cứng rắn, triều đình không thể cưỡng ép trưng thu, người phái đi càng phải lanh trí, giỏi giao thiệp”.
Ông Trực nói: “Lời này có lý”.
“Khanh tiến cử một người đi”.
Hoàng đế nói với Tịch Tà.
“Nô tỳ thấy Lục Quá rất khát”.
“Liệu tuổi có quá trẻ không?” Ông Trực lại hơi lo âu.
Xưa nay La Tấn và ông ta có quan hệ tốt, vội vàng lén kéo góc áo ông ta.
Ông Trực lập tức hiểu ý, cười rằng: “Hãy để anh ta thử trước xem sao”.
Thành Thân vương ngồi gần nên thấy rõ, lòng thầm mắng một câu cáo già: Lục Quá là người Tịch Tà tiến cử, dù làm việc không hiệu quả, thậm chí còn dấy lên dân biến ở Bạch Dương cũng không liên quan đến Ông Trực thì cớ sao không làm? Đến khi đi xuống từ trên điện, y lặng lẽ vẫy tay với Tịch Tà, hỏi: “Rốt cuộc Lục Quá này thế nào? Ông Trực đang chờ xem trò cười đấy!”
Tịch Tà cười thưa: “Không sao cả, nô tỳ tự có sắp xếp, làm phiền vương gia nhọc lòng rồi.
Nô tỳ xin nhận ban thưởng hôm qua của vương gia, đợi lúc rảnh rỗi sẽ đến phủ vương gia dập đầu.
Có điều món đồ kia quá quý giá, sợ người khác thấy thì không tốt nên không dám mang theo bên mình”.
Thành Thân vương nhìn nụ cười chói mắt của Tịch Tà, bỗng muốn nói lại thôi, chỉ bảo: “Vậy là tốt rồi, lúc rảnh rỗi anh hãy tới, ta sẽ chờ”.
Người chọn làm tuần phủ vẫn đợi được định ra, ý hoàng đế là phải đợi tấu chương của Lương vương tới mới đi phân công, chỉ có một mình Lục Quá chưa được mấy ngày đã phải rời kinh đến Bạch Dương.
Trong cung có người mang hộ thiếp mời tới, là Tịch Tà bày tiệc rượu ở ngõ Tiêu Chi tiễn anh ta.
Lục Quá biết việc lần này chính là Tịch Tà tiến cử, biết hắn có việc muốn nhắn nhủ bèn từ chối tiệc rượu của đám Du Vân Dao, một mình đi.
Tiểu nhị dẫn anh ta lên lầu, Tịch Tà đã từ trong phòng ra đón: “Anh Lục, đã lâu không gặp”.
“Công công vẫn khỏe chứ?” Lục Quá thấy Tịch Tà thì cũng vui vẻ, hàn huyên vài câu rồi ngồi xuống, nói thẳng: “Lần này công công xin việc khó cho tôi, chắc sớm đã tính trước mọi việc, Lục tôi xin được chỉ cho một hai”.
“Không dám!” Tịch Tà khom người: “Anh Lục là một người thông minh lão luyện, tôi cũng không vòng vo nữa.
Đây là mật chỉ của hoàng thượng, anh Lục cầm đi, đừng xem vội”.
Lục Quá quỳ xuống đón bằng hai tay, cẩn thận bỏ vào trong ngực.
Tịch Tà nói: “Người Bạch Dương hung hãn nhưng hào hùng, nghĩa khí, xử trí thoả đáng rồi thì việc gì cũng dễ, nếu như đắc tội dân bản xứ tạo ra dân biến thì tính mệnh anh Lục và tính mạng của tôi đều rất khó nói”.
Lục Quá nói: “Tôi cũng đã suy nghĩ chuyện này hồi lâu.
Theo tôi thấy, chuyện này không thể coi trọng hai chữ ‘ép trưng’, bất kể tiền nhiều tiền ít thì triều đình bỏ vốn mua ngựa địa phương vẫn là kế hay”.
Tịch Tà cười nói: “Tôi không nhìn lầm người rồi”.
“Đấy chỉ là một chuyện”.
Lục Quá cau mày bảo: “Tiền của triều đình không đủ, tôi lại đi với hai bàn tay trắng, lấy cái gì mua đây?”.
Tịch Tà chỉ vào ngực Lục Quá, mỉm cười không nói.
Lục Quá đưa tay sờ lên cuốn mật chỉ đó, bỗng bừng tỉnh.
Tịch Tà nói: “Thủ lính người buôn ngựa vùng Bạch Dương Lạc châu họ Bạch, tôi đã thông qua bạn bè thông báo gã chăm sóc anh Lục.
Chỉ sợ anh Lục không quen cuộc sống ở Bạch Dương nên dẫn anh Lục gặp một người bạn ở đây”.
Tai nghe tiếng bước chân vang ở thang lầu thì cười nói: “Y tới đúng lúc thật”.
Đoạn đứng dậy mở rộng cửa, kéo một thanh niên vào, Lục Quá vừa thấy đã hết sức ngạc nhiên.
Thanh niên kia lớn tiếng nói: “Võ trạng nguyên gì? Người này là bại tướng dưới tay tôi, anh muốn tôi làm chân chạy cho anh ta, tôi không làm đâu”.
Tịch Tà chế trụ cổ tay thanh niên kia, mặc cho thân hình người nọ cao lớn, giãy mấy cái làm mặt đỏ lên mà cũng không nhúc nhích mảy may.
Tịch Tà vội vàng cười nói với Lục Quá: “Đây là anh em ta, tên Lý Sư, người Bạch Dương.
