Hồi 6
MIÊU CÔ NƯƠNG ÐỐI DIỆN HỒ LANG
Nghe chuyện một hồi lâu, mọi người càng thấy khâm phục nhân cách của Hồ Nhất Ðao. Ðược biết Tuyết Sơn Phi Hồ là con trai ông ta, trong lòng ai nấy đều dấy lên một tình cảm khác thường. Tuy gặp anh ta chưa chắc đã có lợi gì song bất giác mọi người đều khao khát được gặp một lần, lại nghĩ chủ nhân nơi đây mời khắp lượt các cao thủ để chuẩn bị nghênh chiến thì e rằng bản lĩnh anh chàng đó hẳn cũng không thua kém gì phụ thân anh ta.
Miêu Nhược Lan bỗng hoảng hốt nói:
-Ôi trời! Các cao thủ được chủ nhân nơi này mời đến cùng cha tôi đều chưa lên núi! Nếu bắt gặp Tuyết Sơn Phi Hồ ở dưới núi, ắt sẽ động thủ. Cha tôi không biết Hồ gia là con trai của Hồ Nhất Ðao bá bá, nếu ông giết mất Hồ gia thì biết làm thế nào?
Bình A Tứ cười nhạt:
-Miêu đại hiệp tuy có tiếng khắp thiên hạ không ai địch nổi, nhưng nếu bảo một nhát kiếm giết được Hồ tướng công thì cũng chưa chắc! Khi cười, vết sẹo dài kéo trên cơ thịt lên càng khiến khuôn mặt người này xấu xí, ghê sợ.
Bình A Tứ lại nói:
-Hôm nay Hồ tướng công lên núi, một là do vận rủi của chủ nhân nơi này, hai là muốn tìm Miêu đại hiệp tỉ thí báo thù. Chỉ vì tôi tận mắt thấy mối giao tình thân thiết giữa hai vị Hồ, Miêu năm xưa, biết kẻ mưu hại Hồ đại gia thực ra là người khác. Tôi có khuyên Hồ tướng công đừng làm khó dễ cho Miêu đại hiệp, nhưng tướng công nói chỉ muốn hỏi trực tiếp Miêu đại hiệp cho rõ ràng mà thôi. Sau ở dưới núi, tôi gặp thầy lang Diêm Cơ này. Tuy xa cách đã hơn hai chục năm song tôi vẫn nhận được ông ta. Khi tôi theo lên núi, đốt thừng leo núi, đổ hết lương thực để cho mọi người cùng chết đói nơi này, cũng kể là báo đáp được ơn nghĩa của Hồ đại gia đối với tôi.
Mấy lời đó khiến mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ năm xưa Bảo Thụ tham của hại người, nay phải chết là đáng lắm. Có điều những người khác chẳng liên quan gì tới chuyện đó mà cũng phải bỏ mạng nơi này thì thật oan uổng quá.
Nhìn nét mặt của mọi người, Bảo Thụ biết họ rất oán trách mình, lão bèn đứng lên cầm lấy bảo đao và hộp sắt, nói to:
-Việc hôm nay, chúng ta phải đồng tâm hiệp lực, cùng tìm cách xuống núi thôi.
Còn tên độc ác này...
Nói chưa dứt, bỗng nghe tiếng vỗ cánh, một con bồ câu trắng bay vào đại sảnh,đậu trên bàn. Miêu Nhược Lan mừng rỡ nói:
-A! Con chim đáng yêu quá!
Cô bước tới đưa tay nhẹ nhàng nâng con chim lên, vuốt ve lưng chim. Chợt thấy chân chim buộc một sợi dây, sợi dây từ chân chim thòng ra tận ngoài cửa. Miêu Nhược Lan bèn kéo vào. Sợi dây rất dài, kéo một thôi một hồi mà vẫn chưa thấy đầu dây. Cô nảy ý tò mò, luôn tay kéo dây, nhưng sợi dây này dường như dài vô tận. Ðiền Thanh Văn bước tới kéo giúp. Hai người thu về mấy chục trượng, bỗng thấy dây hơi nằng nặng, xem ra đầu dây phía kia có buộc vật gì đó.
Vu quản gia mừng quá, kêu to:
-Chúng ta được cứu rồi!
Mọi người đồng thanh hỏi:
-Sao cơ?
Vu quản gia đáp:
-Con bồ câu này do bản trang nuôi, dùng để báo tin giữa trên núi và dưới núi.
Nhất định là anh em bản trang ở dưới núi phát hiện dây leo núi đã bị chặt đứt nên thả chim cho bay lên, đầu dây buộc một vật gì đó để cứu chúng ta xuống núi đây.
Nghe câu đó, Bình A Tứ biến sắc mặt, gầm lên một tiếng rồi nhào tới toan giật đứt sợi dây.
Ân Cát đứng gần nhào người ra chận ngay trước mặt, hai tay gạt ngã Bình A Tứ.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Cô nương, cẩn thận không thì đứt dây đấy!
Miêu Nhược Lan gật đầu. Sợi dây tuy mảnh, nhưng rất bền chắc, hai người càng kéo càng thấy nặng tay mà sợi dây không hề đứt. Kéo một lát nữa, Miêu Nhược Lan đã cảm thấy mỏi, Ðào Tử An nói:
-Miêu cô nương nghỉ đi, để tôi kéo cho.
Nói rồi, Tử An bước tới đón lấy sợi dây.
Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ, Lưu Nguyên Hạc và mấy người nữa đã chạy ra ngoài cửa từ nãy để xem sợi dây kia buộc vật gì cứu họ.
Ðào Tử An và Ðiền Thanh Văn kéo một lúc nữa thì chợt nghe ngoài cửa có tiếng reo mừng ầm ĩ. Tay họ lập tức nhẹ bỗng, xem chừng vật buộc kia đã được kéo lên. Mọi người còn trong sảnh kéo hết ra ngoài. Nguyễn Sĩ Trung và Tào Vân Kỳ đứng ở mép vực, tay họ luân phiên lên xuống bận rộn khác thường, thì ra vẫn còn đang kéo dây. Sợi dây mảnh nối với một sợi dây to hơn, khi sợi dây to hơn thu hết thì kéo theo một dây chão cực lớn.
Mọi người reo hò rồi cùng xúm tay buộc sợi chão vào hai cây thông lớn bên bờ vực.
Lưu Nguyên Hạc nói:
-Chúng ta xuống thôi! Ðể tôi xuống trước!
Nói rồi hai tay nắm lấy chão, toan thả mình xuống núi. Ðào Bách Tuế vội quát:
-Hãy khoan! Sao lại là ngươi xuống trước? Ai biết ngươi xuống tới dưới ấy sẽ làm cái trò quỷ quái gì?
Lưu Nguyên Hạc vặn lại:
-Nếu đúng như người lời ngươi nói thì sau nào?
Ðào Bách Tuế sững người ra, thầm nghĩ người nào trên đỉnh núi này cũng không công tâm, chẳng ai tin ai, bất kể ai xuống trước thì người xuống sau đều không yên lòng. Lão bị hỏi độp một câu như vậy thật cũng khó trả lời.
Tào Vân Kỳ nói:
-Ðể mấy cô nương xuống trước, còn nam tử chúng ta phải rút thăm để phân định trước sau.
Hùng Nguyên Hiến nhỏ nhẹ nói:
-Thế này nhé! Thiên Long Môn, ẩm Mã Xuyên trại cùng Bình Thông tiêu cục chúng tôi, mỗi phái luôn phiên xuống núi một người. Mọi người cùng giám sát thì chẳng còn sợ ai gian trá được nữa.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Thế cũng được! Bảo Thụ đại sư, xin ngài trả lại chiếc hộp sắt đi.
Nói rồi bước sấn tới, chìa tay về phía Bảo Thụ.
Lúc đầu, mọi người chỉ lo đến sống chết an nguy, bây giờ đại nạn đã qua mới lại nghĩ đến cái của báu đó. Vốn dĩ mọi người chỉ biết chiếc hộp sắt là báu vật khác thường của giới võ lâm, nhưng rút cục khác thường ở điểm nào, quý báu đến mức nào họ đều không biết. Ðến khi biết đấy là thanh quân đao của Sấm Vương để lại thì đã thấy vật này không phải tầm thường, lại nghe Bình A Tứ nói thanh quân đao ấy có liên quan đến kho báu lớn của Sấm Vương, mọi người mới càng nóng lòng,đỏ mắt. Các cụ già kháo nhau rằng sau khi Sấm Vương tiến vào kinh thành, các đại
tướng dưới quyền là bọn Lưu Tông Mẫn vơ vét các nhà đại thần tôn thất triều Minh, của báu lấy được chất cao như núi; chẳng bao lâu bị đánh bại, từ đấy số của báu này cùng kho tàng nhiều năm của hoàng thất trong cung nhà Minh đều biệt vô tung tích. Nếu nhờ thanh đao và chiếc hộp sắt mà đào được kho báu thì trên đời này còn có của cải nào sánh ngang được nữa?
Bảo Thụ cười nhạt:
-Thiên Long Môn các ngươi có tài đức gì mà đòi độc chiếm bảo đao? Thanh đao này của Thiên Long Môn đã nắm giữ hơn một trăm năm rồi, bây giờ cũng nên đổi chủ đi thôi!
Nguyễn Sĩ Trung ngạc nhiên, tia mắt dữ dằn. Ân Cát, Tào Vân Kì không hẹn mà cùng sấn tới một bước, đứng bên cạnh Nguyễn Sĩ Trung. Bảo Thụ ngứa mắt nói:
-Chư huynh đệ muốn giở võ phải không? Nhớ năm nào Thiên Long Môn nhờ đao mà được của báu, nay lại vì đao mà mất của báu, như vậy cũng công bằng lắm mà!
Bọn Nguyễn Sĩ Trung cả giận, chỉ muốn nhào tới băm chém lão sư già này thành mấy khúc rồi đoạt lấy bảo đao, song vì sợ võ công cao siêu của lão nên không dám động thủ. Trước ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm của lão, họ đành phải lui lại mấy bước.
Trong một lúc trên đỉnh núi tuyết yên lặng như tờ, chợt Cầm Nhi, cô hầu gái của Miêu Nhược Lan chỉ xuống núi, kêu lên:
-Tiểu thư trông kìa, hình như có người đang lên!
Mọi người hốt hoảng, nghĩ thầm: "Sao chúng ta chưa xuống núi mà lại có người lên thế nhỉ?". Họ ùa cả tới bên mép vực nhìn xuống dưới, chỉ thấy trên sợi dây chão có bóng áo trắng đang leo lên nhanh vun vút. Ðịnh thần nhìn kỹ thì ra là một người đàn ông mặc áo trắng.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Miêu cô nương, phải lệnh tôn không?
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
-Không phải, cha tôi không bao giờ mặc áo trắng cả.
Trong lúc hai tiểu thư nói chuyện, người mặc áo trắng đã leo tới gần thêm. Vu quản gia gọi to:
-Này, tôn giá là ai đấy?
Chợt nghe lưng chừng núi chợt vang một tràng cười, tiếng cười sang sảng làm chấn động cả hang núi. Trong chốc lát, khắp sườn núi đâu đâu cũng âm vang tiếng cả cười.
Thấy Bảo Thụ tay bưng hộp sắt đứng bên bờ vực, Nguyễn Sĩ Trung khẽ kéo tay Tào Vân Kỳ, chỉ vào lưng Bảo Thụ rồi vai phải nhún lên làm động tác hích. Tào Vân Kỳ hiểu ý, biết sư thúc ra lệnh cho mình hích lão ngã xuống núi, thầm nghĩ tên trọc già này bản lĩnh cao cường đến mấy thì từ đỉnh núi cao vạn trượng ngã xuống,làm sao giữ nổi mạng sống? Hộp sắt với bảo đao có rơi xuống cũng không hỏng,lần sau xuống núi tìm là được. Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ gật đầu với nhau rồi cùng đồng thời giơ chân xông thẳng tới sau lưng Bảo Thụ. Lúc này, Bảo Thụ chỉ
cách mép vực chừng hai gang tay, đang chăm chú nhìn phía dưới núi, không hề biết có người đang đột ngột ám hại ở phía sau.
Ðến khi nghe tiếng chân thì Nguyễn, Tào hai người đã xông tới ngay sau lưng.
Bảo Thụ đang kinh ngạc trước thần thái, thân pháp leo núi của người đàn ông áo trắng thì chợt cảm thấy bị đánh từ đằng sau. Hoảng hốt, trong lúc nguy cấp, lão bèn trổ ngay công phu "Thiết bản kiều", ngả người về bên trái. Công phu "Thiết bản kiều" này vốn là tuyệt chiêu cứu mạng tránh ám khí của kẻ địch. Thường lúc ấy ám khí đến quá nhanh, không kịp vọt lên hoặc tránh sang bên cạnh, đành chỉ gồng người rồi bất thần ngả người ra phía sau để ám khí trượt qua mặt, còn hai chân vẫn bám chắc mặt đất. Công phu càng cao thì lưng càng sát đất, cốt nhất là lên xuống
nhanh, người phải thẳng, như thế gọi là "chân như thép đúc, người thẳng như ván,vươn nghiêng như cầu". Chiêu "Thiết bản kiều" này của Bảo Thụ lại khác với chiêu người ta thường dùng, lão không ngửa người về đằng sau mà lại nghiêng sang trái, hai chân như đóng đinh trên bờ vực, người vượt ra khỏng trống, có đến non nửa người nhô ra khỏi đỉnh núi tuyết phủ.
Nguyễn và Tào chạm được vào lưng Bảo Thụ, đang mừng vì tập kích đúng lúc,chợt thấy vai mình hích tới mà trước mắt không hề có chỗ chịu lực. Nguyễn Sĩ Trung võ công tinh diệu, vội vàng lộn một vòng lăn sang bên cạnh, còn Tào Vân Kỳ không kịp thu chân, cứ xông thẳng về phía trước nên rơi luôn người xuống dưới núi.
Mọi người hoảng hốt kêu lên. Bảo Thụ vươn lưng đứng thẳng lại, miệng nói:
-A di đà Phật! Tội nghiệp, tội nghiệp!
Lưng lão đã toát mồ hôi lạnh. Ðiền Thanh Văn sợ hãi, sắp ngất xỉu xuống đất.
Ðào Tử An đứng bên cạnh vội đưa tay đỡ.
Nhìn theo thân hình cao lớn của Tào Vân Kỳ lao thẳng xuống dưới, không ai là không kêu thất thanh, chỉ chốc lát thân hình gã sẽ nát vụn. Bỗng thấy người áo trắng quặp chặt sợi chão bằng hai chân, tay trái ấn vào vách đá, sợi chão cùng với thân hình anh ta như đánh đu, bay nhanh về phía Tào Vân Kỳ.
Lúc này, thời cơ và sức vận ra đều đúng độ. Người áo trắng vươn tay phải túm ngay được lưng áo Tào Vân Kỳ. Ngờ đâu, gã quá nặng, thế rơi rất nhanh, chỉ nghe soạt một tiếng, áo rách toạt, gã lại lao xuống. Trong lúc nghìn cân treo sợi tóc,người áo trắng vươn mình giơ tay, nắm ngay được chân bên phải của Tào Vân Kỳ.
Nhưng hai người vẫn rơi nhanh, thân hình họ càng thấy nhỏ dần, sau mấy chục trượng thì càng rơi nhanh hơn. Người áo trắng dù có võ công cao đến mấy thì sức của hai chân cũng không quặc nổi sợi chão, xem ra chỉ có buông Tào Vân Kỳ thì mới giữ được mạng sống. Trong lúc mọi người đầu ù mắt hoa, bỗng người áo trắng vung tay phải, quăng Tào Vân Kỳ về phía sợi chão.
Tào Vân Kỳ tuy hồn vía lên mây nhưng hai tay chạm vào sợi chão thì lập tức túm chặt ngay lấy. Những ai sắp chết thì dù có vớ được cọng cỏ rác cũng sẽ nắm giữ thật chắc, đến chết cũng không chịu buông, đó là do bản năng cầu sống. Lúc này,Tào Vân Kỳ cũng vậy. Võ công của gã vốn không đủ để nắm chắc lấy sợi chão,tránh cho hai người khỏi phải rơi nhanh, nhưng không biết sức lực ở đâu mà phút chốc tăng lên đến mấy lần. Sợi chão lạng đi, mang theo hai người bay sang phía trái. Người áo trắng vận sức ở lưng, lộn người lại là tay trái đã nắm được chão. Anh
ta nói vài câu gì đó bên tai Tào Vân Kỳ rồi vỗ vỗ vào lưng gã. Hồn vía còn đang trên mây nhưng Tào Vân Kỳ vừa nghe mấy câu đó chẳng khác nào tiếp được thánh chỉ, vội vàng hai tay luôn phiên nắm chão leo lên.
Ðứng bên bờ vực, mọi người tận mắt thấy cảnh nguy hiểm táng đởm kinh hồn đó, miệng ai nấy há hốc. Tào Vân Kỳ leo được đến bờ vực, Ân Cát và Chu Vân Dương lao ngay tới túm chặt hai tay gã kéo lên, rồi cùng hỏi:
-Người áo trắng là ai vây?
Tào Vân Kỳ thở hổn hển đáp:
-Vị anh hùng đó bảo tôi lên báo rằng... Tuyết Sơn Phi Hồ đã tới!
Khí thế của người áo trắng khiến mọi người đều hoảng, đều sững người ra một lúc. Chợt có ai đó kêu lên "ối chao" rồi chạy vội vào trong trang trại.
Chẳng còn kịp nghĩ ngợi, mọi người cùng chạy qua cổng. Ðào Bách Tuế, Lưu Nguyên Hạc, Nguyễn Sĩ Trung cả ba cùng lúc tới cổng, người nọ chen đẩy người kia tranh nhau vào trước. Tào Vân Kỳ nhanh chân đến đỡ Ðiền Thanh Văn, trong lúc vội vàng túi bụi đó, gã cùng Ðào Tử An còn kịp choảng nhau mấy quả. Sau một hồi náo loạn, người ngoài cổng đã chạy vào hết, chẳng còn một ai. Vu quản gia và Cầm Nhi đỡ Miêu Nhược Lan ào sau cùng, thì vừa vặn cổng đóng.
Thấy Hùng Nguyên Hiến đóng cổng. Ân Cát lập tức mang gióng cổng ra tra ngay vào.
Ðào Bách Tuế còn sợ chưa đủ chắc, lấy thêm cột chống chèn thật chặt.
Lúc này, Ðiền Thanh Văn đã tỉnh, nói:
-Cái tên Tuyết Sơn Phi Hồ đó vốn không quen biết gì ta, việc gì phải sợ hắn?
Nguyễn Sĩ Trung lừ mắt:
-Vốn không quen biết à? Hừm, cha cô tử thù với cha hắn, hắn chịu tha cho cô chắc?
Lưu Nguyên Hạc cũng nói:
-Chúng ta làm Bình A Tứ bị thương, tên Tuyết Sơn Phi Hồ ấy chịu bỏ qua sao?
Ðào Tử An bỗng chỉ tay ra phía đầu tường, nói:
-Chúng ta chặn chắc cổng, hắn lại không thể vào bằng lối kia à?
Nguyễn Sĩ Trung đáp:
-Ðúng thế! Ðào thế huynh, hãy lên trên cao canh chừng!
Ðào Tử An cười nhạt:
-Nguyễn sư thúc võ công cao, xin mời hãy lên trên đó!
Lời vừa dứt, bỗng nghe rắc rắc mấy tiếng cực lớn, cột chống và gióng cổng đều gãy tan, rồi ầm một tiếng nữa, hai cánh cổng lớn đã bị đẩy tung. Mọi người sợ hãi kêu to, ùa chạy cả vào sân trong, chỉ một loáng trên đại sảnh đã chẳng còn một ai.
Khi thoạt nghe Bình A Tứ kể những chuyện trước kia của Hồ Nhất Ðao, mọi người đều muốn gặp người con còn sống sót của ông, nhưng khi chính Tuyết Sơn Phi Hồ thực sự lên núi, tận mắt thấy thân thủ của chàng siêu việt đến thế, ai nấy đều bất giác thấy ớn, lại thấy trong bọn có người bỏ chạy, hù nhau sợ hãi, anh sợ tôi càng sợ, bao nhiêu hào khí hùng phong thường ngày đều tan biến lên trời xanh tất cả.
