Buỗi lễ thành lập làng diễn ra cực kì long trọng ở cả 2 làng, các quan mặt mày rạng rỡ, quan bà cũng chẳng kém khi Bân cho người của hắn trước khi mua chuộc quan lại thì mua chuộc vợ của họ trước.
Nhờ vợ của họ tác động mở lời thì mọi việc mới hanh thông, đi cửa sau kín gió luôn là lựa chọn đúng đắn, chứ trước mặt thì ai cũng làm khó.
Lễ làm cực kì linh đình, đủ mọi loại lễ, quan khách có chỗ ngồi phục vụ trà nước và bánh, người dân thì đứng xem, đã thế quan trên còn được đọc diễn văn khai mạc, phát biểu cảm nghĩ.
Tất nhiên việc này đã báo từ trước, ngài quan huyện lệnh đã dành ra cả tuần để viết bài diễ văn cho việc thành lập cái làng cũng như công sức thành lập của hắn.
Tới ngày, ngài mở cuộn lụa ra đọc, đọc lê thê keops dài 1 canh giờ, người hầu phải châm cho ngài mấy tuần trà rồi.
dân không chịu nổi nữa vì nghe không hiểu cũng như mệt, ngài tuy được ngồi đọc nhưng uống đống trà ngài cũng mót quá rồi.
Khi ngài đọc xong diễn văn thì tràng pháo tay hô rầm trời, ngài cũng nđược người hầu đưa xuống nhà sau giải quyết nỗi buồn.
Huyện bà và quan huyện lệnh được kiệu từng người vào 1 trong đình để làm lễ kéo tượng và hô thần nhập tượng, trên tượng phủ tấm vải đỏ vẽ đầy lá bùa.
Khi quan lớn kéo tượng và tung bùa ra cho người dân thì mọi người tranh cướp chút vải và bùa.
Những người đứng đầu làng hoan hô vỗ tay vang rôi, quan bà thì vừa cười vừa phe phẩy quạt lông ngỗng, quan huyện lệnh thì cũng hoan hô theo.
Sau đó, là tiết mục đánh chén, hôm nay làng hội lớn nên trưởng làng cho làng mổ 5 con bò và 1 con trâu mở tiệc.
Thời này việc giết trâu bò bị cấm trừ trâu bệnh, già chết hoặc trâu bị gẫy chân , bị thương mất khả năng lao động mới bị thịt, còn không cấm tiệt.
đây là điều lệnh chung của các nước đồng văn.
Mặc dù thời nhà Tùy đã ban bố lệnh giết trâu bò nhưng các quý tộc luôn có cách lách mỗi khi có dịp lễ lớn đó là cho người lên quan phủ báo nhà có con trâu chết rồi chạy ít tiền cho xong truyện.
Các quan cũng biết việc này nhưng mắt nhắm mở cho qua vì có khi cả năm họ mới làm 1 lần, bình thường chẳng ai giết trâu bò cả vì nó rất quý, nó là lực lượng lao động sản xuất lương thực.
Việc làng giết trâu bòi đã báo lên quan huyện, quan huyện cũng cho qua vì họ làm thịt vì mình mà, nên kệ đi.
2 làng được đặt tên là Kim Thành và Liên Tỏa, 2 cái tên này do 2 tên quan huyện lệnh đặt vì 1 thằng họ Kim và 1 thằng có cô vợ yêu tên Liên, 2 cái tên có ý nghĩa thành bằng vàng tỏa ánh kim và đóa sen nở.
Bân mới đầu đặt tên 2 làng là Đa Nem và Tre cho giống với tên nghề truyền thống 2 làng, nhưng tên vừa trình lên quan bị quan gạt phắt vì cho rằng tên ấy quá quê mùa.
Hắn là thành hoàng làng cơ mà, tên không thể quê mùa như thế được nên 2 tên quan huyện lệnh đổi tên 2 làng luôn.
Tuy nhiên, tên cũ vẫn được giữ làm mật khẩu 2 làng.
Có người nói với Bân lầ sao lại để cho lũ xâm lược làm thành hoàng làng ? Bân trả lời :
-Kệ đi cho công việc thông thuận, lại có được sự nâng đỡ của chúng.
Chưa kể sau này khi đại nghiệp phục hưng dân tộc, phục hồi tổ quốc thành công, chúng ta làm chủ thì thay thành hoàng làng cũng được chứ sao.