Hai người đã gặp rồi đấy”.
Lục Quá đứng lên nói: “Thì ra công công đã khiến y…”
“Đã cái gì?” Lý Sư tỏ vẻ không vui: “Tôi đã nói rồi, tôi không làm”.
Tịch Tà đặt y xuống ghế, cười nhạt bảo: “Không làm cũng được, anh cũng không cần làm chân chạy nữa.
Về thẳng nhà đi, đừng lượn lờ trước mắt tôi nữa”.
Lý Sư lập tức nản lòng, bĩu môi không nói lời nào.
Lục Quá vội lắc tay, nói: “Tôi xin nhận ý tốt của công công trong lòng.
Anh Lý này võ công cao cường, tôi lại từng chịu thiệt thòi từ y, trên đường anh Lý mà sơ xuất, công công tất sẽ trách tôi lợi dụg việc công để trả thù riêng.
Nếu tôi xảy ra chuyện không may ở Bạch Dương, công công cũng sẽ oán giận anh Lý bắt nạt tôi võ công thấp.
Hay là thôi đi”.
Lý Sư nhảy bật lên, bắt vạt áo Lục Quá lại, nói: “Nghe này, Lý Sư tôi sẽ không bắt nạt người khác, có tôi thì anh đừng hòng có sơ xuất gì, đến Bạch Dương rồi, tôi đảm bảo anh sẽ bình an”.
Tịch Tà cười nói: “Vậy là tốt rồi, chuyện này mà được thuận lợi thì chỉ cần hai tháng là về”.
Hắn tác hai người ra, rót cho mỗi bên một chén rượu.
Lý Sư căm tức liếc Lục Quá, “hừ” một tiếng, uống một hơi cạn sạch.
Tịch Tà thấy đã giao củ khoai nóng Lý Sư này vào tay Lục Quá rồi liền vội rút người cáo từ, đi xuống lầu đã thấy Thẩm Phi Phi ngồi uống rượu, cười nói: “Anh Thẩm đang đợi ai đấy?”
Thẩm Phi Phi ngửa đầu nhìn thoáng lên trên lầu, nói: “Dù sao cũng chẳng phải tên ngốc kia”.
“Thế đang chờ tôi à?”
“Có bốn phần”.
Tịch Tà cười nói: “Còn có sáu phần ắt là mong được gặp Minh Châu một lần.
Đáng tiếc giờ nàng ấy còn đang ở hành cung Thượng Giang, mấy ngày nữa mới về”.
Một chén rượu sầu xuống bụng, Thẩm Phi Phi lắc đầu cười khổ nói: “Thẩm Phi Phi tôi tuấn tú lịch sự…”
Tịch Tà vội nói: “Phải”.
“Phong lưu phóng khoáng…”
“Phải”.
“Lại là một người đàn ông thực thụ, có điểm nào không mạnh bằng anh?”
Tịch Tà biết gã đã ngà ngà nên không tức giận, chỉ cười rằng: “Trên trời dưới đất không so được”.
“Vậy anh nói xem, vì sao tấm lòng của nàng đều đặt ở trên người anh?”
Tịch Tà bỗng nghẹn lời, mình cũng trăm mối không lời giải, lắc đầu than thở: “Tôi không biết”.
Thẩm Phi Phi cả giận nói: “Chờ nàng trở lại, tôi phải đi hỏi cho rõ”.
Gã đặt bốp thỏi bạc lên bàn, đứng dậy đi.
Tịch Tà vội vàng gọi người tính tiền, đuổi ra ngoài cửa, Thẩm Phi Phi đã không thấy bóng dáng.
Tịch Tà đi xuyên qua trời chiều nóng hừng hực, một lần nữa suy nghĩ lại buổi nói chuyện với Thẩm Phi Phi, càng nghĩ càng thấy lòng dạ sầu muộn, trán má cực nóng, trở lại trong phòng thì tựa đầu lên trên giường.
Có người nhẹ tay nhẹ chân mở cửa sổ ra cho thông gió, trên bàn đầu giường vang lên tiếp lộp cộp, quần áo lay động dưới đèn, Minh Châu hạ người xuống hỏi: “Lục gia ăn chút đồ nóng cho đổ mồ hôi nhé?”.
Tịch Tà ngửa người, kinh ngạc hỏi: “Sao cô lại về?”.
“Thái hậu về kinh, dĩ nhiên tôi theo về rồi”.
“Có mệt không?”
“Vẫn ổn.
Trái lại Lục gia chạy tới liều mạng, lại chạy về vội vàng, sao không ốm cho được?”
“Bị ốm á? Tự tôi lại không nhận ra”.
Tịch Tà cười nói, ngồi ở bên bàn đón lấy cháo nóng trong tay Minh Châu: “Thái hậu không làm khó cô chứ?”.
Minh Châu suy nghĩ một lát mới nói: “Không ạ.
Lúc nào cũng nghe Ngô Thập Lục mở miệng ra là ‘yêu phụ yêu phụ’ nhưng nhiều ngày đi theo bên cạnh lại cảm thấy bà ta ôn hòa, cũng phân rõ phải trái”.
Tịch Tà nói: “Tôi cũng biết”.
Hắn đảo mắt nhìn thấy sắc trời tối om om: “Mấy giờ rồi, cảm thấy tôi ngủ giấc này đã rất lâu”.
“Còn không phải ư? Đã qua canh ba rồi.
Tôi tới từ lúc ăn cơm tối, gia vẫn ngủ không biết gì.
Vừa nãy Tiểu Thuận Tử thấy hình như lục gia hơi nóng bèn chạy tới gọi tôi dậy”.
Tay