Vu quản gia toan tìm Bảo Thụ ra chống chọi lại, nhưng nhìn quanh chẳng thấy Bảo Thụ đâu, không biết lão núp vào xó nào, thầm nghĩ "Chủ nhân giao mọi việc trên trang trại cho ta, thôi thì dù phải liều chết cũng bảo toàn cho được thể diện của chủ nhân". Quản gia bèn khẽ bảo Miêu Nhược Lan:
-Cô nương mau vào buồng phu nhân, cùng phu nhân tránh vào mật thất dưới hầm, đừng để cho ai thấy. Bọn người trên này chẳng ai có tâm địa tốt cả, để tôi ra gặp Tuyết Sơn Phi Hồ.
Miêu Nhược Lan liếc nhìn Trịnh Tam Nương và Ðiền Thanh Văn, nói:
-Tôi đưa hai vị này cùng xuống hầm nhé!
Vu quản gia vội vàng lắc đầu, nói nhỏ:
-Chớ, hai người đàn bà ấy chắc gì đã là người tốt. Cô nương và phu nhân đều là bậc thiên kim, xin đừng để ý đến người khác.
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu anh chàng họ Hồ đó muốn giết người đốt trại, ông ngăn cản được sao?
Vu quản gia đưa tay chạm vào cán thanh đao giắt ở lưng, buồn bã đáp:
-Hôm nay là ngày Vu mỗ lấy cái chết để báo ơn chủ. Chỉ cần phu nhân và cô nương bình an vô sự là Vu mỗ không hổ thẹn với chủ nhân rồi.
Miêu Nhược Lan nghĩ ngợi giây lát, nói:
-Tôi và ông cùng ra gặp anh chàng họ Hồ.
Vu quản gia cuống lên, cáu:
-Miêu cô nương, cô nương không nghe lão hoà thượng đó nói rằng lệnh tôn
Miêu đại hiệp và hắn có mối thù giết cha đó sao! Nếu cô nương không chịu tránh,rơi vào tay hắn thì... thì...
Miêu Nhược Lan cắt ngang:
-Từ khi tôi nghe cha tôi kể chuyện cũ của Hồ bá bá, tôi luôn mong cho con ông còn sống trên đời và cũng mong thế nào cũng có ngày gặp mặt. Việc gặp hôm nay tuy nguy hiểm nhưng nếu từ đây không còn được gặp mặt nhau, tôi sẽ ôm hận suốt đời.
Mấy lời này tuy ôn hoà hiền dịu song ý tứ thì rất kiên định. Vu quản gia biết không thể trái lời, thầm nghĩ:
-Cô gái này, sức chẳng đủ trói gà mà sao dũng cảm kiên quyết đến thế. Thật không hổ thẹn là con gái Miêu đại hiệp Kim Diện Phật! Những là "Trấn Quan Ðông", "Uy Chấn Thiên Nam", danh hiệu kiêu đấy, nhưng so với Miêu cô nương nếu bọn họ không xấu hổ mà chết thì cũng là bọn mặt dày mày dạn quá lắm!
Vu quản gia vốn cũng sợ hãi nhưng thấy Miêu Nhược Lan thần sắc điềm tĩnh thì nỗi sợ giảm đi liền. Ông ta buộc chặt lại dây lưng, đặt hai chén có nắp bằng sứ hoa xanh lên khay trà, rót nước trà vào rồi đi ra ngoài sảnh.
Miêu Nhược Lan theo sau.
Vu quản gia bước ra khỏi sảnh thấy người áo trắng nghoảnh mặt ra phía ngoài,hai tay chống nạnh, ngửa mặt nhìn trời, bèn nói to:
-Hồ đại gia xa xôi đến đây, chúng tôi không nghênh đón từ trước, xin thứ lỗi.
Nói xong, dâng trà tới. Người áo trắng nghe tiếng Vu quản gia liền quay đầu lại,nhìn ngay thấy Miêu Nhược Lan.
Cô tiểu thư xinh xắn thanh nhã này có vẻ yếu ớt mà yêu kiều, mắt trong như sao xa, ngượng ngùng e thẹn đứng đó khiến chàng bất giác ngẩn người.
Miêu Nhược Lan hấy người đó râu quai nón đâm tua tủa, tóc rậm nhưng không tết bím, để lật ngang dựng ngược như cỏ rối thì cũng kinh ngạc. Từ nhỏ cô đã có tình cảm thương xót tiếc nuối cho con trai Hồ Nhất Ðao; mỗi khi nghĩ đến đều thương y bị người ta bắt nạt ngược đãi đủ điều. Nay mới được gặp mặt, cô không ngờ y lại là một trang nam tử mạnh mẽ dữ dằn như vậy, trong lòng không khỏi vừa kinh hoàng, vừa thất vọng. Song cô lại nghĩ thầm: "Hồ Nhất Ðao bá bá dung mạo oai nghiêm, con trai bá bá sinh ra cũng phải như vậy, có gì là lạ? Chỉ vì lâu nay mình nghĩ nhầm về y mà thôi".
Nghĩ vậy, cô liền bước tới cúi chào, miệng khẽ nói:
-Tướng công vạn phúc!
Hồ Phỉ với biệt hiệu Tuyết Sơn Phi Hồ lần này đến lên núi cầm chắc sẽ quyết đấu một trận sống mái với các cao thủ tụ tập trên đỉnh núi, nào ngờ người trên trang trại ra gặp lại là một cô tiểu thư xinh đẹp, chàng bất giác ngạc nhiên thầm nghĩ "Cứ để xem họ giở quỷ kế gì!". Ðoạn cũng vái chào lại, nói:
-Tại hạ Hồ Phỉ xin chào! Dám hỏi quý tính cao danh của cô nương?
Vu quản gia đưa mắt ra hiệu cho Miêu Nhược Lan, ngầm bảo cô bịa ra cái tên giả, chớ có để lộ mình là con gái Miêu Nhân Phượng. Nào ngờ Miêu Nhược Lan dường như không hiểu ý, nói luôn:
-Hồ thế huynh, chúng ta thuộc hai họ có mối giao tình nhiều đời nay, tiếc là chưa từng gặp mặt nhau bao giờ đấy thôi. Tôi họ Miêu.
Hồ Phỉ thấy ớn lạnh trong lòng nhưng không hề để lộ ra nét mặt, hỏi tiếp:
-Cô nương là thế nào với Miêu đại hiệp Kim Diện Phật?
Ðứng bên cạnh Miêu Nhược Lan, Vu quản gia cuống lên, vội giật vạt áo cô,song cô vẫn không để ý, đáp:
-Kim Diện Phật là gia phụ của tôi.
Hồ Phỉ giật mình, nghĩ thầm "thì ra là cô ta", miệng nói:
-Cớ sao lệnh tôn không ra tương kiến?
Vu quản gia sờ tay vào cán đao, sợ Hồ Phỉ xuất thủ mưu hại. Khi liếc mắt nhìn Miêu Nhược Lan, ông thấy thần sắc cô vẫn như thường, bất giác than thầm: "Cô gái này nhỏ tuổi không hiểu biết gì thật! Ðứng trước mặt là kẻ có mối thù cha bị giết, thế mà cô ta vẫn chẳng biết trời cao đất dày chi hết, nói toạc chân tướng của mình!
Lại nghe cô đáp:
-Cha tôi chưa lên núi. Nếu ông biết Hồ thế huynh là con trai kẻ thù thì dù có việc cần kíp lớn như trời cũng gác lại để tới đây gặp mặt.
Hồ Phỉ lấy làm lạ, hỏi:
-Cô nương biết thân thế của tại hạ mà lệnh tôn lại không biết là cớ làm sao?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Cũng chỉ vừa nghe lệnh hữu họ Bình nói mới biết đó thôi!
Hồ Phỉ nói:
-A, thì ra Bình Tứ thúc thúc đến đây rồi. Ông ấy đâu?
Vu quản gia sững người, liếc nhìn quanh đại sảnh nhưng không thấy bóng dáng Bình A Tứ đâu. Vết máu tươi loang trên đất vẫn chưa khô, ông thầm nghĩ: "Từ lúc chim bồ câu tha dây lên, ai nấy chỉ nghĩ đến việc xuống núi để thoát chết nên quên bẵng con người ấy. Hắn là ân nhân cứu mạng của Hồ Phỉ, nếu hắn có chuyện gì bất trắc, hẳn tai vạ càng lớn hơn mất thôi!"
Thấy Vu quản gia nhìn vết máu tươi trên mặt đất rồi tái mặt đi, Hồ Phỉ quát to:
-Máu của Bình thúc thúc ta có phải không?
-Phải ạ! -Vu quản gia không dám nói dối, đành lên tiếng đáp.
Hồ Phỉ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhờ Bình A Tứ nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn,tình cảm sâu nặng như cha đẻ, lẽ nào nghe thấy thế chẳng thất kinh? Bèn nhảy vọt đến trước mặt, giơ tay nắm chặt lấy cánh tay phải Vu quản gia, nghiêm giọng quát:
-Thúc thúc ta ở đâu? Ra... sao rồi?
Vu quản gia cảm thấy đau đớn khác thường, chẳng khác gì hai gọng kìm càng kẹp càng chặt, đành nghiến răng gắng sức chịu đau, mồ hôi trán rỉ ra to bằng hạt đậu, nhưng không nói được lời nào.
Miêu Nhược Lan từ tốn nói:
-Hồ thế huynh bất tất phải nổi nóng, Bình thúc vẫn bình yên ở trong kia!
Nói xong, cô chỉ tay vào căn buồng mé tây, Hồ Phỉ buông cánh tay Vu quản gia rồ i nhún người"bình" một nhát, đá tung cửa phòng đó ra. Thấy Bình A Tứ nằm trên giường thở nặng nhọc, Hồ Phỉ mừng quá gọi:
-Thúc thúc không việc gì chứ?
Từ nãy ở trong buồng, Bình A Tứ đã nghe tiếng Hồ Phỉ, bèn đáp nhỏ:
-Không việc gì đâu, cháu yên tâm!
Hồ Phỉ nhào tới trước mặt, thấy Bình A Tứ mặt vàng như nghệ, hơi thở yếu ớt thì nỗi mừng vừa nãy chuyển ngay thành nỗi lo. Chàng hỏi:
-Làm sao mà thúc thúc bị thương? Vết thương có nặng lắm không?
Bình A Tứ đáp:
-Việc này nói ra dài lắm. Nếu không có Miêu cô nương cứu cho thì đời ta không còn gặp cháu nữa!
Thì ra mọi người thấy chim bồ câu trắng kéo dây lên thì ùa cả ra ngoài sảnh như ong vỡ tổ. Miêu Nhược Lan thừa cơ, cùng Cầm Nhi vực Bình A Tứ vào căn phòng mé Tây. Sau đó, Bảo Thụ toan hại tính mạng Bình A Tứ song tìm không thấy và tình thế khẩn cấp chẳng kịp tìm kĩ, nhờ đó Bình A Tứ mới được bảo toàn.
Hồ Phỉ gật đầu, lấy từ trong túi ra một viên thuốc màu đỏ, bỏ vào miệng Bình A Tứ, nói:
-Thúc thúc hãy uỗng viên thuốc trị thương này.
Thấy Bình A Tứ đã nuốt viên thuốc, Hồ Phỉ mới yên tâm trở ra ngoài sảnh vái dài Miêu Nhược Lan một cái, nói:
-Ða tạ cô nương đã cứu mạng thúc thúc tôi.
Miêu Nhược Lan vội vái đáp lễ, nói:
-Bình thúc thúc là người nhiệt thành, tiểu muội lấy làm khâm phục. Chút công nhỏ đó có gì đáng nhắc tới đâu?
Hồ Phỉ nói:
-Sống chết là việc lớn, sao lại có thể là công nhỏ được? Tại hạ cảm kích vô cùng.
Miêu Nhược Lan thấy dáng vẻ chàng thô kệch, song nói năng rất nho nhã bèn nói:
-Hồ thế huynh từ xa đến đâu mà trang trại lại không có gì khoản đãi. Cầm Nhi,mang rượu ra đây!
Hồ Phỉ nói:
-Chủ nhân nơi này có hẹn sẽ gặp vào chiều nay, sao đến lúc này vẫn còn chưa ra mắt?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Chủ nhân vì có việc gấp phải xuống núi, có thể giữa đường gặp chuyện gì đó không kịp trở về nên lỡ hẹn với thế huynh, tiểu muội xin tạ lỗi trước.
Thấy nàng ứng đối phải phép, Hồ Phỉ càng lấy làm lạ, thầm nghĩ: "Họ Miêu,Phạm, Ðiền xưa nay vẫn cho là lắm nhân tài, làm sao bọn nam tử đều núp phía sau để cho cô thiếu nữ chân yếu tay mềm như thế này ra chống đỡ? Cô gái lại tỏ ra không hề sợ ta, lẽ nào cô ta võ nghệ cao cường mà cố ý giấu kỹ không để lộ ra?".
Nghĩ tới đây, thấy Cầm Nhi tay đỡ cái khay gỗ, trên khay là một hồ rượu lớn và một cốc uống rượu. Cầm Nhi tay trái đỡ khay, tay phải rót rượu ra cốc, tươi cười nói:
-Hồ tướng công, gà vịt thịt cá cùng rau quả trên núi đều bị Bình thúc thúc của ngài đổ đi hết rồi. Xin lỗi nhé, đành mời ngài chén rượu suông này vậy!
Hồ Phỉ thấy cái khay vừa vặn ở giữa chàng và Miêu Nhược Lan, lập tức giơ tay trái khẽ đẩy mép khay, cái khay xô thẳng vào vai Miêu Nhược Lan. Cú đổ này tuy tựa hồ xuất thủ rất nhẹ mà thực là mượn sức đánh người. Người bị đánh nếu không biết mà chống đỡ thì chẳng khác nào bị binh khí sát thương. Miêu Nhược Lan không biết võ nghệ nên chỉ theo lẽ tự nhiên nhún nhường một chút chứ không biết xuất chiêu hoá giải sức mạnh đó, xem ra lần này nàng không tránh khỏi bị thương.
Vu quản gia thất kinh. Tự biết võ công của mình thua kém Hồ Phỉ rất xa, dù có bất chấp tính mạng xông tới cứu viện cũng chẳng được việc gì, đành kêu to:
-Ôi chao!
Chỉ thấy hai ngón tay trái của Hồ Phỉ đã nhanh nhẹn phi thường níu lại cái khay.
Ðộng tác này phối hợp cực chuẩn, mép khay chỉ vừa đủ chạm nhẹ vào áo ngoài của Miêu Nhược Lan thì dừng ngay. Nàng không hề biết rằng chỉ trong nháy mắt nàng đã đi một vòng từ sống tới chết và từ chết trở về cõi sống.
Hồ Phỉ nói:
-Lệnh tôn đi khắp thiên hạ không ai địch nổi, làm sao lại không truyền võ công cho cô nương? Vốn từng nghe trong kiếm môn của Miêu gia, con trai con gái đều được truyền như nhau cơ mà?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Cha tôi quyết ý hoá giải mối oán thù nhằng nhịt hơn một trăm năm nay cho nên kiếm pháp của nhà họ Miêu đến cha tôi thì dứt, không còn truyền cho con cháu nữa.
Hồ Phỉ rất ngạc nhiên, tay cầm chén rượu cứ để ngang lưng chừng, lát sau mới đưa lên môi uống rồi nói to:
-Miêu Nhân Phượng, Miêu đại hiệp! Hay lắm, quả là xứng đáng với hai chữ "đại hiệp"!
Miêu Nhược Lan ói:
-Tôi từng nghe cha tôi kể chuyện của lệnh tôn ngày trước. Lúc ấy lệnh đường mời cha tôi uống rượu, người xung quanh đều nói đề phòng trong rượu có thuốc độc. Cha tôi nói: "Hồ Nhất Ðao là anh hùng trong thiên hạ, quang minh lỗi lạc, há chịu giở thủ đoạn đê tiện đó sao?". Hôm nay tiểu muội mời thế huynh uống rượu.
Hồ thế huynh cũng điềm nhiên uống cạn, lẽ nào không sợ người khác ám hại hay sao?
Hồ Phỉ cười, lấy từ trong miệng ra một viên thuốc màu vàng, nói:
-Tiên phụ trúng gian kế của kẻ khác mà chết, nếu tôi không đề phòng chẳng phải ngu ngốc hay sao? Viên thuốc này giải độc rất tốt, chất độc nào cũng không xâm hại được. Có điều vừa nãy nghe cô nương nói, hoá ra lòng dạ tôi mới thực hẹp hòi!
Nói xong, chàng tự rót thêm chén rượu nữa và uống cạn. Miêu Nhược Lan nói:
-Trên núi không có gì để nhắm, thực là xem thường khách. Tiểu muội lượng hẹp, lại không thể bồi tiếp bậc quân tử. Người xưa tìm hứng uống rượu bằng thơ phú, nay tiểu muội có một cây đàn, xin gẩy một khúc mua vui, nhưng chỉ e làm rát tai mắt thôi.
Hồ Phỉ mừng rỡ nói:
-Xin được nghe khúc đàn!
Cầm Nhi không đợi chủ sai bảo đã vào phòng trong ôm ra một cây đàn cổ, đặt lên bàn, lại thay một lò hương mới.
Miêu Nhược Lan buông lơi cổ tay, "tình tang, tình tang" dạo lên mấy tiếng rồi đàn tiếp, sau đó vừa gảy đàn vừa khe khẽ hát:
Ngày sau đại hạn
Miệng khát lưỡi khan
Hôm nay vui vẻ
Ðều cùng hỉ hoan
Trải qua non cao
Cỏ Chi lật ngang
Tiên ông Vương Kiều
Cho thuốc một hoàn
Hát đến đây, tiếng dàn còn vang mà lời lời hát đã dứt.
Hồ Phỉ trải qua bao khổ nạn thời niên thiếu, chỉ biết chuyên tâm luyện võ, hơn hai tuổi mới học chữ nhưng cũng nghe hiểu bài ca cô gái hát hát là khúc Thiện tai hành, một bài hát chủ khách đáp tặng nhau trong yến hội thủa xưa. Nhưng từ đời Hán, Nguỵ trở về sau ít người dạo hát, không ngờ hôm nay lên núi báo thù lại gặp được một việc giàu phong vị cổ xưa đến thế. Trong tám câu nàng hát, bốn câu trước khuyên mời khách tận hứng uống rượu, bốn câu sau chúc tụng khách trường thọ. Vừa nãy, Hồ Phỉ ngậm viên thuốc giải độc trong miệng thì vừa hay trong câu hát cũng có nhắc đến thuốc tiên Linh Chi, như thế là hàm hai nghĩa vậy. Chàng bèn vỗ nhẹ và ngâm theo:
Tiếc tay áo ngắn
Cánh tay lạnh ran
Thẹn không vật lạ
Báo đáp Triệu Tuyên..
Lời ngâm này có nghĩa chủ nhán ân cần tiếp đón khiến khách tự thẹn không có vật gì xứng báo đáp.
Miêu Nhược Lan nghe chàng đáp lại cũng bằng lời ca trong khúc Thiện tai hành thì rất vui, thầm nghĩ: "Người này văn võ song toàn, nếu cha mình biết Hồ bá bá có người con nối dõi như thế ắt là sung sướng lắm!".
Liền đó nàng hát nối:
Trăng tà, Bắc Ðẩu
Treo ngang lan can
Bạn thân đến cửa
Ðói chẳng kịp ăn
Mấy câu này ý nói tuy trời đã tối, nhưng có khách đến thăm, chủ nhà mừng quá chẳng kịp ăn cơm.
Hồ Phỉ cũng tiếp lời:
Ngày vui vốn ít
Buồn khổ nhiều mà
Lấy gì khuây khỏa
Rượu, đàn, hát ca
Hoài nam tám vị
Vui đạo quên hà
Cưỡi xe sáu rồng
Chơi chốn mây xa
Bốn câu cuối cùng ngỏ ý chúc chủ nhà thành tiên trường thọ, tương ứng với lời chúc lúc đầu của chủ nhà.
Hồ Phỉ ngâm xong nâng chén rượu uống cạn rồi vòng tay đứng chờ.