-Thành hoàng là nơi thờ tự những người có công lập làng và có công với đất nước, bọn xâm lược kia cho chúng tung tẩy lúc đầu đi, sau này xử cũng không muộn.
Tượng bằng gỗ dễ cháy lắm, khi có được thiên hạ thì đúc tượng bằng đồng cho những người con tại làng đấy hi sinh vì tổ quốc làm thành hoàng.
Bân đọc lịch sử về Tùy dạng đế thấy tên này sẽ làm rất nhiều việc năm 608 đến 609, 2 năm này là năm cực thịnh cuối cùng của nhà Tùy.
Sức dân đã căng hết cỡ, 610 không phát triển và đén 612 sau khi thua Cao Câu Ly nướng hơn 1 triệu quân cộng thêm lượng lớn dân phu thì nó bắt đầu xuống dốc.
Điều đó chứng tỏ Bân đã đoán sai, giai đoạn đầu, hắn đã quá ỷ vào trí nhớ của mình mà đoán sai thời điểm diễn ra cuộc chinh phạt Cao Câu Ly đầu tiên.
Chính vì vậy mà dự định bỏ tiền mua chức của hắn ngâm trong nước, kế hoạch chưa đẩy kịp tiến độ, mặc dù đã đẩy nhanh hơn 1 chút nhưng Tùy dạng đế vẫn đánh Cao Câu Ly sớm 2 năm so với dự định của hắn.
Hắn nhầm lần thứ nhất với lần thứ 3 do quá tự tin kiến thức lịch sử của mình.
Năm 608, sức dân Nhà Tùy đã căng như dây đàn, tuy nhiên chưa đến mức phản loạn, Giao Châu tuy không phải đưa người nhưng vật tư và vàng Bạc cũng như lúa gạo lại bị đánh cao thuế, trung thu nhiều nơi.
Tất cả để phục vụ cho công cuộc xây dựng cho các đại công trình, mà xứ Giao Châu ngoài ngọc trai , gỗ quý còn có nhiều vàng, nhất là vùng đông bắc( vùng Tây bắc lúc này chưa nhập bản đồ nước ta, cũng như nhà Tùy).
Ngọc trai, vàng bạc đồ trang trí cho cung điện 1 phần không nhỏ từ vùng này mà ra cả, trong nước bị vét người làm dân phu thiếu người trồng trọt cày cấy thì có lúa gạo ở đây bù vào.
Thuế tăng, giá cả trong nước các mặt hàng tăng, đến lão Phần cũng nói chở lương thực đi bán qua đường biển cũng đã tăng 2 phần lãi do nhiều thợ bị bắt xây dựng công trình.
Không phải nhà Tùy Nhân Từ không bắt phu Giao Châu mà bởi vì Giao Châu quá ít người, dân phu dùng cho quân đội và quan lại tại đây sử dụng đã là cực hạn rồi, lấy đi thì lấy ai trồng lúa, đãi vàng , khai mỏ, lấy gì mà cung cấp cho trung nguyên đang thiếu thốn hàng hóa, lương thực, vật tư do bắt phu quá độ.
Chưa kể vùng này mới chiếm được, mới bình định, văn hóa, ngôn ngữ khác biệt hẳn người Hán, nếu làm căng thì dân chúng hò nhau làm loạn thì khốn, lúc này vật tư cung cấp cho trung nguyên bị cắt đứt khi các công trình đang dang dở, lại phải tốn quân, tiền, dân phu đi dẹp loạn, mất nhiều hơn được nên chúng không làm.
Nhờ vậy mà Bân tăng cường cho thương đội của mình mua bán vật tư hàng hóa như gỗ, muối, gạo vải vóc cho nhà Tùy thông qua con đường buôn lậu, nhất là muối.
Muối là vật tư tối quan trọng , triều đình nắm trong tay, nhưng vẫn để cho các đại gia tộc buôn lậu do số triều đình tung ra thi trường còn xa mới đủ, vì vậy mà mắt nhắm mở cho các thế gia buôn lậu bù chỗ thiếu, mếu không chỉ có kẻ klichs động người dân phản loạn thì nguy.
Tất nhiên, số muối các thế gia buôn lậu cũng không có đủ, vì họ không thể nào lớn bằng triều đình, muối của họ còn trộn cả sỏi lẫn cát để tăng sức nặng bán cho được nhiều.
Hàng của họ đã thiếu mà còn đầu cơ hàng để muối lúc nào cũng ở giá cao.
