Lại nói, sau khi rời khỏi Cửu Hoa Sơn, hoàn thành công cuộc thảo phạt Cửu Trùng Giáo, Giang Hoài Ngọc đã cho các đàn trở về nguyên vị. Còn đoàn thị vệ thì tiếp tục hộ vệ chàng đi về phương nam, hướng đến là thành Kim Lăng.
Sau khi rời Cửu Hoa Sơn được mười dặm, Giang Hoài Ngọc truyền lệnh dừng lại nghỉ ngơi. Suốt đêm rồi ai nấy đều khó nhọc nên chàng muốn để mọi người có thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức.
Đoàn xa giá trú đóng trên một ngọn đồi thấp, cây cối thưa thớt. Giữa ngọn đồi và quan đạo có một khoảng rừng thưa, nhưng cũng đủ che chắn được sự dòm ngó của khách lữ hành đi trên đường.
Một toán thị vệ tỏa ra xung quanh lo việc cảnh giới. Số còn lại chuẩn bị việc ăn uống nghỉ ngơi. Trong lúc ấy, Giang Hoài Ngọc cùng Quan lão và Bách Lý Hạc ngồi uống trà chuyện vãn.
Mặt trời đã lên khá cao.
Các toán thị vệ cứ luân phiên một toán cảnh giới cho vài toán nghỉ ngơi. Cảnh vật yên bình, chẳng có gì đáng phải lo ngại.
Trời trong gió mát.
Giang Hoài Ngọc ngồi dưới một gốc cây, cũng thiu thiu ngủ. Cả đêm thức trắng khiến chàng thấy mệt.
Không biết đã trải qua bao lâu …
Bỗng nhiên, chàng nghe thấy có tiếng động lạ từ phía xa vẳng lại. Dù rằng chàng đang ngủ, nhưng tâm tư chàng rất linh mẫn. Kể từ lúc chàng gặp đại nạn, thính giác của chàng đã trở nên rất nhanh nhạy. Tiếng động rất nhỏ, và ở khoảng cách rất xa, lại lẫn vào những tiếng lá reo vi vu, thế mà chàng vẫn nghe thật rõ ràng. Có điều, chàng chỉ nhận biết được đó là tiếng quát tháo của ai đó, nhưng không nghe rõ họ đang nói gì, đương nhiên cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Chàng mở mắt nhìn lên, bất giác giật mình.
Quan lão và Bách Lý Hạc đã không còn ở nơi đấy nữa. Chàng đưa mắt nhìn quanh, nhưng vẫn không thấy bóng dáng hai người họ đâu. Chỉ có bọn Tang Lương bốn người đang túc trực xung quanh chàng.
Thấy chàng nhìn quanh, Tang Lương hiểu ý, liền nói :
- Chúa công. Ở phía Tây Nam thấy có kẻ lạ xuất hiện. Nhị vị Tổng quản đều đã đến đó xem xét.
Phía Tây Nam chính là hướng mà chàng đã nghe thấy tiếng quát tháo. Chàng khẽ cau mày, hỏi :
- Khanh có biết là chuyện gì không.
Họ Tang cung kính đáp :
- Không ạ.
Khoảng cách quá xa, đến chàng mà còn chưa nghe rõ được tiếng nói thì đương nhiên bọn Tang Lương cũng chẳng nghe thấy gì. Chàng nói :
- Vậy chúng ta hãy đến đó xem thử.
Nếu là Quan lão hay Bách Lý Hạc thì chắc sẽ ngăn chàng đi. Nhưng bọn Tang Lương nào dám có ý kiến, chàng bảo sao thì phải nghe vậy. Thế là, chàng đi trước, bốn người họ theo sau, cùng đi đến nơi phát ra tiếng quát tháo.
Hướng đi ngày càng đi sâu vào trong, mỗi lúc một xa quan đạo. Bọn Tang Lương nhìn nhau lo lắng, tay nắm chặt vũ khí đề phòng bất trắc. Nhưng Giang Hoài Ngọc vẫn cứ thong thả đi tới. Chàng biết mình đã đi đúng hướng, vì thanh âm mỗi lúc một lớn hơn, và chàng nghe trong đó có cả tiếng nói của Quan lão.
Trải qua hơn mười dặm đường, phía trước mặt hiện ra một dòng suối nhỏ quanh co uốn khúc. Nước chảy róc rách nghe thật vui tai.
Bên dòng suối là một khoảng không thoáng đãng. Một chiếc thạch bàn kê tựa bên bờ. Xung quanh là mấy tảng đá phẳng phiu có thể dùng làm ghế ngồi. Cảnh sắc hữu tình, không gian tĩnh mịch. Nếu không có mấy nhân vật đối diện nhau với vẻ không mấy thân thiện thì thật là nơi thích hợp để hưởng thú thanh nhàn.
Không khí tại nơi ấy có vẻ khá căng thẳng.