Miêu Nhược Lan cũng phẩy dây ngừng đàn, đứng lên. Hai người ngoảnh mặt vào nhau mà thi lễ.
Hồ Phỉ đặt chén lên bàn nói:
-Chủ nhân trang trại hôm nay chưa về kịp, vậy ngày mai tôi xin đến thăm.
Nói xong, chàng rảo bước tới căn phòng phía Tây, cõng Bình A Tứ lên lưng, khẽ cúi chào Miêu Nhược Lan rồi ra khỏi đại sảnh. Miêu Nhược Lan ra cổng tiễn thì chỉ thấy lưng chàng thấp thoáng bên bờ vực rồi chàng theo dây tuộc xuống dưới chân núi. Nàng lặng lẽ ngây người nhìn tuyết trắng phủ khắp núi. Cần Nhi lên tiếng nhắc:
-Tiểu thư nghĩ gì thế? Mau vào nhà đi, lạnh đấy!
Miêu Nhược Lan đáp:
-Ta không thấy lạnh.
Thực ra lòng cô đang nghĩ gì cô cũng không biết. Cầm Nhi giục đến lần thứ hai,cô mới chậm rãi trở vào trong phòng. Vào tới đại sảnh, cô thấy mọi người ngồi đầy cả sảnh. Thì ra vừa nãy họ trốn mất tăm mất tích, trong chốc lát không biết lại từ đâu kéo ra. Ai nấy nhao nhao hỏi:
-Hắn đi rồi à?
-Hắn nói những gì?
-Hắn bảo khi nào quay lại?
-Hắn lên núi để báp thù phải không?
-Hắn muốn tìm ai?
Miêu Nhược Lan thầm coi khinh lũ người nhát gan này. Khi nguy cấp ai nấy đều bỏ chạy, để mặc một người con gái yếu đuối như cô đối phó với kẻ địch mạnh, bèn chỉ nhạt nhẽo đáp:
-Vị ấy chẳng nói chi hết!
Bảo Thụ bảo:
-Tôi không tin. Cô đón tiếp hắn một lúc lâu như vậy, thế nào hắn cũng phải nói gì chứ?
Miêu Nhược Lan vốn không ưa những kẻ gây chuyện, nhưng lúc này lòng cô vui sướng, tim cô lâng lâng, cô chỉ muốn trễu cợt người khác. Thấy ai nấy đều tỏ ra háo hức, cô bèn nói:
-Hồ thế huynh bảo lần này lên núi là cốt báo thù cho cha, nhưng tiếc rằng kẻ thù đã lánh mặt. Bây giờ vị ấy chờ ở dưới núi, đợi kẻ thù xuống núi, xuống một người,giết một người, xuống hai người, giết hai người.
Mọi người sợ hãi đều nghĩ: "Trên núi không có lương thực, dưới núi lại có thái tuế hung dữ đợi sẵn, thế thòi biết làm sao đây?".
Miêu Nhược Lan nói:
-Hồ thế huynh có nói số người trên núi ai cũng có thù, chỉ có thù ít hoặc thù nhiều mà thôi. Vị ấy ân oán phân minh, thù nhiều trả nhiều, thù ít trả ít, không bao giờ trả thù nhầm người tốt. Vị ấy có nhờ tôi hỏi chư vị vì sao lại cùng đến nơi giá rét này ngoài quan ải này, phải chăng là muốn hợp sức hại vị ấy?
Trừ Bảo Thụ ra, mọi người đều nhất loạt đáp:
-Trước đây chúng tôi chưa bao giờ nghe danh Tuyết Sơn Phi Hồ thì làm gì có thù oán với y? Càng làm gì có chuyện chung sức hại y?
Miêu Nhược Lan nói với Ðào Bách Tuế:
-Ðào bá bá, cháu có một việc không hiểu rõ, xin được thỉnh giáo.
Ðào Bách Tuế đáp:
-Cô nương cứ nói.
Miêu Nhược Lan nói:
-Vừa nãy, Bình Tứ thúc thúc kể Hồ Nhất Ðao bá bá có nhờ đại sư Bảo Thụ chuyển lại cho cha cháu về ba việc lớn, nhưng cha cháu kể lại đầu đuôi sự việc thì không hề nhắc tới chi tiết này. Bá bá từng nói biết rõ nguyên do, vậy bá bá có thể cho cháu nghe được không?
Ðào Bách Tuế đáp:
-Cô nương dù không hỏi, tôi cũng đang định kể đây!
Rồi chỉ vào bọn Nguyễn Sĩ Trung, Ân Cát, Tào Vân Kỳ, lão lớn tiếng nói:
-Mấy vị anh hùng của Thiên Long Môn này vu cáo cho con tôi giết chết thân gia Ðiền Quy Nông! Hừm, hừm!
Vốn dĩ thường nói lớn, lúc này lão đang tức giận nên tiếng nói vang như lệnh vỡ:
-Tôi sẽ kể câu chuyện đó từ đầu, xin các vị công tâm nhận xét phải trái, đúng sai hộ cho!
Ân Cát nói:
-Hay lắm, hay lắm! Chúng tôi đang muốn thỉnh giáo Ðào trại chủ đây!
Hồi 7
NHỮNG BÍ ẨN CỦA THIÊN LONG MÔN
Ðào Bách Tuế hắng giọng nói:
-Hồi trẻ, tôi cùng Ðiền Quy Nông cùng nhau làm nghề buôn bán không cần vốn...
Mọi người đều biết ông ta vốn là tay lục lâm, đại trại chủ của ẩm Mã Xuyên Sơn, nhưng không hề biết Ðiền Quy Nông cũng từng là tướng cướp. Ai nấy đưa mắt nhìn nhau.
Tào Vân Kỳ kêu lên:
-Nói bậy! Sư phụ ta là hào kiệt trong chốn võ lâm. Ông đừng có ăn nói bừa bãi,làm bẩn thanh danh sư phụ ta!
Ðào Bách Tuế nghiêm giọng nói:
-Ngươi coi thường anh hùng hắc đạo ư? Nhưng anh hùng hắc đạo có coi bọn chó má nhát gan như ngươi ra gì? Chúng ta mở núi lập trại, dựa vào một thanh đao, một mũi thương mà mưu sinh, so với công việc coi nhà giữ cửa, bảo tiêu làm quan của các ngươi, thử hỏi kém cạnh ở điểm nào?
Tào Vân Kỳ đứng lên toan cãi nữa. Ðiền Thanh Văn kéo áo hắn, bảo nhỏ:
-Sư huynh, đừng cãi nữa, để cho lão kể tiếp đã nào!
Tào Vân Kỳ mặt đỏ tía tai, gườm gườm nhìn Ðào Bách Tuế rồi cũng chịu ngồi xuống.
Ðào Bách Tuế cao giọng nói:
-Ðào Bách Tuế ta đây từ nhỏ đã ở chốn lục lâm, chuyện đánh người cướp của xưa nay chưa từng giấu giếm nửa lời. Ðại trượng phu dám làm dám chịu, sợ cái quái gì?
Miêu Nhược Lan thấy lão nói chệch sang chuyện khác, vội bảo:
-Ðào bá bá, cha cháu cũng nói trong chốn lục lâm thẩy đều là anh hùng hào kiệt,chẳng ai dám coi thường đâu. Bá bá hãy kể tiếp chuyện Ðiền thúc phụ đi!
Ðào Bách Tuế chỉ mặt Tào Vân Kỳ nói:
-Ngươi nghe đó, Miêu đại hiệp cũng nói như vậy. Ngươi có dám tức tối với Miêu đại hiệp không hử?
Tào Vân Kỳ "hừ" một tiếng nhưng không bật lời.
Ðào Bách Tuế đã bớt bực bội, nói:
-Hồi trẻ, Ðiền Quy Nông và tôi đã gây ra nhiều vụ án lớn, tôi luôn là trợ thủ của ông. Tới khi ăn nên làm ra, ông mới bỏ nghề. Nếu ông coi khinh nhân vật hắc đạo thì sao chịu gả con gái độc nhất cho con trai tôi? Có điều, nói đi cũng cần nói lại,ông kết thông gia với tôi chưa chắc đã thực sự có lòng tốt mà là muốn bịt miệng tôi, muốn tôi giấu kín một việc quan trọng. Hồi ấy, Ðiền Quy Nông và Phạm bang chủ chặn vợ chồng Hồ Nhất Ðao ở Thương Châu thì tôi vẫn còn là trợ thủ của ông ta.
Hồ Nhất Ðao ngồi trong xe phi kim tiền tiêu ra, trong số những kẻ bị tiêu phi trúng huyệt đạo có Ðào Bách Tuế tôi đây. Sau đó Hồ phu nhân đứng trên nóc nhà dùng dải lụa trắng đoạt đao, phi trả người thì trong số người bị bà quăng khỏi nóc nhà cũng có một người là Ðào Bách Tuế.
Miêu Nhân Phượng la mắng mọi người là đồ nhát gan, thì trong số đó cũng có tôi là Ðào Bách Tuế, chỉ có điều năm ấy tôi chưa để râu, tóc chưa bạc, hình dạng khác hẳn bây giờ mà thôi.
Tình cảnh lúc sắp chết của hai vợ chồng Hồ Nhất Ðao, tôi có mặt ở đó nên chính mắt nhìn thấy, đúng như lời kể của Miêu cô nương và Bình A Tứ, còn lời kể của hoà thượng Bảo Thụ là hoàn toàn dối trá. Miêu cô nương có hỏi nếu Miêu đại hiệp biết Hồ Nhất Ðao không phải là kẻ thù giết cha mình thì sao còn đi tìm để tỉ thí?
Hẳn chư vị cũng tự nghĩ, nhất định là Bảo Thụ có ác ý không thông báo với Miêu đại hiệp về mấy điều đó chứ gì?
Mọi người quả cũng nghĩ như vậy, chỉ ngại Bảo Thụ có mặt nên không tiện nói ra.
Ðào Bách Tuế lắc đầu nói:
-Lầm rồi, lầm rồi! Hồi ấy thầy lang chữa vết thương đao kiếm là Diêm Cơ bản lĩnh còn thấp kếm, đâu dám giở trò quỉ quái trước mặt hai vị Miêu, Hồ? Quả thật Diêm Cơ theo đúng lời dặn của Hồ Nhất Ðao nói lại ba việc lớn đó, song Miêu đại hiệp lại không được nghe. Khi Diêm Cơ lên nhà trên thì Miêu đại hiệp có việc đi ra ngoài, chỉ một mình Ðiền Quy Nông tiếp gã ta mà thôi. Diêm Cơ thuật lại đầy đủ cho Ðiền Quy Nông nghe. Lúc ấy tôi đứng cạnh, cũng nghe đủ tất cả.
Ðiền Quy Nông bảo với Diêm Cơ: "Rõ cả rồi, ngươi về đi, ta sẽ chuyển lời tới Miêu đại hiệp.
Ngươi có gặp Miêu đại hiệp cũng không cần nhắc lại.
Hồ Nhất Ðao có hỏi thì ngươi cứ bảo là đã trực tiếp bảo với Miêu đại hiệp rồi. Lại bảo họ Hồ mua sẵn ba cỗ quan tài, hai cỗ lớn, một cỗ nhỏ để khi các đại gia đến đỡ phải tốn tiền". Nói xong, Ðiền Quy Nông thưởng cho Diêm Cơ ba chục lạng bạc. Diêm Cơ nhận số bạc đó, tất nhiên là cứ thế làm theo. Sở dĩ Miêu đại hiệp còn đi tìm Hồ Nhất Ðao để tỉ thí bởi Ðiền Quy Nông không hề nói lại cho ông biết về ba sự việc lớn kia. Tại sao không thông báo? Hẳn các vị sẽ đoán: Ðiền Quy Nông căm thù Hồ Nhất Ðao lắm nên muốn mượn tay Miêu đại hiệp giết quách ông ta đi. Ðoán như thế chỉ mới đúng có một nửa thôi. Ðiền Quy Nông quả có mong Hồ Nhất Ðao mất mạng, nhưng ông ta còn mong mượn tay Hồ Nhất Ðao khử luôn Miêu đại hiệp.
Miêu đại hiệp bẻ gẫy cây cung của ông ta, lại nhục mạ ông ta trước mặt mọi người, chẳng giữ thể diện cho ông ta chút nào. Tôi hiểu tính Ðiền Quy Nông lắm,ưa hiếu thắng, hay thù vặt. Miêu đại hiệp làm ông ta mất mặt như thế nên ông ta cũng căm thù Miêu đại hiệp lắm, căm thù hơn cả Hồ Nhất Ðao. Hôm ấy, Ðiền Quy Nông giao cho tôi một hộp thuốc cao, sai tôi tìm cách bôi lên hai thanh đao kiếm của Hồ Nhất Ðao và Miêu đại hiệp dùng để tỉ thí. Việc như thế, thực lòng tôi không muốn làm mà cũng chẳng dám làm, nhưng lại không trái lệnh được. Thế là tôi bèn giao cho tay thầy lang chữa vết thương đao kiếm là Diêm Cơ và bảo gã làm.
Chư vị thử nghĩ xem, công phu của Hồ Nhất Ðao điêu luyện đến mức nào? Nếu chỉ trúng độc thông thường thì làm sao chết ngay được? Diêm Cơ lúc bấy giờ cũng chỉ là thầy lang vườn, làm sao có được thứ độc mà đến các hảo hán trên giang hồ cũng khó lòng giải cứu?
Hồ Nhất Ðao trúng phải chất độc nào? Xin thưa, đó là loại độc bí truyền có một không hai của Thiên Long Môn vậy. Thứ vũ khí Truy Mệnh Ðộc Long Chuỳ mà nhân vật võ lâm nghe tên đã táng đởm kinh hồn đều nhờ loại thuốc độc này mà nổi tiếng đó. Sau này, tôi còn nghe nói trong hộp thuốc cao đó của Ðiền Quy Nông còn trộn thêm cả thuốc của "Ðộc thủ dược vương", cho nên ứa máu, nghẹn cổ, thật lợi hại vô cùng.
Mọi người vốn bán tin bán nghi, nghe đến đây thì đã tin đến tám chín phần. Họ liếc nhìn về phía Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kì cùng mấy đệ tử của Thiên Long Môn. Bọn Nguyễn, Tào trong lòng giận lắm song không dám làm gì. Ðào Bách Tuế nói tiếp:
-Ngày hôm đó, Bắc Tông của Thiên Long Môn vừa hết hạn nắm quyền trông nom môn phái, Ðiền Quy Nông cũng chọn ngày này để bế môn phong kiếm. Ông mở tiệc lớn đến mấy trăm anh hùng có tên tuổi trên giang hồ. Tôi với ông vốn là anh em, lại có con gả cho nhau, tất nhiên là tôi đến trước mấy ngày giúp ông lo liệu mọi việc. Theo quy củ của Thiên Long Môn, Bắc tông hết hạn thì kiếm phả, tờ điệp của tổ tông các đời cùng thanh bảo đao, báu vật biểu trưng quyền lực của Thiên Long Môn đều phải giao lại cho Nam Tông coi giữ. Ân huynh, tôi nói thế không sai chứ?
Ân Cát gật đầu, Ðào Bách Tuế lại nói:
-Vị đại tài chủ Ân Cát oai vang trời nam này là chưởng môn Nam Tông của Thiên Long Môn, ông ấy cũng đến trước mấy hôm. Vậy Ðiền Quy Nông phải chăng đã đem kiếm phả, tờ điệp của tổ tông các đời cùng thanh bảo đao trao lại
theo lời tổ dạy, xin Ân sư huynh cứ thực mà nói.
Ân Cát liền đứng dậy nói:
-Việc này nếu Ðào trại chủ không nêu ra thì tại hạ cũng không tiện nói rõ cho người ngoài. Tuy nhiên trong việc này có nhiều điều đáng ngờ. Nếu tại hạ giấu đi không nói thì mỗi ngờ đó khó mà đánh tan được. Ngày hôm đó, Ðiền sư huynh đãi khách xong trở vào nhà trong. Theo phép xưa nay, ông phải triệu tập người của hai chi Nam, Bắc lại, làm lễ trước bài vị của Sấm vương, các vị tổ sáng lập và các chưởng môn các đời sau đó truyền giao bảo đao cho tại hạ. Nào ngờ ông ta vào nhà trong mãi chẳng thấy ra. Tại hạ sốt ruột quá, chờ cho đến nửa đêm. Khách khứa các nơi đều đã về hết, cháu Thanh Văn bỗng từ nhà trong đi ra bảo tại hạ rằng cha cháu không được khỏe, việc trao kiếm phả xin chờ ngày mai sẽ tiến hành. Tôi lấy làm lạ quá, vừa thấy Ðiền sư huynh chào khách, mời rượu, nét mặt không hề có vẻ mệt mỏi, sao bỗng nhiên lại cảm thấy khó ở trong người? Hơn nữa, truyền phải trao đao cũng chỉ cần vái lạy các vị tổ tông một lát là xong, mọi việc đâu vào đấy, hà tất phải chờ đến hôm sau? Hay là Ðiền sư huynh không muốn giao lại bảo đao, cố ý mượn cớ nấn ná?
Nguyễn Sĩ Trung nói xen vào:
-Ân sư huynh, cái lối suy bụng ta ra bụng người đó không đúng đâu! Ngày hôm ấy nếu ông chỉ có việc đến nhận phả, nhận đao thì Ðiền sư huynh đã trao cho ông từ lâu rồi. Nhưng ông lại mời rất nhiều bậc cao thủ của các phái khác tới, hiển nhiên là không có ý tốt.
-Hừm, tôi còn có tâm địa gì xấu nữa? -Ân Cát cười nhạt.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Ông định hế nắm được phả, điệp và bảo đao là bắt chẹt hai chi Nam, Bắc về một mối để ông làm chưởng môn độc nhất vô nhị chứ gì! Lúc ấy Ðiền sư huynh đã phong kiếm rồi, không thể ra tay động thủ với người khác, người của ông lại đông,há chẳng muốn làm gì thì làm?
Ân Cát hơi đỏ mặt, nói:
-Thiên Long Môn chia làm hai chi Nam, Bắc vốn là theo kế quyền nghi. Năm ấy, khi Ðiền sư huynh mới nhận chức chưởng môn chi Bắc, ông ta há lại không muốn thôn tính chi Nam sao? Cứ như tôi đây, nếu tôi có ý muốn hợp nhất hai chi lại, làm cho chúng ta hiển hách thêm thì đó cũng là một việc hay. Dù sao như thế còn hơn Nguyễn sư huynh nhà ta ra sức lấn át Vân Kỳ để hòng tự mình làm chưởng môn đấy nhỉ?
Mọi người nghe họ lật tẩy nhau, hoá ra cả hai đằng đều có mưu riêng tư, nên trừ người của Thiên Long Môn ra, ai nấy vừa nghe vừa cười hà hà, như sung sướng thấy người khác gặp nạn vậy.
Miêu Nhược Lan không muốn nghe thêm về cuộc tranh giành giữa các chi phái,môn này môn khác trong võ lâm nên lên tiếng khẽ hỏi:
-Chuyện về sau như thế nào ạ?
Ân Cát đáp:
-Tôi trở về nhà bàn bạc với các sư đệ của Nam Tông. Mọi người đều nói Ðiền sư huynh tất có ý khác, chúng ta không thể để mặc cho ông ta lừa dối, thế là cử tôi đi dò xét hư thực.
Lúc ấy, tôi đến phòng ngủ của Ðiền sư huynh để thăm hỏi bệnh tình. Cháu Thanh Văn khóc sưng đỏ mắt, ngăn tôi lại ở cửa nói: "Cha cháu đã ngủ rồi, xin Ân thúc phụ hãy trở về, đa tạ thúc phụ quan tâm!". Tôi thấy thần sắc cháu có vẻ khang khác, nghĩ bụng nếu Ðiền sư huynh thực sự người không được khỏe, thì cũng chẳng phải bệnh nặng khó chữa, cháu chẳng cần khóc lóc ghê gớm đến thế. Chuyện này hẳn có gì lạ đây! Tôi trở về phòng đợi chừng nửa canh giờ, thay quần áo, lại đến ngoài phòng Ðiền sư huynh thăm hỏi sức khoẻ...