Tuy nhiên , Bân không ngu mà mang bán muối mình làm ra cạnh tranh với các đại gia tộc, hắn chọn con đường an toàn hơn là tìm 1 – vài đại gia tộc thương nghị cung cấp muối cho họ để họ bán cho nội địa.
Chén canh thị trường nội địa hắn không dành lấy 1 cắc, vì hắn không có đủ sức cũng như không đủ ảnh hưởng, chỉ cần hắn ngo ngoe vào là bị dìm bằng chết bằng đủ thủ đoạn.
Do đó hắn trở thành nhà cung cấp hàng với giá cả thấp hơn 1-2 giá thì sẽ không bị ai soi mói cũng như thu được nhiều lợi hơn mà không bị chén ép.
Chuyến đi tìm đối tác bán muối này hắn đã lên tàu cùng Lão Phần, vì hắn muốn đi đó đi đây mở mang đầu óc cũng như tăm thú các nơi trong cả nước lẫn TQ.
Hiểu rõ hơn quan hệ xã hội thời đại phong kiến đễ chuẩn bị cho các chính sách tiếp theo cho hợp thời đại, chứ mù tịt thế này thì đưa chính sách dù nhân văn, tiến bộ thì cũng thành hỏng.
Đơn cử thời này mà ra chính sách 1 vợ 1 chồng, gia đình 2 con, bình đẳng nam nữ thì có mà phản cả lũ, mà nó còn kìm hãm phát triển của xã hội, ngay trong bộ máy hành chính của hắn chỉ có 10% là nữ, 1 tỷ lệ cực kì hiếm có thời phong kiến.
Hắn cũng m,uốn thăm 3 trung tâm làm muối lậu của mình, xem nó phát triển và xây dựng thế nào, có cần làm những cái gì để phát triển thêm không, hay thiếu thốn cái gì để bổ sung.
Ngoài ra hắn cũng nhân việc này để lên kế hoạch tương lai kìm hãm nhà Đường hùng mạnh, nếu như bọn chúng mà chiếm được Hồ muối Chaka nằm ở huyện Ô Lang, tỉnh Thanh Hải, Tây Tạng thì nguy to.
Lúc này khó có ai có thể ngăn được chúng vì hồ muối này quá lớn, trữ lượng quá nhiều, dân trung quốc hiện đại 1,4 tỷ dân còn ăn không hết, chứ số dân bé như lỗ mũi kia thì thừa mứa.
Nhất là Hoàng tộc Lý thị độc quyền hồ muối, cung cấp đủ muối cho dân chúng chèn ép được các thế giá, nâng cao địa vị cũng như quyền lực, dân Hán ăn đủ muối thì sẽ khỏe phây phây, lúc này đại nghiệp của hắn càng khó , nhất là việc lấy lại toàn bộ lãnh thổ nước Nam Việt cũ càng khó hơn.
Bân lên Tàu để đi vào nam, hắn không bị say sóng lắm do đã nôn mấy lần rồi, giờ phải nằm xuống cho giảm cảm giác say sóng.Ngày xưa hắn đi tàu nhiều, mới đầu có say nôn mật xanh mật vàng, sau đó quen thì không sao nữa, mà hắn cũng đã có thuốc chống say.
Nhưng có điều hắn không để ý là thời hiện đại tàu thuyền có hệ thống cân bằng, tùy vào giá tiền cũng như độ lớn của tàu mà có hệ thống cân bằng bình thường hay cao cấp.
Những siêu du thuyền, thuyền chở hàng công suất lớn hay các con đặt làm riếng cho các tỷ phú thì hệ thống tự cân bằng cực kì hiện đại, người bên trong gần như không phát hiện sự tròng cành của sóng, trừ khi sóng quá lớn hoặc gặp bão.
Thuyền bình dân cũng có nhưng kém hơn nên con người ta có say sóng nhưng nhẹ.
Còn thời bây giờ thì làm gì có hệ thống đấy chứ, hắn lĩnh trọn 100% sự chòng trành này nên ăn đủ, dù đã có thói quen từ trước cũng như thuốc chống say.
Đó là lý do vì sao mà thời này ít người có thể tham gia hải quân cũng như đóng tàu biển cực kì khó so phải chống lại 100 % sức biển với các kết cấu chủ yếu bằng gỗ.
Không phải ai cũng chú ý đến hải quân do hải quân là 1 món vũ khí đốt tiền với đủ mọi huấn luyện