Lúc này không còn tiếng quát tháo nữa, bởi song phương đã bắt đầu giao đấu. Hai phe đối diện nhau, mỗi phe mười mấy người đều hầm hầm sát khí. Giữa trường, Quan lão đang giao thủ cùng một lão nhân đầu hói bóng. Bách Lý Hạc cùng đội thị vệ đứng bên ngoài quan chiến. Phía đối diện chừng độ hai chục người, căn cứ theo y phục thì xem chừng thuộc hai nhóm khác nhau.
Chợt thấy Giang Hoài Ngọc cùng Tứ đại thị vệ đi đến, Bách Lý Hạc vội lướt tới nghênh đón, nói :
- Chúa công. Quan lão ca đang thử võ công của bọn người kia.
Lão sợ Giang Hoài Ngọc ngăn cản cuộc chiến nên đã vội nói trước. Chàng nhìn vào đấu trường, thấy hai đối thủ đều đang hăng hái giao đấu, nhưng cuộc chiến cũng không đến nỗi kịch liệt cho lắm, có vẻ như mỗi đấu thủ đều chỉ dùng một phần sức lực. Chàng khẽ cau mày, hỏi :
- Bọn người kia là ai thế. Vì đâu lại đánh nhau.
Bách Lý Hạc nói :
- Lão hói kia là Âm Sơn lão tổ, Khai sơn Tổ sư của phái Âm Sơn. Còn cái lão gầy như que củi kia là Lạc Phách Ma Quân ở Lạc Hồn Cốc. Bọn họ đều là những đại ma đầu hồi mấy mươi năm về trước, cùng thời với Quan lão ca, và đã lâu rồi không thấy xuất hiện trong giang hồ. Bọn họ hội nhau ở đây để giải quyết một trường ân oán nào đó. Bọn lão phu nghe tiếng động thủ liền vội đến xem thử. Quan lão ca sợ bọn họ gây cuộc ồn ào làm mất giấc ngủ của chúa công nên lên tiếng khuyên can. Dè đâu hai lão đã chẳng chịu nghe lời mà còn gây chuyện, thách thức Quan lão ca tỷ đấu. Quan lão ca cũng muốn biết võ công bọn họ đạt tới mức nào nên đã chấp nhận.
Giang Hoài Ngọc nhìn vào cục trường, thầm hiểu rằng sự thật không phải chỉ có thế. Chỉ có điều Bách Lý Hạc không muốn nói tường tận mà thôi. Chàng thấy cuộc chiến cũng không đến nỗi quá kịch liệt đến mức có thể gây thương vong nên cũng không muốn làm Quan lão mất hứng thú. Do vậy mà chàng không lên tiếng khuyên ngăn, chỉ cùng Bách Lý Hạc đi đến chỗ bọn thị vệ.
Lại nói, Quan lão đang giao đấu cùng Âm Sơn lão tổ và xem ra đã chiếm được chút thượng phong, chợt thấy Giang Hoài Ngọc đi đến thì lộ vẻ ngần ngại. Trong lòng lão đang lo ngại chàng sẽ lên tiếng khuyên ngăn, yêu cầu bãi chiến, nên chiêu thế cũng có phần chậm lại, khiến tình thế trở lại quân bình.
Nào ngờ chàng đến nơi rồi lại không ngăn cản mà lại đứng ngoài quan chiến, khiến lão sinh lòng hứng khởi, gia tăng kình lực, từng chiêu từng thức đánh ra dồn dập, liên miên bất tuyệt.
Hôm nay, Quan lão không dùng đến món vũ khí đã tề danh cùng lão là cây bút lông nửa đen nửa trắng, mà lại sử dụng môn công phu chỉ vừa mới luyện thành gần đây là Thiết Tụ Công.
Với bộ hoàng bào theo lối vương giả, hai ống tay áo rộng với người thường sẽ bị xem là vướng víu thì nay đối với Quan lão lại trở nên vô cùng lợi hại. Chỉ với hai chiêu Cẩm Tụ Tế Thiên (tay áo gấm che trời) và Thần Long Hí Vân (rồng thần vờn mây) được lão luân phiên sử dụng, đôi ống tay áo đã dệt nên một màn tụ ảnh mờ mờ, cùng với tụ kình mãnh liệt như cuồng phong bạo vũ chụp lấy đối phương, trấn nhiếp tinh thần, như muốn buộc đối phương phải hạ khí giới chịu thua.
Trong khi đó, Âm Sơn lão tổ cũng không chịu kém, bảo đao trong tay múa tít bảo thủ toàn thân. Thân hình lão ma biến mất trong làn hắc quang mờ mờ kín kẽ. Thanh đao của Âm Sơn lão tổ không phải loại thường, mà đó là thanh Ma Đao trấn sơn, bảo vật truyền đời của Âm Sơn phái.