Nguyễn Sĩ Trung đập mạnh xuống bàn quát:
-Hừm, thăm hỏi sức khoẻ? Thăm hỏi mà đứng bên ngoài thăm hỏi sức khoẻ được sao?
Ân Cát cười nhạt đáp:
-Cứ kể như tôi nghe trộm đi thì đã sao nào? Tôi nấp bên ngoài cửa sổ, chỉ nghe Ðiền sư huynh nói: "Ngươi không cần phải bức bách ta. Hôm nay ta bế môn phong kiếm và trước mặt các hào kiệt trên giang hồ đã trao lại quyền chưởng môn Bắc Tông Thiên Long Môn cho Vân Kỳ rồi làm sao còn thay đổi được? Ngươi bức ta nhường địa vị chưởng môn cho ngươi lúc này đã muộn rồi!". Tôi lại nghe sư huynh Nguyễn Sĩ Trung nói: "Tôi đâu dám bức bách sư ca? Chỉ nghĩ rằng Vân Kỳ cùng Thanh Văn đã làm cái chuyện đó, con cũng đẻ ra rồi. Việc làm tổn hại đến thuần
phong mỹ tục, vi phạm nghiêm trọng tới điều răn về giới sắc như thế, thử hỏi kẻ trên người dưới trong chúng ta, ai còn phục hắn nữa?
Ân Cát nói đến đây thì bỗng nghe "ầm" một tiếng, cả người lẫn ghế ngồi của Ðiền Thanh Văn lật ngửa về phía sau, cô ta đã ngất đi rồi. Ðào Tử An rút đao ra nhằm đầu Tào Vân Kỳ chém xuống; trong tay Tào Vân Kỳ không có vũ khí, đành giơ ghế lên đỡ. Ðào Bách Tuế nghe nói cô con dâu chưa cưới của mình làm chuyện xấu xa đó thì giận quá hét lớn, rồi cùng vớ lấy chiếc ghế giơ lên quật xuống đầu Tào Vân Kỳ.
Người của Thiên Long Môn vốn một lòng đối phó với người ngoài, nay thấy năm người của mình vạch mặt lẫn nhau thì chẳng ai ghĩ tới việc tương trợ Tào Vân Kỳ cả. "Chát" một tiếng, lưng Tào Vân Kỳ đã bị chiếc ghế của Ðào Bách Tuế đập trúng một đòn nặng. Cảnh tượng trên sảnh lúc này thật rối loạn. Miêu Nhược Lan kêu lên:
-Xin các vị đừng động thủ nữa, mọi người hãy ngồi xuống cả đi!
Lời nói của cô oai nghêm khiến người ta nghe khó cưỡng nổi. Ðào Tử An ngẩn người, thu đao lại. Ðào Bách Tuế vẫn giận giữ điên cuồng, vung ghế đánh tới. Ðào Tử An phải giữ chặt lấy chiếc ghế của cha, nói:
-Cha ơi, mình không nên động thủ vội, hãy để các vị có mặt ở đây nhận xét đúng sai, phải trái trước đã!
Thấy con nói có lí, Ðào Bách Tuế bấy giờ mới dừng tay.
Miêu Nhược Lan gọi:
-Cầm Nhi! Em đỡ Ðiền cô nương vào phòng trong nghỉ đi!
Lúc này, Ðiền Thanh Văn đã dần tỉnh lại, nét mặt tái nhợt, cô cúi đầu tự đi vào phòng trong. Mọi người đổ dồn mắt nhìn Ân Cát, mong nghe kể đoạn sau. Ân Cát nói:
-Tôi nghe Ðiền sư huynh thở dài nói: "Oan nghiệt, oan nghiệt! Báo ứng, báo ứng!". Ông ta nhắc đi nhắc lại luôn mồm: "Oan nghiệt, báo ứng!". Một lúc lâu sau mới nói: "Việc này ngày mai sẽ bàn tiếp. Ngươi đi đi, gọi Ðào Tử An đến đây! Ta có điều muốn nói với hắn!".
Ân Cát liếc nhìn cha con họ Ðào một cái rồi nói tiếp:
-Nguyễn sư huynh còn định cãi lại thì Ðiền sư huynh đập giường quát: "Ngươi định bức ta chết có phải không?". Lúc này Nguyễn sư huynh mới thôi không nói nữa, đẩy cửa bước ra. Tôi nghe họ nói đến chuyện xấu xa trong nhà mình nhưng không liên quan gì đến Nam Tông chúng tôi, lại sợ Nguyễn sư huynh đi ra bắt gặp,khó xử cho hai bên bèn rút lẹ về ngay phòng mình.
Nguyễn Sĩ Trung cười nhạt:
-Tối hôm ấy, tôi nói chuyện xong với Ðiền sư ca, lúc ra về thấy một bóng đen lướt qua mới quát hỏi: "Ðồ chó đẻ nào nghe trộm đây?". Lúc đấy không có tiếng đáp, tôi chỉ nghĩ hắn là tên chó đẻ nào, té ra lại là Ân sư huynh, thật là đắc tội với sư huynh?
Nói xong, Nguyễn Sĩ Trung vái Ân Cát một cái. Cử chỉ bên ngoài là tạ tội mà thực ra là chửi rất đau.
Ân Cát hơi tái mặt song công phu tu dưỡng cực tốt nên cũng vái trả rồi mỉm cười nói:
-Người không biểt thì không có lỗi mà!
Ðào Tử An nói:
-Ðược, bây giờ đến lượt tôi kể. Mọi người đã vạch mặt nhau rồi, nên tôi... cũng chẳng cần giấu giếm điều gì. Tôi... tôi...
Nói đến đây Ðào Tử An nghẹn ngào, xúc động, nói chẳng nên lờ, hai hàng nước mắt tuôn chảy.
Thấy một trang anh hùng trẻ tuổi hiên ngang mà không ngại tỏ ra yếu đuối trước mặt mọi người, ai nấy đều có ý không nỡ, vì vậy trong ánh mắt tia về phía Tào Vân Kỳ có xen cả phần tức giận lẫn oán trách.
Ðào Bách Tuế quát lên:
-Sao lại yếu mềm như thế? Ðai trượng phu đã ai dám chắc vợ hiền con hiếu?
May mà con đó chưa cưới về, có điếm nhục thì cũng chẳng dây đến nhà họ Ðào ta!
Ðào Tử An đưa tay áo lên chùi nước mắt, định thần lại rồi nói:
-Trước đây, mỗi lần tôi đến Ðiền gia trang... đến nhà Ðiền bá phụ...
Tào Vân Kỳ thấy chàng ta ngập ngừng giây lát rồi đổi giọng nói Ðiền Quy Nông là "bá phụ" chứ không phải "nhạc phụ" thì mừng thầm, nghĩ bụng: "Hừ, thằng này ngán rồi, không nhận Thanh Văn làm vợ nữa, thật là mình cầu được ước thấy!".
Lại nghe Ðào Tử An nói tiếp:
-... Hễ có người là Thanh Văn đỏ mặt tránh đi, không chịu nói chuyện với tôi,nhưng khi hai người thì chúng tôi nói chuyện với nhau rất thân mật. Lần nào, tôi cũng mang theo mấy thứ nho nhỏ tặng nàng, nàng cũng tặng lại tôi vài thứ, khi thì thêu cái túi nhỏ, khi thì cái áo cộc tay, chưa lần nào thiếu cái gì...
Vẻ mặt Tào Vân Kỳ dần dần trở nên khó coi, hắn thầm nghĩ: "Hừ, lại còn cái chuyện như vậy mà giấu mặt ta!".
Ðào Tử An nói tiếp:
-Lần này, Ðiền bá phụ bế môm phong kiếm, tôi phấn khởi theo cha tôi tới nơi,vừa nhìn thấy Thanh Văn liền cảm thấy dung nhan nàng tiều tụy như vừa trải qua cơn ốm nặng. Tôi thấy thương quá, thừa lúc vắng người an ủi nàng, hỏi xem ốm bệnh gì. Lúc đầu nàng ấp a ấp úng, tôi cứ hỏi cặn kẽ mãi, nàng tức giận quát tôi mấy câu, từ đó lờ tôi đi. Bị nàng mắng đến đần người ra, tôi đành buồn bực một mình. Hôm đó tiệc rượu tôi nhìn thấy nàng hóng mát trong đình ở vườn hoa phía sau, hai mắt đỏ mọng vì khóc. Bất kể ra sao, tôi liền tới xin lỗi nàng và nói:
"Thanh Văn muội, đều tại huynh không tốt, muội đừng giận huynh nữa!". Nào ngờ nàng sa sầm nét mặt, nổi đoá lên nói: "Hừ, nếu quả huynh không tốt thì cũng xong,đằng này lại là người khác không tốt, muội chỉ muốn chết đi cho rảnh!". Tôi càng ngơ ngác không hiểu, toan nói thêm mấy câu thì nàng đã quầy quậy bỏ đi.
Tôi trở về phòng nằm nghỉ một lát, càng nghĩ càng không yên tâm, thực sự không biết đã làm nàng phật ý ở điểm nào, bèn lẳng lặng trở dậy đi tới phòng nàng, khẽ búng ba cái ngoài cửa sổ. Trước đây, mỗi khi chúng tôi hẹn gặp nhau đều búng ba cái như vậy làm hiệu. Nào ngờ tôi búng đến mấy lượt mà trong phòng vẫn im lặng như tờ. Lúc sau, tôi lại búng lần nữa, vẫn không nghe thấy động tĩnh.
Tôi thấy lạ quá bèn đẩy cửa sổ ra. Cửa không cài, đẩy một cái là mở liền. Trong phòng tối om, chẳng trông thấy gì. Tôi đang muốn gặp nàng để nói chuyện bèn nhảy qua cửa sổ mà vào...
Tào Vân Kỳ nghe tới đây thì nổi ghen tuông dâng lên tận cổ, không sao nén xuống được. Hắn quát to:
-Nửa đêm khuya khoắt lẻn vào phòng nhà người ta, ngươi định giở trò gì?
Ðào Tử An đang tính quát lại thì cô hầu mau mồm của Miêu Nhược Lan là Cầm Nhi đã nhanh miệng bẻ lại:
-Người ta là vợ chồng chưa cưới, ông can thiệp được sao?
Ðào Tử An khẽ gật đầu mỉm cười với Cầm Nhi tỏ ý cám ơn rồi nói tiếp:
-Tôi tới bên giường nàng, thấp thoáng thấy dưới giường có một đôi giầy bèn đánh bạo vén màn, sờ tay vào dưới chăn.
Tào Vân Kỳ đỏ mặt tía tai toan chửi um lên nhưng thấy Cầm Nhi gườm gườm nhìn mình thì đành nuốt giận, thôi không nói nữa, đành nghe Ðào Tử An kể tiếp:
-Tay tôi như chạm phải cái bọc, còn Thanh muội thì không có trên giường. Tôi lấy làm lạ, sờ tay xem là cái bọc gì. Hình như trong bọc là đứa bé mới đẻ khiến tôi giật nảy mình. Sờ kỹ chút nữa thì đấy chẳng phải đứa trẻ thì còn là gì nữa? Có điều toàn thân đứa trẻ lạnh toát vì chết đã lâu mà xem chừng chết vì bị chăn bông chặn lên làm cho ngạt thở.
Chỉ nghe có tiếng nghẹn ngào rồi chén trà trên tay Miêu Nhược Lan tuột rơi xuống đất. Mặt cô tái nhợt, đôi môi run rẩy.
Ðào Tử An kể tiếp:
-Chư vị bây giờ nghe còn cảm thấy sợ thì khi đó chính tay tôi sờ thấy trong bóng tối đủ biết kinh hãi nhường nào. Suýt nữa tôi buộc miệng kêu lên. Ðúng lúc ngoài phòng có một tiếng bước chân rồi có người vào phòng. Tôi vội vàng chui xuống gầm giường. Người ấy đi đến bên giường thì ngồi xuống mép giường nức nở khóc.
Thì ra là Thanh muội. Nàng ôm xác đứa bé trong tay, thơm mãi nó, thì thầm nói:
"Con ơi, con đừng trách mẹ phải ra tay giết con. Lòng mẹ đau hơn dao cắt đây, chỉ vì nếu để con sống thì mẹ không sống nổi. mẹ thật nhẫn tâm, thật có tội với con".
Ở dưới gầm giường, tôi nghe thấy thế thì lạnh cả sống lưng. Lúc ấy tôi mới biết thì ra nàng tư thông với thằng chó chết nào đó, đẻ ra đứa con này rồi lại hạ độc thủ giết hại nó. Nàng bế xác đứa trẻ khóc một hồi, thơm một thôi, cuối cùng đứng dậy,khoác trên người cái áo choàng che lấy đứa bé rồi chui ra khỏi phòng. Ðợi nàng đi rồi tôi mơi chui ra, lẳng lặng theo sau. Lúc ấy tôi vừa buồn vừa giận, chỉ muốn tra xét xem kẻ tư thông với nàng là thằng chó đẻ nào.
Nàng đi ra vườn sau, cầm lấy chiếc xẻng ngắn ở chân tường rồi vượt tường ra ngoài. Dọc đường, tôi bám theo từ xa. Nàng cầm chiếc xẻng ngắn đang tính đào hố chôn chợt thấy cách khoảng mấy chục trượng có tiếng sắt thép va chạm với đất đá.
Trong đêm khuya mà cũng có người khác đang đào mộ. Nàng giật mình, vội vàng ngồi thụp xuống, một lúc sau mới khom lưng từ từ bò đến xem. Tôi nghĩ có lẽ kẻ đào mộ đang đào trộm nên cũng đi theo, thì thấy bên một ngôi mộ có ánh đèn leo lét soi cho một bóng đen đang đào bới.
Tôi nhìn kĩ thì ra người này không đào mộ mà moi một cái hố bên cạnh mộ nhưng không biết chôn dấu cái gì. Tôi thầm nghĩ: "Thế này thì lạ thật, lẽ nào cũng có ai đó đem chôn con đẻ hoang?". Người kia đào một hồi rồi nâng cái bọc dài dài dưới đất lên, dài đúng bằng một đứa bé mới đẻ, bỏ xuống hố, xúc đất đắp lên.
Người đó nghoảnh đầu lại, dưới ánh đèn tôi nhìn thấy rõ ràng, thì ra không phải ai khác mà chính là sư huynh Chu Vân Dương.
Vẻ mặt Chu Vân Dương vốn đã nhợt nhạt, nghe Ðào Tử An nói đến đây thì càng tái xanh. Ðào Tử An kể tiếp:
-Lúc này trong lòng tôi hết sức nghi hoặc, thầm nghĩ: "Lẽ nào tư thông với Thanh muội lại là tên súc sinh này? Sao hắn cũng đến đây chôn đứa trẻ mới đẻ?".
Thanh muội thấy hắn thì nép sát người xuống không dám ra gặp. Chu sư huynh lấp đất thật chắc rồi lại đổ lên trên cỏ nhiều xẻng đất đá nữa để người khác không nhận ra. Xong xuôi mới bỏ đi.
Chu sư huynh đi xa rồi Thanh muội vội vàng đào hố chôn xác đứa bé, sau đó mới gạt hết đất đá, moi cái hố của Chu sư huynh ra để xem chôn thứ gì. Tôi nghĩ thầm: "Nàng không ra tay thì tôi cũng đào lên. Nay thì tôi đỡ phải mất công rồi!".
Thanh muội vừa giơ xẻng đào được mấy nhát thì Chu sư huynh bỗng từ đằng sau mộ bước ra kêu lên: "Thanh Văn muội, muội làm gì thế?". Thì ra hắn suy tính rất chu đáo, chôn xong giả vờ bỏ đi, lát sau mới quay lại quan sát. Thanh muội giật nảy người, buông rơi xẻng xuống đất, không biết nói gì.
Chu sư huynh lạnh lùng lên tiếng: "Thanh Văn muội, muội biết tôi chôn cái gì mà tôi cũng biết muội chôn cái gì. Muốn dấu nhẹm thì cả hai đều giấu, còn muốn vạch trần thì cả hai cùng vạch trần!". Thanh muội nói "Ðược, vậy thì huynh thề đi!". Chu sư huynh lập tức thề độc. Thanh muội cũng thề theo. Hai người hẹn nhau cùng giấu kín rồi cùng trở về trang trại.
Tôi nhìn vẻ mặt hai người dường như họ có tình riêng gì đó song lại có vẻ như không phải. Xem ra thì đứa trẻ không phải con của Chu sư huynh. Tôi bèn lẳng lặng theo sau họ, tay cầm ám khí có chất độc, chỉ cần hai người tỏ vẻ thân mật với nhau, nói nửa câu khiến tôi nghe không lọt tai là tôi cho hắn chết ngay.
Cùng may số hắn còn đỏ, cả hai từ bãi tha ma về trang trại đều đi cách nhau một quãng xa, không nói với nhau câu nào.
Thanh muội về phòng riêng thì sụt sùi khóc mãi. Tôi đứng dưới cửa sổ phòng cố nghĩ tới nghĩ lui và nghĩ đủ cách. Tôi toan xông vào chém chết nàng, toan thiêu trụi Ðiền gia trang, toan nói vung chuyện xấu xa của nàng cho mọi người đều biết và cũng toan chạy tới ôm lấy nàng khóc rống lên. Cuối cùng tôi quyết định, trước mắt hãy làm thinh, điều tra xem gian phu là đứa nào rồi hãy hay.
Người lạnh toát, tôi trở về phòng. Cha tôi đã ngủ yên, còn tôi cứ đứng sững.
Không biết bao lâu thì Nguyễn sư thúc tới gọi tôi, nói Ðiền bá phụ muốn gặp tôi nói gì đó. Tôi thầm nghĩ: "Ðến lúc phải nói rồi, song xem ông ta nói thế nào? Ông ta muốn ta đồng ý huỷ bỏ hôn ước hay gạt ta không biết gì, tặng ta cái khăn xanh sẵn có cho ta đội? ( Khăn xanh: Chỉ người bị cắm sừng ). Nguyễn sư thúc nói đêm khuya không đi cùng tôi nữa, bảo tôi đi một mình. Tôi ngại có điều bất trắc liền đánh thức cha tôi, bảo ông đề phòng. Còn tôi mang theo vũ khí, ám khí trong người, cả cung tên cũng giấu trong áo.
Ðến phòng Ðiền bá phụ, tôi thấy ông nằm trên giường, mắt ngây dại nhìn sững lên nóc giường, trong tay cầm một mảnh giấy trắng, không hề biết có tôi trong phòng. Tôi dặng hắng một tiếng rồi gọi "Cha ơi?". Ông giật mình, giấu tờ giấy xuống dưới nệm, nói: "à, Tử An đấy ư con?". Tôi nghĩ thầm: "Rõ ràng ông cho gọi tôi mà còn cứ vờ vịt". Nhưng nhìn thần sắc thì ông quả có vẻ rất sợ hãi. Ông bảo tôi cài chặt cửa nhưng lại mở cửa sổ đề phòng có kẻ dứng ngoài cửa sổ nghe trộm.
Xong, ông run run nói: "Tử An, chỉ một sớm một chiều là ta gặp nguy, nhờ cậy con cứu mạng cho ta. Con phải làm cho ta một việc này!".
Tào Vân Kỳ cố nhịn mãi, nghe đến đây thì đứng vụt dậy, chỉ thẳng tay vào mặt Tử An nói:
-Nói bậy nói bạ! Sư phụ ta công phu như thế nào, còn một kẻ như ngươi thì có bản lĩnh gì mà cứu ông?
Ðào Tử An không thèm để ý đến hắn, coi như trước mặt không hề có con người đó, chỉ hướng về phía Bảo Thụ và những người khác nói tiếp:
-Tôi nghe ông nói như vậy thì lấy làm lạ quá, vội thưa: "Xin cha cứ sai bảo, con dù có nhảy vào nước, giẫm trên lửa bỏng cũng không từ". Ðiền bá phụ gật đầu, lấy từ dưới chăn bông ra một cái bọc bằng gấm, trao vào tay tôi, nói: "Con cầm vật này đi suốt đêm ra ngoài quan ải, tìm chỗ vắng người chôn xuống. Nếu để không một ai biết được thì con đã cứu sống ta rồi đó!".
Tôi nhận lấy cái bọc vừa nặng vừa cứng tựa như một vũ khí bằng thép đó, hỏi:
"Thưa cha, đây là cái gì? Ai toan làm hại cha?". Ðiền bá phụ xua tay liền mấy cái,ra chiều mỏi mệt lắm, nói: "Con mau đi thôi, ngay cả cha con cũng đừng nói gì hết,chậm chốc lát là không kịp nữa rồi. Cái bọc này con nhất thiết cũng không được mở ra xem". Tôi không dám hỏi nữa, quay người ra khỏi phòng. Vừa ra tới cửa thì Ðiền bá phụ lại nói: "Tử An, con giấu cái gì dưới áo bào thế?". Tôi giật mình, thầm nghĩ: "Mắt ông ta tinh thật!". Ðành nói thật rằng: "Ðây là vũ khí và cung tên. Hôm nay đông khách, con sợ có kẻ xấu trà trộn vào nên phải mang phòng". Ðiền bá phụ
lại bảo: "Tốt, con sáng suốt giỏi giang đấy! Vân Kỳ học được ở con một chút thôi cũng là tốt rồi. Này, con đưa cung tên cho ta!".
Tôi lấy cung tên từ trong áo đưa cho ông. Ông lấy ra một mũi tên ngắm nhìn giây lát rồi lắp vào cung, bảo tôi: "Con đi mau lên!". Thấy bộ dạng ông như thế, tôi hơi hoảng nghĩ thầm: "Ông chớ có bắn một phát vào lưng tôi đấy nhé!". Tôi khom lưng giả vờ vái chào rồi từ từ đi giật lùi trở ra, ra đến cửa mới thoắt quay người. Từ ngoài cửa tôi nhìn thấy ông gương cung chĩa tên nhằm vào cửa sổ, rõ ràng là đề phòng kẻ thù đột nhập từ cửa sổ vào.
Tôi trở về phòng mình, lòng đầy nghi hoặc về chuyện vừa rồi. Thầm nghĩ sắc mặt Ðiền bá phụ có đến bảy phần kinh hoàng, ba phần bí mật, có thể đoán chắc ông chẳng hề có ý tốt gì đối với tôi. Tôi bèn kể lại sự việc đo cho cha tôi biết,nhưng lại sợ ông nổi giận nên tôi giấu không nói chuyện của Thanh Văn muội cho ông hay. Cha tôi nói: "Hãy xem trong bọc này là cái gì đã". Tôi cũng đang có ý định này, hai cha con bèn mở bọc, thì ra trong đó là cái hộp sắt này.
Năm xưa chính mắt cha tôi nhìn thấy Ðiền bá phụ cướp chiếc hộp sắt của Hồ Nhất Ðao, rồi cất thanh bảo đao, vật báu biểu trưng quyền lực của Thiên Long Môn vào trong chiếc hộp. Cha tôi nói: "Việc này, lạ thật!". Ông biết trong hộp sắt có cài mũi tên ngắn, cũng biết cách mở hộp nên ngay lúc đó theo đúng cách mà mở ra. Hai cha con vừa nhìn vào hộp thì liếc nhìn nhau, không nói nên lời, bởi trong chiếc hộp trống không, chẳng có một vật gì. Cha tôi kêu lên: "Thế là thế nào?".
Tôi nhận ra ngay có điều không ổn và lập tức hiểu rõ mọi sự. Ðây ắt là một kế độc của Ðiền phá phụ để hãm hại tôi. Ông giấu thanh bảo đao ở nơi khác rồi trao hộp không cho tôi. Ông tất sai người ngăn tôi lại giữa đường và sau khi bắt dược tôi thì vu cho tôi là ăn cắp thanh bảo đao của ông rồi bắt tôi giao nộp. Tôi không nộp được đao thì nếu ông không giết tôi cũng bắt tôi phải thôi chuyện hôn nhân với Thanh muội để ông gả nàng cho Tào sư huynh. Cha tôi không biết căn nguyên việc này tất nhiên không thấy rõ độc kế đó. Tôi cũng không tiện nói rõ cho cha biết nên ngẩn người ra hồi lâu. Hai cha con tôi trao đổi một lúc mà không biết xử trí cách nào.
Tào Vân Kỳ nghe nói thế hét lớn:
-Ngươi giết chết sư phụ ta, ăn trộm vật chí bảo của Thiên Long Môn mà còn dám nói bậy bạ. Chuyện bịa đặt đó không lừa nổi đứa trẻ lên ba nữa là!
Ðào Tử An cười nhạt:
-Tuy Ðiền bá phụ đã chết không thể đối chứng được nhưng trong tay tôi còn có chứng cớ đây!
Tào Vân Kì lồng lộn như sấm sét, quát:
-Chứng cớ? Chứng cớ nào? Ðưa ra đây cho mọi người cùng thấy đi!
Ðào Tử An nói:
-Tới lúc cần tôi sẽ đưa ra, không cần ngươi sốt ruột. Thưa chư vị, vị sư huynh họ Tào này cứ luôn ngắt lời tôi, chi bằng mời hắn nói vậy.
Bảo Thụ lạnh lùng nói:
-Tào Vân Kỳ, đồ chó chết kia! Mi toan húc lão hoà thượng này rơi xuống núi, ta còn chưa tính sổ với mi đó! Mi trừng mắt gân cổ lên làm gì?
Tào Vân Kỳì bị chửi lạnh cả gáy, không dám ho he gì nữa. Ðào Tử An nói tiếp:
-Tôi biết rằng chỉ cần cầm cái hộp sắt này ra khỏi nhà họ Ðiền thì nếu không gặp họa lớn cũng tiêu tan thanh danh. Tôi bèn nói với cha tôi: "Cha ơi, trong việc này có điều kì quặc, thôi con đem bọc này trả nhạc phụ chứ không thể để gây họa được". Tôi gói chiếc hộp sắt vào trong tấm gấm, nhẩm sẵn mấy câu ngầm vạch trần quỷ kế của ông ta để hai bên hiểu nhau, không cần nói nhiều.
Khi tôi mang cái bọc tới ngoài phòng Ðiền bá phụ thì đèn trong phòng ông đã tắt, cửa sổ và cửa phòng đều đóng chặt. Tôi nghĩ việc này thế nào cũng sẽ phải xảy ra, không nên trì hoãn, nên đứng ở ngoài cửa sổ gọi to: "Cha ơi, cha ơi!". Trong phòng không có tiếng trả lời. Tôi ngờ vực, nghĩ thầm: "Võ công của ông ta đến thế thì dù có ngủ say cũng lập tức tỉnh giấc, không chừng ông ta cố ý không thưa cũng nên".
Tôi càng nghĩ càng sợ, cảm thấy đệ tử của Thiên Long Môn đang mai phục ngay bên cạnh, lập tức xông ra ngay bây giờ, buộc tôi phải nộp bảo đao. Tôi vừa đạp cửa, vừa nói rõ đầu đuôi: "Cha ơi! Cha con bảo con đem cái bọc này trả lại cho cha. Con và cha con có việc gấp, không thể làm giúp việc như cha giao phó. Cái bọc này con chưa hề mở ra đâu!". Tôi đáp liền mấy lượt, trong phòng vẫn lạnh như tờ. Tôi cuống lên, lấy dao cậy then cửa ra, đẩy cửa bước vào, đánh đá lửa thắp nến lên, bất giác hoảng hốt ngây người: Ðiền bá phụ đã chết trên giường, một mũi tên dài ngăm giữa ngực. Ðấy chính là mũi tên có cánh mà tôi thường dùng, còn cây cung thì đặt trên bàn. Vẻ mặt ông kinh hãi khác thường, dường như trước khi chết ông trông thấy yêu ma quỷ quái ghê gớm lắm thì phải.
Tôi ngẩn người ra một lúc, không biết phải làm thế nào. Cửa sổ và cửa ra vào đều đóng chặt, không rõ hung thủ nào giết Ðiền bá phụ làm thế nào lọt được vào,sau khi hạ thủ thoát ra bằng lối nào? Tôi ngẩng nhìn mái nhà nhưng gói lợp vẫn nguyên vẹn, không xô vỡ, vậy thì hung thủ cũng không vào ra bằng lối dỡ ngói.
Tôi đi xem kỹ nữa, chợt nghe ngoài hành lang có tiếng chân người đi tới. Tôi nghĩ Ðiền bá phụ chết dưới mũi tên của tôi, nếu lúc này có người vào đây, tôi làm sao chối bỏ được mối can hệ? Tôi vội vàng nhặt lấy cung tên trên chăn, đang định rút mũi tên trên ngực ông ta thì bất chợt dưới ánh nến, tôi thấy trên giường còn có hai thứ nữa. Lần giật mình này còn hơn cả lần trước, tay tôi run bắn, đài nến tuột rơi, nến tắt ngóm.
Hẳn chư vị không thể đoán được tôi trông thấy vật gì. Vật thứ nhất là thanh bảo đao, vật thứ hai là xác đứa trẻ Thanh muội đem chôn. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đứa bé này không cam chịu chết uổng nên chui từ mồ lên đòi mạng. Trong lúc hoảng loạn,tôi tiện tay vớ lấy bảo đao rồi chuồn. Vừa chạy tới cửa, tôi bỗng nhớ ra một việc,liền lộn trở lại giơ tay lần dưới nệm nằm của Ðiền bá phụ, quả nhiên sờ thấy mảnh giấy kia. Tôi đoán cái chết của ông hẳn có liên quan nhiều với mảnh giấy này nên nhét vào trong người. Ðang định giơ tay rút mũi tên thì tiếng chân người đến gần,có ba người đi đến cửa. Tôi thầm kêu: "Nguy to! Lần này cửa bị chẹn, tính mệnh Ðào Tử An này nguy mất!".
Trong lúc nguy cấp, thấy không có chỗ nào trốn được, tôi đành lại chui xuống gầm giường. Tôi nghe ba người đẩy cửa vào, thì ra là Nguyễn sư thúc và hai sư huynh Tào, Chu. Nguyễn sư thúc gọi: "Sư ca, sư ca!". Không thấy tiếng đáp, ông gọi Chu sư huynh thắp nến lên. Tôi nghĩ đợi khi thắp được nến, thấy Ðiền bá phụ chết uổng, thế nào họ cũng lục soát, vậy thì tính mạng tôi đi đời, chi bằng nhân lúc tối tăm mình vọt ra là hơn. Nguyễn sư thúc và Tào sư huynh đều là bậc cao thủ,một mình tôi không sao địch nổi hai người, nhưng xuất kì bất ý may ra thoát được.
Lúc này cần phải quyết đoán ngay, không thể nấn ná được, nghĩ thế nên tôi từ từ bò ra tới mép giường đang tính vọt chạy thì chợt tay tôi đưa ra chạm ngay phải mặt một người. Thì ra dưới gầm giường đã có người chui xuống trước tôi. Tôi suýt nữa kêu lên thất thanh thì người kia đã giơ tay bấm chặt mạch môn của tôi. Tôi thầm kêu đau, người đó bèn khẽ nói vào tai tôi: "Ðừng lên tiếng, cùng vọt ra!". Tôi đang mừng thầm thì đúng lúc đó trước mắt sáng bừng, Chu sư huynh đã xách đèn lồng đi vào.
Bỗng nghe "bụp" một tiếng, người kia đã tung ám khí làm đèn phụt tắt. Tôi lăn tròn ra khỏi gầm giường xông thẳng ra ngoài. Người dưới gầm giường cũng chạy theo sau. Nguyễn sư thúc kêu lên: "Bọn giặc giỏi nhỉ!" rồi vung chưởng đánh.
Nguyễn sư thúc võ công cực cao, xem chừng người kia cũng không thể thoát, tôi vội vàng chạy về phòng gọi cha tôi, ngay đêm đó trốn khỏi Ðiền gia trang.
Ðầu đuôi sự việc là như thế. Chiếc hộp sắt này do chính tay Ðiền bá phụ trao cho tôi, bảo tôi đem chôn ngoài biên ải, tôi làm theo lời dặn của ông. Các sư thúc,sư huynh Thiên Long Môn thấy mũi tên có cánh trên ngực Ðiền bá phụ, tất nhiên ngờ tôi hạ thủ giết hại ông, điều đó cũng không đáng trách. Chỉ tiếc rằng tôi không biết người dưới gầm giường sau đó ra sao. Nếu không đã có thể làm chứng. Song dù không tìm được người đó, tôi cũng biết được hung thủ giết hại Ðiền bá phụ là ai.
Xin các vị xem đây, mảnh giấy này là mảnh giấy Ðiền bá phụ giấu dưới nệm khi trông thấy tôi. Ông sợ kẻ thù đến giết hại ông nên giương cung lắp tên nhắm ra
cửa sổ đợi kẻ đó đến. Nhưng rốt cục kẻ thù đó cũng đến, còn Ðiền bá phụ thì không thoát nổi tay hắn.
Nói đến đây, Ðào Tử An rút trong người ra một cái túi thêu hoa. Mọi người thấy túi đó thêu rất tinh xảo, đoán là Ðiền Thanh Văn làm ra nên đều quay đầu nhìn cả vào Tào Vân Kỳ. Thấy hắn tức giận đến mức mắt như bắn ra tia lửa, ai nấy đều cười thầm. Ðào Tử An mở túi rút ra một mảnh giấy, đang định đưa cho Bảo Thụ thì lại ngần ngừ rồi đưa cho Miêu Nhược Lan.
Mảnh giấy đó gấp vuông vắn, Miêu Nhược Lan đỡ lấy mở ra coi. Cô khẽ "ồ" lên một tiếng khi thấy trên giấy viết đậm hai hàng chữ như sau:
"Chúc mừng Ðiền lão tiền bối bế môn phong kiếm, phúc thọ ven toàn.
Dưới cửa hầu dạy bảo là vãn sinh Hồ Phỉ kính lạy".
Hai dòng chữ này nét bút cứng cáp, giống hệt nét chữ trong tờ thiếp chào do hai đứa tiểu đồng lúc nẫy mang lên, hẳn là do chính tay Tuyết Sơn Phi Hồ là Hồ Phỉ viết nên. Bàn tay Miêu Nhược Lan cầm tờ giấy run run, cô khẽ nói: "Lẽ nào lại là chàng?".
Nguyễn Sĩ Trung cầm mảnh giấy từ trong tay Miêu Nhược Lan lên coi, nói:
-Ðây chính là nét bút của Hồ Phỉ. Như vậy thế là chúng ta đã trách lầm Tử An rồi!
Lão bỗng quay người lại nhìn Lưu Nguyên Hạc rồi nói:
-Lưu đại nhân, vậy thì ngài núp dưới gầm giường Ðiền sư huynh chúng tôi làm gì? Ngài mai phục sẵn cho Tuyết Sơn Phi Hồ có phải không?
Mọi người nghe nói đều giật mình, cả Tào Vân Kỳ và Chu Vân Dương cũng chẳng hiểu ra sao. Ðêm ấy, trong bóng tối, người ở dưới gầm giường giao đấu vài hiệp với Nguyễn Sĩ Trung rồi chạy đi luôn, sau đó ba người cùng đoán nhưng rốt cuộc không biết là ai, làm sao lúc này ông ta đột nhiên lại hỏi độp Lưu Nguyên Hạc như vậy?
Lưu Nguyên Hạc chỉ cười nhạt một tiếng chứ không chịu đáp lời. Nguyễn Sĩ Trung lại nói:
-Ðêm ấy trong bóng tối, tại hạ không kịp nhìn rõ diện mạo của bậc quân tử dưới dưới gầm giường, nhưng thầm phục võ nghệ tài giỏi của ông ta. Ba chú cháu tôi chẳng những không chặn nổi ông ta mà cả đến lai lịch gốc gác của ông ta cũng chẳng biết mảy may, quả thật là bất tài. Hôm nay, trong cuộc tỉ thí trên tuyết, tôi được cùng Lưu đại nhân giao đấu, mới nhận ra đúng là thân thủ của bậc quân tử dưới gầm giường ngày ấy. Hà hà, may mắn gặp gỡ! Hà hà, đáng tiếc, đáng tiếc!
Chu Vân Dương biết sư thúc lúc này cần có người đỡ lời, chẳng khác gì vai phụ trong đấu khẩu, nếu không thì không nói tiếp được nên mới hỏi:
-Sư thúc, đáng tiếc cái gì thế?
Nguyễn Sĩ Trung nhướn mày, cao giọng nói:
-Ðáng tiếc đường đường một vị thị vệ ngự tiền là Lưu đại nhân mà lại bất chấp danh phận, làm cả những trò trèo tường khoét gạch, trộm chó mó gà như vậy!
Lưu Nguyên Hạc cười ha hả, nói:
-Nguyễn đại ca chửi hay lắm, chửi đã lắm! Ðêm ấy, núp dưới gầm giường Ðiền Quy Nông đúng là tại hạ chứ không sai đâu. Ngài chửi tôi là trộm chó mó gà cũng đúng nốt!
Nói đến đây, vẻ mặt Lưu Nguyên Hạc lộ vẻ đắc ý. Lão nói tiếp:
-Chỉ có điều tại hạ trộm chó mó gà lại là phụng thánh chỉ của Hoàng thượng mà làm đó thôi!
Mọi người lấy làm lạ, ngờ lão nói nhăng nói cuội, song nghĩ lại, lão là thị vệ trong cung nhà Thanh, thì e quả thật phụng chỉ để đối phó với Thiên Long Môn cũng chưa biết chừng. Người của Thiên Long Môn ai cũng đều có gia đình, đều làm ăn buôn bán giàu có, nghe thế bất giác chột dạ. Ân Cát là một tài chủ lớn nổi tiếng của Lưỡng Quảng nên càng lo sợ trong lòng.
Lưu Nguyên Hạc thấy chỉ một câu đã khiến cả bọn lo ngại thì càng dương tự đắc nói thêm:
-Việc đến thế này tôi cần phải nói rõ cho các vị biết, lát nữa có khi phải nhờ vả các vị. Có một vật này hoặc giả các vị chưa từng thấy bao giờ chăng?
Nói xong lão lấy từ trong người ra một túi lớn màu vàng, ngoài có đề hai chữ "mật lệnh". Lão mở miệng túi lấy ra một tờ giấy vàng, đọc to lên:
"Phụng mật dụ. Lệnh cho Ngự tiền nhất đẳng thị vệ Lưu Nguyên Hạc theo đúng kế thi hành, không được để lỡ. Tổng quản họ Trại".
Ðọc xong, lão trải tờ giấy vàng trên bàn cho mọi người cùng xem.
Bọn Ân Cát, Ðào Bách Tuế là người hiểu nhiều biết rộng, thấy trên tờ giấy vàng có dấu son đỏ chói thì biết ngay đó quả thật là mật lệnh của quan tổng quản thị vệ Trại Thượng Ngạc gửi xuống. Trại tổng quản xưa nay có tiếng là đệ nhất cao thủ vùng Mãn Châu, vốn được vua Càn Long rất vị nể. Lưu Nguyên Hạc nói:
-Nguyễn đại ca, ngài không cần trợn mắt vênh râu với tôi. Việc này từ đầu là do sư huynh ngài là Ðiền Quy Nông gây ra. Một hôm Trại tổng quản mời mười tám tên thị vệ chúng tôi đến phủ tổng quản ăn cơm tối. Mười tám người chúng tôi được bạn bè bên ngoài phủ tặng cho một biệt hiệu là "mười tám cao thủ trong đại nội".
Thực ra, dựa vào một chút bản lĩnh của "mèo ba chân", chúng tôi sao xứng đáng với hai chữ "cao thủ"? Chẳng qua bạn bè thích gọi như thế, thích thiếp vàng lên mặt mũi chúng tôi, vậy cũng đành chịu, phải thế không nào?
Chúng tôi vừa tới thì Trại tổng quản bảo hôm nay muốn giới thiệu với chúng tôi một vị danh nổi như cồn trong võ lâm. Trại tổng quản vào nhà trong dẫn ra một người, người này lưng thẳng dứng, dánh đi mạnh, hai mắt sáng, quả nhiên là cốt cách đáng mặt cao thủ võ lâm. Tóc mai tuy đã muối tiêu nhưng diện mạo vẫn cực kỳ tuấn tú, hẳn hồi trẻ phải là trang nam tử điển trai. Trại tổng quản cao giọng nói:
"Thưa anh em, vị này là chưởng môn Bắc Tông của Thiên Long Môn, nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, Ðiền Quy Nông đại ca!".