Bảo rằng không phải loại thường bởi thanh đao kia đã không sáng bóng mà lại sơn đen, bề mặt không trơn láng mà được chạm khắc hàng nghìn mảnh vẩy rồng tinh xảo cầu kỳ. Ngoài lý do trang trí, những hình khắc trên thanh Ma đao còn tiềm ẩm sát cơ. Từng chiếc vẩy rồng được đánh bóng sáng loáng kia là từng mảnh kính nhỏ xíu phản chiếu ánh dương quang, làm hoa mắt địch thủ. Âm Sơn lão tổ là loại người biết tận dụng từng lợi thế nhỏ để thắng địch.
Thế nhưng, sáng hôm nay vầng dương chỉ nhạt nhòa, lại thêm trong rừng thâm u nên thanh Ma Đao không thể phát huy tính năng đặc biệt đó. Và đối thủ của Âm Sơn lão tổ lại là bậc kỳ lão của võ lâm, đang chiếm tiên cơ nhờ ra đòn nhanh như sấm sét, cũng như nội lực có phần thâm hậu hơn.
Đôi ống tay áo chứa đầy chân khí của Quan lão liên tiếp giáng những đòn nặng như búa tạ vào lưới đao, khiến đường đao chậm đi hoặc lệch hướng, để lộ sơ hở. Âm Sơn lão tổ đã phải vận dụng đến quyền chưởng để bổ khuyết. Cách này tạm thời có hiệu quả, nhưng không phải là diệu sách, bởi sức lực con người có hạn, dù nội lực thâm hậu cỡ như Âm Sơn lão tổ thì cũng có lúc sẽ kiệt lực.
Tuy cuộc chiến chưa ngã ngũ, nhưng sự hơn thua đã quá rõ. Càng về sau, phần thắng càng nghiêng về phía Quan lão.
Và rồi cuối cùng thì màn đao quang, chưởng ảnh kín kẽ ấy cũng đã lộ sơ hở. Ống tay áo bên hữu của Quan lão đã len qua được màn đao quang, vươn đến trước ngực của Âm Sơn lão tổ.
Âm Sơn lão tổ đang hăng hái vũ lộng Ma Đao, chợt cảm thấy có một áp lực rất nặng nề dồn ép vào lồng ngực.
Là một đại cao thủ, đã từng trải giang hồ mấy mươi năm, Âm Sơn lão tổ lập tức hiểu ngay chuyện gì, liền vội ngửa người ra sau theo thế Thiết Bản Kiều, rồi hai chân đạp mạnh, cả thân người trượt về phía sau mấy trượng. Đôi thiết tụ mất mục tiêu, giáng thẳng xuống đất đánh “sầm” một tiếng.
Bụi đất bắn tung mù mịt.
Khi cát bụi tan đi, chỗ đứng lúc nãy của Âm Sơn lão tổ giờ đây đã biến thành một cái hố sâu hoắm.
Kình lực của Thiết Tụ thật ghê gớm, nếu lỡ giáng trúng thân người chắc đến phải tan xương nát thịt. Những người bên phe Âm Sơn lão tổ đang đứng ngoài quan chiến đều nghĩ vậy, bất giác rùng mình.
Bao nhiêu đó nhắm cũng đã đủ khiến cho đối phương phải khiếp phục rồi, Quan lão không tấn công tiếp nữa mà thu tay lại, đưa mắt nhìn Âm Sơn lão tổ lúc ấy đang lồm cồm ngồi dậy, miệng tủm tỉm cười.
Thấy uy lực của Thiết Tụ Công lợi hại đến như vậy, Giang Hoài Ngọc khe khẽ thở dài, nói :
- Môn này thật bá đạo.
Quan lão quay lại phân trần :
- Chúa công. Lão phu biết phân biệt nặng nhẹ mà. Tùy đối thủ mà lão phu sẽ vận dụng kình lực thích hợp. Nếu không phải là kẻ đáng chết thì lão phu chẳng bao giờ hạ sát thủ. Chúa công cứ yên tâm.
Lời nói của Quan lão nghe qua cũng không phải vô lý, nhưng với Âm Sơn lão tổ thì lão ta thấy bị sỉ nhục nặng nề. Quan lão nói thế chẳng hóa ra Quan lão muốn giết hay tha ai là tùy ý lão, kể cả Âm Sơn lão tổ cũng không ngoại lệ. Lão tổ hầm hầm nổi giận, chỉ mặt Quan lão, quát :
- Cái lão ngạo mạn kia. Chúng ta đấu tiếp một trận nữa.
Bách Lý Hạc quay sang rỉ tai Giang Hoài Ngọc :
- Chúa công. Xem ra mấy lão quỷ đó đến giờ vẫn chưa nhận ra được lai lịch của Quan lão ca.
Giang Hoài Ngọc khẽ gật đầu. Âm Sơn lão tổ vì chưa nhận ra lai lịch Quan lão nên mới gọi là “cái lão ngạo mạn”. Chứ thường nếu biết đó là những lời nói của Sinh Tử Phán, một đại sát tinh uy vọng lẫy lừng, thì chẳng ai thấy ngạc nhiên. Âm Sơn lão tổ tuy là võ