Chúng tôi nghe xong đều hơi sửng sốt. Mọi người đều biết danh tiếng Ðiền Quy Nông, duy có điều Thiên Long Môn xưa nay vốn ít qua lại với quan phủ, không biết Trại tổng quản nhờ đâu mà mời được ông ta đến. Trong bữa ăn, Ðiền đại ca cũng khách khí lắm, nói rất nhiều lời khách sáo về mối giao tình song không hề hé một câu nào về nguyên nhân ông tới kinh. Cho tới khi ăn uống xong, Trại tổng quản mời mọi người sang phòng bên uống trà, Trại tổng quản và ông ta mới nói nguyên nhân vì sao.
Thì ra Ðiền đại ca tuy thân tại giang hồ nhưng lòng trung quân báo quốc thì không kém gì chúng tôi là người đang tại chức. Lần này ông tới kinh là vì có một kho báu muốn dâng lên Hoàng thượng. Kho báu này là kho vàng bạc châu báu mà tên phản nghịch Lý Tự Thành vơ vét được ở Bắc Kinh. Ðiền đại ca cho biết muốn tìm kho báu này phải có đủ hai đầu mối, phải ghép hai đầu mối này mới có thể tìm ra. Một đầu mối là thanh bảo đao của Lý Tự Thành hiện do Thiên Long Môn nắm giữ, đại ca đang mang bên mình. Một đầu mối nữa còn khó tìm, đó là bản đồ chỉ nơi cất giấu kho báu, vốn là vật truyền từ đời này sang đời khác của nhà họ Miêu.
Chỉ có bảo đao mà không có bản đồ thì cũng không thể biết kho báu ở chỗ nào.
Nếu như cùng có hai vật báu này đem ghép lại thì việc tìm kho báu dễ như trở bàn tay.
Chúng tôi tuy làm quan nhưng ai nấy vốn đều xuất thân võ lâm. Vừa nghe tới ba chữ "Miêu gia kiếm" đều nghĩ: "Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng nổi danh "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" ghê gớm đến thế, ai dám gây sự với ông ta?". Ðiền đại ca thấy chúng tôi có vẻ ngần ngại thì mỉm cười nói: "Nếu tại hạ không nghĩ tới kế sách đối phó với Miêu Nhân Phượng thì làm sao dám khinh xuất đến đây làm kinh động tới các vị?". Trại tổng quản vội hỏi kế sách gì, Ðiền đại ca liền trình bày một hồi, khiến người nghe gật gù liền, đồng thanh khen là diệu kế. Diệu kế đó rốt cuộc là gì, khi nào đến lúc, các vị tất biết cả thôi, lúc này không cần nói nhiều.
Ngày hôm sau, Ðiền đại ca từ biệt rời kinh. Trại tổng quản liền sai chúng tôi tiến hành đúng kế. Trại tổng quản suy nghĩ về việc này thấy Ðiền đại ca không muốn làm quan cũng không màng của cải, sao vô duyên vô cớ lại biếu không một món béo bở như thế cho nhà quan? Trong thiên hạ đâu có người tốt đến thế? Trại tổng quản ngờ trong việc này phải có nguyên nhân khác, bèn bí mật cử mấy người đi khỏi kinh do thám. Tôi rời kinh không bao lâu thì được tin Ðiền đại ca bế môn phong kiếm, bèn chuẩn bị lễ vật đến nhà chúc mừng.
Lúc gặp mặt Ðiền đại ca, ông tỏ ra rất vui, nói rằng quý khách đến nhà thật là việc chẳng mấy khi có, sau đó lẳng lặng nhờ tôi làm giúp một việc. Ân đại ca, việc này nói ra xin đại ca đừng giận, ấy là ông bảo tôi đến gặp phủ quan để vu cho đại ca một tội danh nào đó, nhốt đại ca vào nhà ngục vài ba năm hẵng hay.
Ân Cát giật nảy người, sờn gai ốc, run run hỏi:
-Thì ra Ðiền sư huynh là con người như vậy. May mà được Lưu đại nhân soi xét,không nỡ bắt tội, tại hạ thế nào cũng phải báo đáp cho xứng.
Lưu Nguyên Hạc cười nói:
-Có gì đâu! Lúc ấy tôi hỏi ông ta có thù oán thế nào với Ân đại ca, mới biết theo quy củ của Thiên Long Môn thì thời hạn người chưởng môn Bắc tông nắm giữ bảo đao đã hết, thanh bảo đao vật báu biểu trưng phải chuyển cho Nam Tông, không trì hoãn, nếu bảo đao rơi vào tay Ân đại ca mà muốn đòi lại thì không tránh khỏi rắc rối. Lý do đó cũng đúng nhưng tôi bất giác càng nghi ngờ hơn. Lúc ấy tôi chỉ vâng vâng dạ dạ, không ra nhận lời cũng không hẳn từ chối, chỉ đứng sang một bên để xem sự thể ra sao mà thôi.
Sau bữa tiệc, tôi nghĩ thanh bảo đao của Ðiền đại ca thế nào cũng phải chuyển giao, khó mà thoái thác được. Tôi có cách giúp ông trong việc này. Nếu tôi lấy trộm thanh đao giấu đi, Ðiền đại ca ắt không thể bàn giao được. Ân đại ca dù có bất mãn thì cũng chẳng làm gì được. Ðây đúng là một thời cơ tốt cho tôi lập đại công báo ơn vua, sao có thể dễ dàng bỏ qua? Thế là tôi lẳng lặng lẻn vào phòng Ðiền đại ca, đang định tìm bảo đao thì nghe ngoài cửa có tiếng chân người, thì ra là Ðiền đại ca trở về phòng. Ðang lúc cấp bách, tôi đành nấp dưới gầm giường.
Ðiền đại ca về đến phòng thì mở hòm lấy chiếc hộp sắt ra. Bỗng ông kêu lên:
"Trời, đao đâu rồi?". Tôi nghe tiếng kêu ấy hoảng hốt khác thường chắc không phải giả vờ. Xem ra thanh bảo đao đã bị ai đó ăn trộm. Ông lập tức gọi con gái vào hỏi. Ðiền cô nương cũng không biết nên rất cuống quýt. Lát sau Nguyễn đại ca vào phòng, hai vị sư huynh sư đệ tranh cãi gay gắt với nhau về chuyện ám muội giữa Tào Vân Kỳ và Ðiền cô nương. Một lúc sau, Ðiền đại ca bảo Nguyễn đại ca đi gọi thế huynh Ðào Tử An đến.
Ðiền đại ca trao chiếc hộp sắt cho Ðào thế huynh, sai thế huynh đem chôn ngoài quan ải. Tôi núp dưới gầm giường nghe rõ mồn một, nghĩ bụng anh chàng ngốc Ðào Tử An phen này mắc bẫy lớn rồi.
Ðào thế huynh đi rồi, tôi ở dưới gầm giường nghe tiếng Ðiền đại ca đập tay xuống giường thở dài, miệng lẩm bẩm: "Gớm thay Hồ Nhất Ðao, gớm thay Miêu Nhân Phượng!". Lúc ấy, tôi không biết Hồ Nhất Ðao là ai, lại tưởng Miêu Nhân Phượng ăn trộm thanh đao báu. Nhưng hoá ra ông nhận được tờ thiếp của Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ, con trai Hồ Nhất Ðao, tự biết khó tránh khỏi được cái chết, cho nên rất hoảng sợ. Chẳng may đúng lúc này thanh bảo đao lại bị mất trộm, ông không thể cao chạy xa bay, bỏ mặc mọi chuyện.
Rồi Ðiền cô nương trở lại phòng nói: "Cha ơi, con tìm ra tung tích thanh bảo đao rồi!". Ðiền đại ca bật dậy, kêu lên: "ở đâu?". Ðiền cô nương bước đến gần nói khẽ:
"Chu sư huynh lấy trộm đây!". Ðiền đại ca nói: "Thật ư? Hắn đâu? Ðao đâu?".
Ðiền cô nương đáp: "Chính mắt con trông thấy Chu sư huynh đem bảo đao chôn ở một nơi". Ðiền đại ca bảo: "Tốt lắm, con mau đi đào lên!". Ðiền cô nương nói:
"Cha cho gọi Chu sư huynh đến, con nấp sau cửa. Cha hỏi sư huynh xem có ăn trộm bảo đao không. Nếu nhận, con sẽ ghim một trái Ðộc Long Chuỳ vào lưng hắn". Tôi nghĩ thầm thủ đoạn cô gái này độc ác thật. Lại nghe Ðiền đại ca nói:
"Cha bẻ gẫy bộ giò của nó là được rồi, bất tất phải lấy tính mạng hắn!". Ðiền cô nương nói: "Nếu cha không theo lời con, con không đi lấy đao cho cha đâu!". Ðiền đại ca lưỡng lự giây lát rồi nói: "Thôi được, con mau đi lấy đao về đây, xong rồi tuỳ con xử trí nó thế nào cũng được". Thế là Ðiền cô nương quay người bước ra.
Lúc ấy tôi không biết Ðiền cô nương có thù oán gì với Chu sư huynh của cô,hôm nay nghe Ðào thế huynh kể, tôi mới biết Ðiền cô nương muốn giết người để bịt đầu mối. Hừ, ghê gớm thật! Một cô gái con nhà nổi tiếng mà chôn đứa con hoang, việc ấy cho người khác biết được sao?
Lưu Nguyên Hạc nói đến đây thì mọi người đều chuyển ánh mắt sang Chu Vân Dương. Anh chàng này mặt tái mét, mắt chớp liên hồi.
Rồi Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
-Tôi quyết định nằm bẹp dưới gầm giường đợi xem màn kịch giết người này, vả chăng tôi còn phải đợi thanh bảo đao. Hơn nữa Ðiền đại ca đang thức nằm trên giường, tôi ra khỏi phòng sao được. Ðợi không lâu sau thì Ðiền cô nương hấp tấp trở vào: "Cha, thanh đao bị hắn đào lên đem đi rồi! Con ngu quá, để chậm một bước. Hắn... hắn còn..." Ðiền đại ca hoảng quá hỏi: "Hắn còn làm gì?". Thực ra Ðiền cô nương toan nói: "Hắn còn đào cả xác con trai con nữa", nhưng câu này nói ra sao được? Cô lặng đi một lát, nói: "Ðể con đi tìm hắn!". Nói xong cô sải chân đi
ngay. Chắc vì quá hoảng sợ nên cô chạy đến cửa thì trượt chân ngã nhào.
Tôi phải nín thở đến phát ngạt ở dưới gầm giường. Bảo đao không rõ ở đâu nữa rồi! Tôi đã toan thừa cơ tắt nến chuồn ra, nào ngờ Ðiền đại ca thấy con gái ngã thì chỉ thở dài chứ không xuống giường ra đỡ dậy. Ðiền cô nương đứng được lên, vịn vào khung cửa thở dốc một lát mới đi.
Ðiền đại ca xuống giường đến đóng chặt cửa sổ, ngồi trên ghế,. Ông đặt thanh trường kiếm lên bàn, tay cầm cung tên, mặt đanh lại, trông thần sắc ông mà phát sợ. Tôi cũng thấp thỏm lo lắng, nếu để ông phát hiện ra tôi, hẳn ông sẽ trở mặt, dứt tình. Võ công của tôi không bằng ông, e rằng tính mệnh khó bảo toàn.
Ðiền đại ca ngồi im trên ghế chẳng hề động đậy, người cứ đơ ra, riêng con mắt là còn sáng long lanh, chứng tỏ lòng ông buồn bực chẳng yên. Bốn bề im ắng như chết, chỉ nghe xa xa thoang thoảng có tiếng chó sủa, rồi gần đó có tiếng chó sủa inh lên. Chợt con chó ấy kêu"ẵng" một tiếng rồi im bặt như bị ai đó đánh chết bằng một đòn cực mạnh. Ðiền đại ca đứng vụt dậy, ngay lúc đó đã nghe thấy mấy tiếng gõ cửa. Tiếng gõ cửa quả là đến nhanh thật vì tiếng chó cắn vang lên cách đấy cũng phải mấy chục trượng. Ðủ biết người vừa đánh chết chó trong nháy mắt đã tới
cửa.
Ðiền đại ca trầm giọng hỏi: "Hồ Phỉ, người đến rồi ư?". Người ngoài cửa nói:
"Ðiền Quy Nông, huynh có nhận ra tiếng tôi không?". Ðiền đại ca nhợt nhạt cả mặt, run run nói: "Miêu... Miêu đại hiệp!". Người ngoài cửa nói: "Ðúng đấy, tôi đây!". Ðiền đại ca hỏi: "Miêu đại hiệp, huynh đến đây làm gì?". Người ngoài cửa đáp: "Hừ, tôi đưa mấy thứ đến cho huynh đây!". Ðiền đại ca do dự giây lát rồi đặt cung tên xuống ra mở cửa. Một người đàn ông cao gầy, mặt vàng như nghệ bước vào.
Từ dưới gầm giường, tôi để ý nhìn bộ dạng của ông ta, thầm nghĩ: "Người mang biệt hiệu Ði khắp thiên hạ không địch thủ, nhân vật số một trong võ lâm ngày nay quả là không cần nổi giận ra oai, khí thế thật đáng sợ!". Tôi nhìn thấy tay ông ta nâng hai thứ đặt trên bàn nói: "Ðây là bảo đao của huynh, còn đây là cháu ngoại của huynh!". Thì ra một cái bọc dài dài là xác đứa trẻ mới đẻ.
Ðiền đại ca rùng mình, ngã ngồi xuống ghế. Miêu đại hiệp nói: "Ðồ đệ huynh giấu huynh đem đao đi chôn, con gái huynh cũng giấu huynh đem chôn đứa con đẻ hoang. Cả hai đều bị tôi bắt gặp, nay tôi đào lên đem trả huynh".
Ðiền đại ca nói:
"Cám ơn. Nhà tôi xui xẻo, nói ra thêm xấu hổ". Bỗng mắt Miêu đại hiệp hoe đỏ,dường như ông khóc, nhưng nay sau đó mặt đã đầy sát khí, nhả từng chữ hỏi:
"Nàng sao mà chết?".
Chợt nghe "choang" một tiếng, tách trà trên tay Miêu Nhược Lan rơi xuống đất vỡ tan tành. Cử chỉ của tiểu thư vốn tao nhã điềm đạm, không hiểu sao vừa nghe câu đó đã bối rối đến thế. Cầm Nhi vội vàng rút khăn tay ra lau nước trà đổ xuống người tiểu thư, khẽ nói:
-Tiểu thư vào phòng nghỉ một lát đi, đừng nghe nữa!
Miêu Nhược Lan đáp:
-Không, ta phải nghe cho hết đã!
Lưu Nguyên Hạc liếc nhìn cô rồi kể tiếp:
-Ðiềm đại ca nói: "Hôm ấy nàng bị lạnh, cảm và ho. Tôi mời thầy lang thăm bệnh, thầy lang bảo không việc gì, chỉ bị cảm gió xoàng thôi, uống một thang thuốc, ra mồ hôi hạ sốt là khỏi. Nhưng nàng kêu thuốc đắng quá, đổ cả thuốc vừa sắc đi, cũng chẳng chịu ăn cơm cháo gì. Thế là bệnh ngày một nặng, tôi mời đến mấy thầy lang song nàng chẳng chịu uống thuốc của ai, lại cũng không ăn, nói thế nào cũng không khuyên nổi".
Miêu Nhược Lan nghe đến đây bất giác thút thít khóc. Bọn Hùng Nguyên Hiến đều lấy làm lạ, không hiểu người đàn bà không chịu ăn và uống thuốc ấy là ai, có quan hệ gì với cả ba người là Ðiền Quy Nông cùng hai bố con Miêu đại hiệp. Còn cha con họ Ðào và người của Thiên Long Môn thì biết người nói đến là phu nhân kế thất của Ðiền Quy Nông. Song vì sao Miêu đại hiệp quan tâm đến chuyện đó,vì sao Miêu Nhược Lan đau buồn thì họ đều không rõ nguồn cơn. Họ đều nghĩ: "Lẽ nào Ðiền phu nhân là thân thích của nhà họ Miêu? Làm sao bấy lâu nay chúng ta chưa hề nghe nói đến?".
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
-Lúc ấy nằm dưới gầm giường, tôi nghe mà chẳng hiểu mô tê gì hết, không hiểu họ đang nói về ai, thầm nghĩ Miêu Nhân Phượng hộc tốc đến đây chẳng qua vì muốn hỏi bệnh tình của một người. Người ấy không chịu uống thuốc, cũng chẳng chịu ăn, chẳng phải làm nũng sao. Nhưng Miêu đại hiệp lại hỏi tiếp: "Nói như thế là nàng không muốn sống nữa sao?". Ðiền đại ca đáp: "Sau đó tôi thụp xuống đất van xin nàng, nói đến hết hơi khản tiếng mà nàng vẫn cứ trơ trơ". Miêu đại hiệp hỏi: "Nàng có dặn lại gì không?". Ðiền đại ca đáp: "Nàng bảo tôi sau khi nàng chết
thì đem hỏa táng rải cốt tro lên trên đường đi cho mọi người giày xéo!". Miêu đại hiệp nhảy dựng lên, nghiêm giọng hỏi: "Huynh có làm theo lời nàng không?". Ðiền đại ca đáp: "Tôi đưa hỏa tang, cốt tro vẫn giữ ở đây". Nói rồi, ông đứng lên, lấy từ giường ra một cái hũ sứ nhỏ, đặt lên bàn.
Miêu đại hiệp nhìn cái hũ sứ, vẻ mặt vừa đau buồn vừa giận giữ. Tôi vừa liếc một cái là không dám nhìn vào mặt ông nữa. Ðiền đại ca lại lấy từ trong người ra một cái thoa ngọc đầu phượng đặt lên bàn nói: "Nàng dặn tôi trả cái thoa này cho huynh hoặc giao cho Miêu cô nương, bảo đây là vật gia truyền của nhà họ Miêu".
Nghe kể đến đây, ai nấy đều nhìn Miêu Nhược Lan. Chiếc thoa ngọc đầu phượng cài trên mái tóc cô hơi rung rung. Ðầu chim phượng chạm tinh xảo vô cùng, mấy hạt ngọc cũng tròn trịa trơn tru, chỉ riêng sắc ngọc đã ngả màu vàng, tựa hồ là đồ cổ trải qua lâu đời vậy.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
-Miêu đại hiệp cầm chiếc thoa ngọc lên rồi nhổ một sơi tóc trên đầu mình. ông thong thả xâu sợi tóc qua mỏ con phượng, sợi tóc xuyên xuốt từ đấy ra tới đầu nhọn của thoa, thì ra thân thoa rỗng. Ông cầm hai đầu sợi tóc kéo nhẹ một cái, một bên đầu con phượng bật ra. Chiếc thoa được nghiêng đi cho một viên giấy nhỏ rơi ra.
Miêu đại hiệp vuốt thẳng viên giấy rồi lạnh lùng nói: "Huynh đã thấy chưa?". Ðiền đại ca tái mét mặt, một hồi lâu mới thở dài.
Miêu đại hiệp nói: "Huynh nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lấy cho được bản đồ này nhưng rốt cuộc nàng đã nhận ra bộ mặt thật của huynh, không chịu nói cho huynh biết đều cơ mật, vẫn trả chiếc thoa ngọc cho nhà họ Miêu. Bản đồ kho báu ở ngay trong chiếc thoa này. Hừm, chắc có nằm mơ huynh cũng không nghĩ ra được!". Nói xong mấy câu đó, Miêu đại hiệp lại bỏ viên giấy vào một bên đầu chim phượng rồi dùng sợi tóc kéo lại cái lẫy như cũ. Ông dặt chiếc thoa lên bàn,nói: "Tôi dạy ông cách mở đầu con chim phượng rồi đấy nhé. Ông cầm lấy, theo bản đồ mà tìm kho báu!". Ðiền đại ca đâu dám động đến, chỉ mím chặt môi không nói một lời. Tôi ở dưới gầm giường nhìn ra thấy nôn nóng vô cùng. Bản đồ và thanh bảo đao chỉ cách tôi có vài thước, song không làm sao đoạt được. Còn Miêu
đại hiệp thì ngây người nhìn cái hũ sứ rồi thong thả giơ hai tay lên đặt vào lòng.
Nét mặt ông trông thật đáng sợ.
Một tiếng rên khẽ vang lên, rồi Miêu Nhược Lan phục xuống bàn khóc nức,chiếc thoa ngọc đầu phượng cài bên mái tóc rung mãi không thôi. Mọi người nhìn nhau, chẳng còn hiểu ra sao.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
-Ðiền đại ca đập tay xuống bàn nói: "Miêu đại hiệp, huynh cứ việc ra tay, tôi chết cũng không oán". Miêu đại hiệp cười gằn, nói: "Tôi hà tất phải giết huynh?
Người sống chưa chắc đã sung sướng bằng kẻ chết. Nhớ năm nào, tôi và Hồ Nhất Ðao tỉ thí, đánh nhau đến mấy ngày, cuối cùng cả hai vợ chồng họ đều chết mà tôi thì sống. Từ đấy tôi luôn đau buồn rồi cuối cùng mới nghĩ vợ chồng người ta chung thủy yêu nhau, sống chết có nhau, hơn tôi sống một mình trên cõi đời này nhiều lắm. Hừm, tấm bản đồ ấy ở ngay bên huynh bao nhiêu năm mà huynh chẳng hề biết, lại tự tay đưa trả tôi, tôi hà tất phải giết huynh? Cứ để cho huynh bực tức cả đời, như thế chẳng hay hơn sao?". Nói xong Miêu đại hiệp cầm lấy chiếc thoa, rảo
bước ra khỏi phòng. Tuy Ðiền đại ca có cung tên, đao kiếm song đâu dám động thủ.
Ðiền đại ca thở dài, đặt cái xác đứa bé lẫn thanh đao lên giường rồi quay ra cài chặt cửa, lẩm bẩm nói: "Người sống chưa chắc đã sung sướng bằng kẻ chết!". Ông ngồi trên giường gọi to: "Lan ơi Lan, nàng sẩy chân vì ta, ta cũng lỡ bước vì nàng,làm sao lại khổ đến thế?". Ngay sau đó nghe "sựt" một tiếng như một vật gì xuyên vào thịt. Ðiền đại ca giãy ở trên giường mấy cái rồi không động đậy nữa.
Tôi giật nảy mình vội chui ra, thấy ông đã đâm mũi tên có cánh vào tim, và đã tắt thở. Thưa chư vị, Ðiền đại ca tự tử chết chứ không phải bị tên bắn mà chết đâu.
Người khiến ông chết chẳng phải Ðào Tử An, càng không phải Hồ Phỉ mà chính là ông. Tôi không quen biết hai người họ Ðào, họ Hồ này nên chẳng cần phải gỡ tội cho họ.
Tôi thấy ông chết rồi liền thổi tắt nến, đang định cầm lấy thanh bảo đao rồi chuồn cho lẹ thì Ðào thế huynh đã đứng ngoài đập cửa, tôi đành lại phải chui vào gầm giường. Sự việc sau đó Ðào thế huynh đã kể rồi. Ðào thế huynh nhặt lấy bảo đao trốn ra quan ải. Tôi ở dưới gầm giường nín thở lâu đến thế lẽ nào uổng công sao? Thêm nữa, vị sư đệ họ Hùng của tôi đây xưa nay vốn có duyên với ẩm Mã Xuyên, thế là anh em chúng tôi cùng đến.
Lưu Nguyên Hạc nói xong, hai tay phẩy bụi trên người, trên tóc tựa hồ vừa mới từ dưới gầm giường chui ra vậy. Ông ta chiêu vài ngụm trà, thần sắc rất thoải mái,đắc ý.
Hồi 8
Quần Hùng Khám Phá Kho Tàng
Ðám người đó, mỗi người kể một đoạn, sau khi ghép lại thì mối nghi ngờ trong lòng mọi người đã tan đi quá nửa. Chỉ phải nỗi cái đói dày vò, càng uống trà càng cồn cào ruột gan.
Ðào Bách Tuế lớn tiếng nói:
-Bây giờ sự việc đã nói rõ ra rồi, thanh bảo đao này do chính tay Ðiền Quy Nông trao cho con trai tôi, các vị khỏi cần tranh giành nữa chứ?
Lưu Nguyên Hạc cười:
-Ðiền đại ca chỉ trao một cái hộp rỗng cho Ðào thế huynh mà thôi. Nếu huynh muốn lấy cái hộp rỗng đó, tại hạ không có gì để nói. Còn thanh bảo đao thì huynh làm gì có phần?
Ân Cát nói:
-Thanh đao này nên trở về với Nam Tông Thiên Long Môn chúng tôi, điều đó chẳng còn nghi vấn gì nữa.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Hồi đó Ðiền sư huynh đã làm lễ trao đao đâu? Ðao này vẫn thuộc Bắc Tông Thiên Long Môn?
Tiếng tranh cãi ngày càng một to. Bảo Thụ bỗng cao giọng hỏi:
-Các vị tranh nhau thanh đao này để làm gì?
Mọi người ngớ ra, không biết trả lời ra sao. Bảo Thụ cười nhạt:
-Lúc trước các vị chỉ biết thanh đao này chém sắt như bùn, sắc ngọt không bì,nhưng chưa biết rõ nó còn liên quan đến một kho báu rất lớn. Bây giờ có người nói,nên ai nấy mới vằn mắt lên, mới nảy lòng ham muốn. Có điều lão hoà thượng tôi đây muốn thỉnh giáo: nếu không có bản đồ kho báu thì riêng thanh đao này dùng được vào việc gì?
Mọi người hơi thất vọng, dồn mắt nhìn vào chiếc thoa ngọc trên mái tóc Miêu Nhược Lan mảnh mai yếu ớt, muốn lấy chiếc thoa trên đầu cô dễ như trở bàn tay,song nghĩ cha cô lừng danh thiên hạ, nếu ai đó dám xúc phạm sàm sỡ với cô thì cha cô sẽ truy cứu đến cùng, cho nên ai còn dám động đến? Mắt thấy chiếc thoa rung rung, song chẳng ai lên tiếng trước. Lưu Nguyên Hạc nhìn xéo mọi người một cái, vẻ mặt ngạo nghễ đến trước mặt Miêu Nhược Lan, bất chợt thò tay rút luôn chiếc thoa ngọc trên mái tóc cô.
Miêu Nhược Lan vừa thẹn vừa tức giận, tái mặt đi,lùi về phía sau hai bước. Mọi người thấy Lưu Nguyên Hạc dám cả gan như vậy thì đều thất sắc.
Lưu Nguyên Hạc nói:
-Ta đây phụng chỉ làm nhiệm vụ, sợ quái gì Miêu đại hiệp với Mầm đại hiệp? Vả chăng lúc này Kim Diện Phật sống hay chết, hừm, cũng còn là điều chưa biết kia!
Mọi người ồ lên hỏi:
-Sao thế?
Lưu Nguyên Hạc mỉm cười, đáp:
-Xem ra lúc này Kim Diện Phật vẫn còn ở trên đời, nhưng có đến chín phần mười đang bị cùm chân khoá tay ngồi trong ngục rồi đấy!
Miêu Nhược Lan kinh hãi, quên cả nỗi nhục bị lấy mất thoa ngọc, chỉ nghĩ đến an nguy của cha nên vội hỏi:
-Ông... ông bảo cha tôi làm sao?
Bảo Thụ nói:
-Ông nói cho rõ đi!
Lưu Nguyên Hạc nghĩ đến lúc lên núi bị lão kéo ngược kéo xuôi trên tuyết,không ra thể thống gì, nhưng khi nói đến việc phụng chỉ thi hành thì thần sắc Bảo Thụ thay đổi hẳn, bây giờ nghe lão hỏi vậy bèn hỏi lại:
-Bảo Thụ đại sư này, tại hạ hỏi ông trước đã, chủ nhân nơi này là ai?
Mọi người lên núi đã nửa ngày mà vẫn không biết chủ nhân là ai, nay nghe Lưu Nguyên Hạc hỏi đúng với ý mình, đều cùng nhìn vào Bảo Thụ. Lão cười rồi nói:
-Các vị đã không giấu giếm thì lão tăng cũng không cần giả bộ làm gì. Chủ nhân nơi đây họ Ðỗ tên Hi Mạnh, là nhân vật lừng danh trong giới võ lâm.
Ai nấy đưa mắt nhìn nhau, nhẩm thầm "Ðỗ Hi Mạnh? Ðỗ Hi Mạnh?" song không nhớ ra người này là ai. Bảo Thụ cười nói thêm:
-Vị lão anh hùng họ Ðỗ đánh giá cao về mình lắm, ngày thường không giao du với ai, cho nên võ công tuy cao cường song người thường đâu có biết. Còn những nhân vật đứng đầu chốn giang hồ thì ai nấy đều rất khâm phục vị lão anh hùng này.
Chỉ mấy câu nói qua thế thôi nhưng khiến tất cả đều mếch lòng. Rõ ràng có ý cho mọi người thực chẳng đáng kể gì. Bọn Ân Cát, Nguyễn Sĩ Trung đều giận lắm,nhưng lại nghĩ trên câu đối Miêu Nhân Phượng gọi ông ta là "Hi Mạnh nhân huynh", còn bản thân họ quả chưa đủ gọi huynh xưng đệ với Kim Diện Phật, cho nên tuy bực với câu nói của Bảo Thụ song không dám bắt bẻ. Lưu Nguyên Hạc lại nói:
-Lúc chúng ta lên núi, viên quản gia nơi này có nói chủ nhân anh ta tới tháp Ninh Cổ để mời Kim Diện Phật, lại cử người đi mời bang chủ họ Phạm của Hưng Hán Cái Bang nữa. Câu này có điều không thật, bởi Phạm bang chủ bị bắt ở phủ Khai Phong tỉnh Hồ Nam rồi. Tại hạ cũng góp chút sức lực trong vụ này.
Ai nấy kinh ngạc hỏi:
-Phạm bang chủ bị bắt rồi sao?
Lưu Nguyên Hạc cười nhạt:
-Vụ này chính Trại tổng quản, Tổng quản ngự tiền thị vệ ra tay. Xem ra Phạm bang chủ tuy cũng được kể là một nhân vật có cỡ song bất tất phải làm phiền đến Trại tổng quản. Chúng tôi tóm Phạm bang chủ coi như làm miếng mồi thơm dùng để nhử con kim ngao lớn hơn, con kim ngao ấy tất nhiên là Kim Diện Phật rồi. Ðỗ trang chủ định mời Miêu Nhân Phượng để đối phó với Tuyết Sơn Phi Hồ nào đó,nhưng làm sao mời nổi? Lúc này Miêu Nhân Phượng hẳn đi Bắc Kinh để nghĩ cách giải cứu Phạm bang chủ. Hừm, Trại tổng quản đã bố trí thiên la địa võng ở Bắc Kinh, chỉ còn đợi Miêu Nhân Phượng đến mà thôi. Nếu Miêu Nhân Phượng không trúng kế này thì chúng tôi cũng không thể làm gì được, còn nếu ông ta tới Kinh cứu bạn thì thế gọi là chim gõ kiến mổ gỗ hoàng liên, tự mình chuốc lấy quả đắng.
Khi chia tay với cha, Miêu Nhược Lan quả có nghe cha nói có việc lên Kinh,dặn cô lên núi tuyết trước, đếm ở tạm nhà họ Ðỗ. Lúc này nghe Lưu Nguyên Hạc nói thế, cô chỉ sợ cha mình lành ít dữ nhiều, bất giác tái mặt đi. Lưu Nguyên Hạc dương dương đắc ý, nói tiếp:
-Chúng ta đã có bản đồ và cả bảo đao nữa, hãy đi đào kho báu của Lý Tự Thành dâng lên thánh thượng. Mọi người ở đây sẽ đạt được công danh, vợ con cũng đều được phong tặng.
Thấy có người mừng ra mặt, có người do dự. Lưu Nguyên Hạc thầm biết những người như Ðào Bách Tuế chẳng hạn, coi thăng quan nặng hơn phát tài, nên nói thêm:
-Hẳn kho báu ấy của cải chất cao như núi, mọi người tiện tay nhặt lấy ít nhiều cũng đủ ăn thừa thãi cả đời, chảng hay lắm sao?
Mọi người khen phải ầm ĩ, không còn nói đi nói lại gì nữa.
Ðiền Thanh Văn từ lúc nãy xấu hổ quá tránh vào phòng, nay nghe ngoài sảnh không ngớt tiếng khen, biết rằng họ không còn bình luận về chuyện xấu xa của mình nữa bèn rón rén đi ra đứng bên ngoài cửa. Lưu Nguyên Hạc nhổ một sơi tóc trên đầu xuống thong thả xỏ qua mỏ con phượng trên chiếc thoa ngọc, rồi theo cách làm của Miêu Nhân Phượng nhìn thấy hôm đó, khẽ kéo sợi tóc. Cái lẫy trên đầu con phượng bật ra, quả nhiên có viên giấy nhỏ rơi ra, mọi người kêu ồ lên. Lưu Nguyên Hạc trải mảnh giấy trên bàn, ai nấy xúm lại xem. Mảnh giấy ấy mỏng như cánh ve, tuy lâu năm nhưng được cất giữ kín trong chiếc thoa nên không hề bị rách mủn. Trên giấy có vẽ một đỉnh núi thẳng đứng cao chót vót, bên cạnh đỉnh núi có viết chín chữ: "Sau ngọn Ngọc Bút, núi Ô Lan, Liêu Ðông".
Bảo Thụ kêu to:
-A¨i chà, trong thiên hạ sao lại có chuyện khéo đến thế? Nơi chúng ta đang đứng đây chẳng phải là ngọn Ngọc Bút núi Ô Lan hay sao?
Mọi người nhìn hình vẽ trên giấy quả nhiên thấy giống hệt ngọn núi tuyết này;cả ba cây thông già cỗi bên vách núi trông thấy khi leo núi cũng được vẽ rành rành trên đấy, ai nấy đều tấm tắc khen lạ. Bảo Thụ nói:
-Lão anh hùng họ Ðỗ trên trang trại này nghe nhiều biết rộng, hẳn là có nghe tin về kho báu ở nơi này nên mới xây riêng trang trại ở đây, nếu không, nơi đây khí hậu lạnh giá, lên xuống khó khăn, hà tất phải tốn phí nhiều công của đến thế?
Lưu Nguyên Hạc giật mình vội nói:
-Trời ơi, thế thì hỏng rồi! Trang trại này xây dựng đã lâu, ông ta lại chẳng khoắng sạch kho báu từ trước rồi sao?
Bảo Thụ mỉm cười nói:
-Chưa hẳn thế đâu! Lưu đại nhân nghĩ coi, ông ta đã tìm được nơi để kho báu thì nhất định đã sớm dọn đi nơi khác rồi, quyết không khi nào còn ở lại đây.
Lưu Nguyên Hạc vỗ đùi kêu lên:
-Phải lắm, phải lắm! Mau đến sau núi đi!
Bảo Thụ chỉ vào Miêu Nhược Lan:
-Còn tiểu thư đây với người của trang trại thì sao?
Lưu Nguyên Hạc quay người lại, thấy viên quản gia và người giúp việc trên trang trại đã tản đi đâu hết cả. Ðiền Thanh Văn từ cửa sau đi ra nói:
-Không biết làm sao, bon đàn ông đàn bà trên trang trại đều trốn mất tăm cả rồi!
Lưu Nguyên Hạc iật lấy một thanh đao, tới trước mặt Miêu Nhược Lan nói:
-Việc chúng ta nói ra, ngươi đã nghe hết từng câu một. Mầm họa này phải diệt!
Nói rồi giơ đao lên toan bổ xuống đầu Miêu Nhược Lan. Cầm Nhi từ sau lưng ghế nhảy ra, ôm chặt lấy tay của Lưu Nguyên Hạc ra sức cắn cho một miếng. Lưu Nguyên Hạc bất ngờ bị đau điếng ở tay, thanh đao rơi xoảng xuống đất. Cầm Nhi la mắng:
-Ðồ độc ác chết toi này, mi dám động đến một sợi lông chân của tiểu thư thì lão gia ta lên đến núi sẽ rút gân mi, lột da mi! Còn những kẻ khác cũng không khỏi bị liên can đấy!
Lưu Nguyên Hạc giận quá, trở tay định đấm cho Cầm Nhi một cái vào mặt thì Hùng Nguyên Hiến đã giơ tay phải gạt nắm đấm đó, nói:
-Sư huynh, việc cần nhất của chúng ta là tìm kho báu, bất tất làm tổn thương đến tính mệnh người khác.
Phải biết rằng Hùng Nguyên Hiến cả đời làm bảo tiêu xưa nay vốn nhát gan sợ liên lụy, cẩn thận chín chắn, không như sư huynh họ Lưu làm đến thị vệ của hoàng đế, giết vài mạng dân đen chẳng coi ra gì. Hắn nghe Cầm Nhi nói, cũng nghĩ nếu động đến Miêu Nhược Lan, vạn nhất cha cô thoát khỏi cầm tù thì thật là khó tránh khỏi tai vạ.
Ân Cát cũng nghĩ như hắn nên nói:
-Lưu sư huynh, chúng mau đi tìm kho báu thôi!
Lưu Nguyên Hạc trừng mắt, chỉ vào Miêu Nhược Lan nói:
-Còn con bé này thì thế nào?
Bảo Thụ mỉm cười bước tới hai bước, vén tay áo lên, giơ ngón tay điểm vào huyệt "thiên đột" ở cổ, vào huyệt "thần thông" ở lưng Miêu Nhược Lan. Toàn thân cô té nhũn ngồi phịch xuống ghế, tuy vừa thẹn vừa tức nhưng không thốt lên lời.
Cầm Nhi tưởng tiểu thư bị người đánh, liền liều nắm chặt lấy tay tên sư già định cắn một miếng.
Bảo Thụ cứ để cho cô gái nắm chặt tay phải đưa lên miệng, lão chỉ hơi đông đậy là ngón tay điểm luôn vào huyệt "nghênh hương" bên mũi và huyệt "địa thương" bên mép, khiến Cầm Nhi rùng mình một cái là ngã lăn xuống đất.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Tiểu muội nhà họ Miêu ngồi đây thì khó coi quá!
Liền nghiêng mình đỡ lấy Miêu Nhược Lan, vừa dìu sang phòng phía Ðông vừa nói:
-Ngươi nhẹ thật, như không có xương vậy!
Phòng phía Ðông vốn là phòng khoản đãi khách khứa của Ðỗ trang chủ, nào giường màn bàn ghế cùng các vật dụng khác đầy đủ, đồ bầy biện cũng rất sang.
Ðiền Thanh Văn khoá cửa lại, giúp Miêu Nhược Lan cởi bỏ áo ngoài, giày tất ra,chỉ để lại quần áo lót, rồi quấn cô vào trong chăn, buông màn xuống. Từ tuổi lên bảy, lên tám, Miêu Nhược Lan đã không khi nào cởi bỏ quần áo trước mặt người lạ, nay người lạ tuy là nữ song cô vẫn thẹn đỏ cả mặt. Ðiền Thanh Văn nhìn thân hình cô, mỉm cười nói:
-Sợ tỉ tỉ nhìn à? Muội này, muội xinh đẹp quá khiến ngu tỉ cũng không cầm lòng cảm động được đấy?
Nói xong, Ðiền Thanh Văn ôm đống quần áo của Miêu Nhược Lan ra ngoài sảnh nói:
-Tôi đã cởi bỏ quần áo cô ta đây rồi, nếu giờ huyệt đạo được giải thì cô ta cũng chẳng dám đi ra ngoài đâu.
Mọi người cười ầm cả lên. Bảo Thụ nói:
-Tất cả lại đây mà xem đi! Từ thanh đao này tìm đến kho báu ra sao đây?
Nói xong, lão lấy ra chiếc hộp sắt, mở hộp sắt cầm lấy thanh đao, thấy ngoài mấy chữ khắc trên bao da ra, chẳng có gì khác lạ cả. Một tay nám bao da, một tay nắm đốc đao, lão rút soạt thanh đao ra, chợt thấyluồng sáng xanh chiếu ra bốn phía, lạnh đến rợn người, bất giác lão rùng mình mấy cái liền. Cả bọn cùng lúc kêu ầm lên.
Bảo Thụ đặt thanh đao xuống bàn, ai nấy vây quanh xem, thấy thân đao một phía nhẵn thín, một phía chạm hoa văn hai rồng tranh nhau một hạt ngọc. Ðôi rồng này một to một nhỏ, hình dáng xấu xí, rồng không ra rồng, rắn không ra rắn mà như hai con sâu róm, nhưng hạt ngọc chúng tranh nhau lại là một viên ngọc, sáng long lanh, đúng là vật quý.
Tào Vân Kỳ cầm đao lên nhìn kỹ hỏi:
-Ðao này có gì lạ đâu?
Bảo Thụ đáp:
-Hai con vật này nhất định có liên quan đến kho báu, chúng ta đi ra sau núi ngắm xem rồi hãy nói. Ðưa đao đây cho ta!
Nói xong lão giơ tay toan đỡ thanh đao. Tào Vân Kỳ lẳng lặng rút đao về che lấy người rồi chạy bổ ra ngoài.
Bảo Thụ quát đuổi theo:
-Ngươi định làm gì đấy!
Ra đến cổng, thấy Tào Vân Kỳ xách đao chạy rảo chân về phía trước, lão giơ tay phải lên, thế là một hạt tràng sắt bay ra, trúng vào xương bả vai bên phải của Tào Vân Kỳ. Cánh tay hắn tê dại đi, nắm không chắc, thanh đao rơi xoảng xuống nền đất băng giá. Bảo Thụ bước nhanh tới, nhặt thanh bảo đao lên. Tào Vân Kỳ không dám tranh nữa, lùi sang một bên, ngây mắt nhìn Bảo Thụ và Lưu Nguyên Hạc,người cầm bảo đao, người cầm bản đồ, sánh vai cùng bước về mé sau núi. Lúc này cả bọn cũng ùa ra khỏi cổng, đi theo. Bảo Thụ vừa cười, vừa nói:
-Lưu đại nhân, lúc nãy bần tăng có lỡ mạo phạm, xin đừng trách!
Lưu Nguyên Hạc thấy lão cười tạ lỗi thì vui vẻ đáp:
-Ðại sư võ nghệ cao cường, tại hạ rất cảm phục, sau này còn có lúc nhờ vả đến ngài!
-Không dám -Bảo Thụ đáp.
Hai người đi được một thôi, thấy đỉnh núi đã hết đường đi, nhìn ra xung quanh toàn một màu tuyết trắng xoá. Tuy biết kho báu chỉ ở dưới ngọn Bút Phong này thôi nhưng đỉnh núi lớn nhường kia, khắp nơi tuyết phủ, không dể lại chút dấu vết nào, thì biết tìm ở đâu? Nếu phải xúc hết băng tuyết đi, thì dù có sức lực hàng trăm người, hàng tháng trời cũng chưa chắc đã dọn hết, huống hồ xúc hôm nay, ngày mai tuyết lại phủ đầy. Nghĩ tới Ðỗ Hi Mạnh đã ở trên đỉnh núi tuyết này mấy chục năm, ắt ngày đêm khổ công suy nghĩ trăm phương ngàn kế để tìm ra kho báu mà đến nay vẫn chưa thành công, đủ biết việc tìm kiếm kho báu quả không dễ dàng gì.
Cả bọn đứng cạnh vách núi nhìn đông ngó tây, đành chịu bó tay. Ðiền Thanh Văn bỗng chỉ một dải núi nhỏ lên xuống uốn lượn dưới đỉnh núi mà kêu lên:
-Các vị trông kìa!
Mọi người nhìn theo hướng tay chỉ vẫn không nhận ra có gì lạ. Ðiền Thanh Văn lại gọi:
-Trông xem kìa, hình dáng dải núi này có giống hoa văn chạm trổ trên thanh đao không nào?
Ðược nhắc nhở, mọi người ngắm kĩ dải núi. Chỉ thấy một dải từ Ðông Bắc chạy sang Tây Nam, một dải khác chạy từ chính Nam lên Bắc, chỗ hai dải gặp nhau có một ngọn núi thấp hình tròn như cái nồi.
Bảo Thụ nâng đao lên xem rồi lại ngắm dải núi, quả nhiên thấy vị trí và thế đi của dải núi giống hệt bức hình lưỡng long tranh ngọc chạm trổ trên thân đao, bất giác reo lên:
-Ðúng rồi, đúng rồi, kho báu nhất định ở đỉnh núi tròn tròn kia!
-Ta mau xuống đó đi -Lưu Nguyên Hạc giục.
Lúc này, cả bọn chỉ chăm chăm tìm kho báu nên có thể gọi là đồng tâm hiệp lực,không ai cón có ý nghi ngờ làm hại người khác. Ai nấy xé vạc áo lấy vải quấn vàobàn tay, nắm lấy dây thừng từ từ tụt xuống núi. Người đầu tiên xuống là Lưu Nguyên Hạc, người cuối cùng là Ân Cát.
Ân Cát toan cắt thừng đi, để tránh mối lo,nhưng thấy mọi người đi đã xa, sợ khi tìm thấy kho báu thì mình mất phần, bèn không dám chậm trễ nữa, giở khinh công đuổi cho kịp.
Từ ngọn Bút Phong nhìn xuống thì đỉnh núi tròn thấp ở ngay trước mặt, nhưng đường bộ để tới nơi thì chẳng gần chút nào, cũng phải tới chừng hai chục dặm. Cả bọn đều giỏi khinh công, chưa tới nửa giờ đã tới được đỉnh núi tròn. Họ quanh đi quẩn lại nơi này để tìm vị trí kho báu. Ðào Tử An bỗng chỉ sang trái kêu lên:
-Kia là ai?
Nghe tiếng kêu gấp gáp, mọi người cùng nhìn theo, chỉ thấy một bóng người áo trắng nhờ đang đi rất nhanh trên tuyết, thân pháp nhanh nhẹn thực khó hình dung.
Chỉ trong chớp mắt, cái bóng trắng đó đã chạy lên phía đỉnh Ngọc Bút.
Bảo Thụ kêu thất thanh:
-Tuyết Sơn Phi Hồ! Con trai của Hồ Nhất Ðao ghê gớm thật!
Trong lúc thốt lên câu này, mặt lão tối sầm, rõ ràng là trong lòng lo lắng lắm.
Lão còn đang trầm tư, chợt nghe Ðiền Thanh Văn kêu ré lên, vội vàng quay đầu lại nhìn: trên đỉnh núi tròn hổng ra một lỗ lớn, chẳng thấy Ðiền Thanh Văn đâu cả.
Ðào Tử An và Tào Vân Kỳ vẫn luôn ở bên Ðiền Thanh Văn, nay thấy cô ta sẩy chân rơi xuống hố. đều không hẹn mà cùng gọi to:
-Thanh muội!
Cả hai toan nhảy xuống cứu nhưng Ðào Bách Tuế đã kịp giữ con trai mình lại,quát lên:
-Làm gì thế?
Ðào Tử An không đáp và ra sức vùng ra rồi cùng Tào Vân Kỳ nhảy xuống. Nào ngờ cái hố này rất nông, hai người nhảy xuống đều đè lên Ðiền Thanh Văn. Cả ba kêu oai oái khiến người đứng trên đều bật cười, giơ tay kéo cả ba lên. Bảo Thụ nói:
-Có thể kho báu ở ngay dưới hố cũng chưa biết chừng. Ðiền cô nương thấy gì ở dưới đó?
Ðiền Thanh Văn xoa những chỗ đau do va phải đá ở trên người, lên tiếng ca cẩm:
-Tối thui, có nhìn thấy gì đâu!
Bảo Thụ nhảy xuống, giơ đuốc lên soi, thấy cái hố đó bề ngang chưa quá một trượng, trong hố toàn là nham thạch và băng đá rất cứng, ngoài ra không còn gì khác, lão đành tung thân nhảy lên.
Bỗng Chu Vân Dương và Trịnh Tam Nương hoảng hốt kêu ré lên rồi kẻ trước người sau sa xuống hai cái hố, một đằng đông, một đằng nam ở trong tuyết.
Nguyễn Sĩ Trung và Hùng Nguyên Hiến phải chia nhau kéo họ lên. Xem ra trên đỉnh núi tròn này xung quanh đều là hố, ai nấy đều sợ sẩy chân rơi xuống những cái hố sâu hơn và nguy hiểm hơn nên chẳng ai dám đi bừa mà chỉ đứng nguyên tại chỗ.
Bảo Thụ than thở:
Ðỗ trang chủ ở trên ngọn núi Bút Phong này đến mấy chục năm cũng không biết kho báu ở đâu. Ông ta không có bảo đao và bản đồ, không biết đầu mối ở đâu mà tìm nên chẳng kể làm gì. Còn chúng ta biết rõ là ở trên ngọn đồi tròn này, vậy mà vẫn không biết bắt tay từ chỗ nào, thật đúng là vô dụng.
Ðứng mãi cũng mỏi, mọi người đành ngồi xuống, bụng càng đói cồn cào, mệt mỏi và chán nản ra mặt. Vết thương của Trịnh Tam Nương lại đau, bà ta phải nghiến răng lấy tay ấn chặt xuống. Trong lúc quay đầu, bà ta thấy viên ngọc trên thanh đao trong tay Bảo Thụ loé sáng dưới ánh tuyết, trông càng lóng lánh tuyệt mĩ.
Trịnh Tam Nương nhiều năm cùng chồng làm nghề bảo tiêu, tận mắt trông thấy không ít của quý hiếm, lúc này thấy viên ngọc kia phát sáng khác thường, nảy ý muốn xem, bèn nói:
-Ðại sư, xin ngài cho tôi mượn xem thanh bảo đao một lát.
Bảo Thụ nghĩ thầm: "Mụ ta là đàn bà, chân lại bị thương, có ngại gì!". Nghĩ thế,bèn đưa bảo đao cho Trịnh Tam Nương cầm đao xem kĩ, quả nhiên thấy viên ngọc ấy được gắn mặt trái vào đao. Ðá quý vốn phân biệt giữa mặt phải và mặt trái, mặt âm và mặt dương. Một số nghệ nhân giỏi có thể chuốt mài cả hai mặt như nhau,nhưng con mắt người sảnh sỏi vẫn phân biệt được ngay. Trịnh Tam Nương bèn nói:
-Ðai sư, viên ngọc này mặt trái lộn ra ngoài, có thể bên dưới có gì lạ chăng?
Bảo Thụ đang lúc lúng túng vô kể, nghe Trịnh Tam Nương nói vậy bèn nghĩ:
"Bất kể mụ ta nói đúng hay sai, cứ cậy ra xem sao đã!", bèn cầm lấy đao, rút dao găm rồi dùng mũi dao khêu nhẹ viên ngọc một cái, viên ngọc rơi bật xuống đất.
Bảo Thụ nhặt viên ngọc lên, xem kỹ cả hai mặt chẳng thấy có gì lạ. Nhìn đến chỗ lõm lắp viên ngọc trên thân đao, lão bỗng kêu lạc cả giọng:
-Ðây rồi!
Thì ra trong vết lõm đó có khắc một mũi tên, đầu mũi tên chỉ theo hướng Ðông Bắc nhưng lệnh về phía Bắc, tận đầu mút có một vòng tròn nhỏ xíu. Bảo Thụ mừng khôn xiết, đoán giữa vết lõm là đỉnh núi tròn. Lão ước lượng cự li khoảng cách,nhằm đúng hướng từng bước một tiến tới; khi sắp bước tới nơi dự tính, quả nhiên đất dưới chân tơi xốp, người lún xuống ngay. Lão đã phòng bị sẵn, hai chân vừa tới chỗ đất chắc là huơ đuốc gạt băng, lộ ra một đường hầm dài ngay trước mặt, bèn đi ngay vào. Bọn Lưu Nguyên Hạc cũng nhảy xuống theo sau.
Ðuốc cháy được một lúc thì tắt, còn hang núi thì quanh co, vòng vèo, ngoặc liền mấy chỗ mà vẫn chưa tới nơi.
Tào Vân Kỳ nói:
-Tôi đi kiếm ít cành cây khô.
Nói rồi chạy trở ra ngoài, ôm vào một mớ cành khô, châm lửa thành bó đuốc khác. Tuy nóng này, nhưng hắn cũng có mặt tốt là làm việc mạnh bạo dứt khoát.
Tay cầm đuốc, Tào Vân Kì dẫn đầu đi trước.
Trong hang, khắp nơi toàn là băng đóng dày chắc từ rất lâu, một số nơi có những lưỡi băng chìa ra nhọn hoắt như lưỡi kiếm. Ðào Bách Tuế vác một hòn đá to, đập vỡ hết những lưỡi băng cản đường. Khi lên núi, ai nấy đều coi chừng nhau, nhưng lúc này đều mong tìm thấy kho báu nên dìu đỡ nhau đi cùng hội cùng thuyền.
Ngoặt qua mấy khúc quanh nữa, Ðiền Thanh Văn bỗng: "ối trời" một tiếng, chỉ tay vào một vật vàng choé ngay dưới đất trước mặt Tào Vân Kỳ.
Tào Vân Kỳ cúi nhặt lên, thì ra là một cây bút đúc bằng vàng, cán bút khắc chữ "An", giống hệt cây bút trong tay Ðiền Thanh Văn trước khi lên núi. Tào Vân Kỳ nghi hoặc, ngoảnh đầu lại nghiêm giọng bảo Ðào Tử An:
-Hừm, thì ra là ngươi đã đến đây!
Ðào Tử An nói:
-Ai bảo ta từng đến đây? Ngươi xem, lối vào có vết chân người đâu nào?
Tào Vân Kỳ nghĩ thầm: "Trong hang này quả không thấy dấu chân người, nhưng sao cây bút bằng vàng của hắn lại rơi ở đây được?". Hắn đã nghĩ việc gì là không sao để bụng được, bèn lập tức xoè tay ra cho thấy cây bút vàng, miệng nói:
-Ðây chẳng phải vật của ngươi là gì? Rành rành khắc tên ngươi đây này!
Ðào Tử An liếc nhìn vội lắc đầu:
-Ta chưa thấy vật này bao giờ!
Tào Vân Kỳ nổi giận, ném ngay bút xuống đất, rồi túm áo Ðào Tử An nhổ luôn một bãi nước bọt, quát to:
-Còn định chối hả? Rõ ràng ta thấy Thanh muội cầm cây bút ngươi tặng mà?
Hang núi này không tiện xoay trở người, Ðào Tử An sao tránh kịp? Bãi nước bọt ấy trúng ngay cạnh mũi anh ta. Ðào Tử An giận quá, phi chân phải ra đá trúng bụng dưới Tào Vân Kỳ, đồng thời hai tay ra chiêu "Yến quy sào" đánh trúng ngực đối phương.
Tào Vân Kỳ rùng người, vứt luôn bó đuốc, tay phải đánh trả một quyền, "bịch" một phát vào giữa mặt Ðào Tử An. Ðuốc tắt, trong hang tối om, chỉ nghe tiếng hai người giận giữ chửi rủa nhau xen lẫn những tiếng "bịch", "bịch". Cả
hai tay đấm chân đạp, chiêu nào cũng trúng đối phương, sau đó vồ lấy nhau lăn lộn dưới đất.
Mọi người vừa bực lại vừa buồn cười, đều lên tiếng can ngăn. Hai người nào có chịu nghe.
Ðiền Thanh Văn bỗng cao giọng nói:
-Người nào không chịu dừng tay, từ nay tôi không thèm nói chuyện với nữa!
Tào Vân Kỳ, Ðào Tử An đều khựng lại, bất giác buông nhau ra đứng bên. Trong bóng tối chỉ nghe Hùng Nguyên Hiến nhỏ nhẹ nói:
-Tôi là Hùng Nguyên Hiến tìm đuốc thắp lên đây. Hai vị chớ có ghen xằng mà đấm đạp vào người tại hạ nhé.
Hắn đưa tay khua dưới đất tìm được đuốc, đốt lên soi rõ Tào, Ðào hai người mắt tím mũi sưng, bàn tay nắm chặt, thở hồng hộc, giận dữ nhìn nhau.
Ðiền Thanh Văn lấy từ trong áo ra cây bút vàng, nhặt cây bút vàng dưới đất cầm lên, nói với Tào Vân Kỳ:
-Hai cây bút này quả thật là một đôi, nhưng ai bảo với huynh rằng Ðào huynh cho muội?
Tào Vân Kỳ ngớ ra, lắp bắp đáp:
-Không phải hắn cho muội, vậy sao muội lại có? Tại sao trên bút có tên hắn?
Ðào Bách Tuế cầm bút lên xem, hỏi Tào Vân Kỳ:
-Sư phụ ngươi là Ðiền Quy Nông, còn sư tổ ngươi là ai?
Tào Vân Kỳ ngẩn ra đáp:
-Sư tổ ư? Sư tổ là cha sư phụ tôi, sư tổ tên húy là An Báo.
Ðào Bách Tuế cười nhạt:
-Ðúng rồi! Ðiền An Báo. Ông ta dùng thứ ám khí gì?
-Tôi... tôi chưa từng được gặp sư tổ -Tào Vân Kỳ đáp.
Ðào Bách Tuế nói:
-Ngươi chưa gặp nhưng võ nghệ của Nguyễn sư thúc ngươi là do Ðiền An Báo đích thân truyền thụ, ngươi cứ hỏi ông ta.
Tào Vân Kỳ chưa kịp đáp thì Nguyễn Sĩ Trung đã nói:
-Vân Kỳ đừng gây lộn xộn nữa! Cây bút bằng vàng này là ám khí của sư tổ ngươi sử dụng đó.
Tào Vân Kì cứng họng, không nói được nhưng trong lòng vẫn không nguôi nghi ngờ. Bảo Thụ nói:
-Hai người muốn đọ tài cao thấp thì xin mời ra ngoài kia mà sống mái với nhau,còn chúng ta đi tìm kho báu đã.
Hùng Nguyên Hiến giơ cao đuốc đi trước dẫn đường, ngoặc qua một khúc quanh nữa.
Ðường vào hang ngày càng hẹp, ai nấy đều phải khom lưng mà đi, có lúc đầu va vào những nhũ băng rắn chắc đau điếng, nhưng nghĩ đến sắp được có được kho báu nên không còn thấy khổ sở nữa.
Ði hết khoảng uống cạn chung trà, trước mắt đã hết lối, chỉ thấy một tảng đá to hình tròn chồng lên một tàng đá hình tròn khác. Hai tàng đá này chắn hết lối đi,giữa hai tảng đá đều là băng đông cứng.
Hùng Nguyên Hiến giơ tay đẩy, tàng đá không hề nhúc nhích, liền quay lại hỏi Bảo Thụ:
-Làm sao đây?
Bảo Thụ lắc đầu không đáp. Trong đám cao thủ này, Ân Cát là người nhiều mưu trí nhất.
Ân Cát trầm ngâm giây lát rồi nói:
-Hai tảng đá tròn chồng lên nhau ắt phải đẩy được, chỉ do băng đông cứng lại mà thôi.
-Ðúng vậy, chỉ cần làm tan băng ra là được -Bảo Thụ vui mừng nó.
Hùng Nguyên Hiến bèn giơ đuốc đến gần một tảng đá, hơ cho băng đóng giữa hai tảng đá này chảy ra. Bọn Tào Vân Kì, Chu Vân Dương đi trở ra ngoài nhặt thêm cành khô chụm vào. Ngọn lửa cháy càng to, băng tan thành nước, chỉ nghe thấy những tiếng rạn lách tách rồi từng đám băng vụn rơi xuống nền đất.
Chừng thấy băng đóng quanh hai tảng đá tròn đã tan được quá nửa, Bảo Thụ nôn nóng vận lực lên hai tay đẩy đá nhưng đá vẫn đứng trơ trơ. Lại hơ một chập nữa,băng tan ra nhiều hơn, Bảo Thụ lại đẩy. Lần này tảng đá nhúc nhích mầy cái rồi từ từ chuyển dịch đẻ lộ một kẽ hở, chẳng khác gì cánh cửa đó do trời đất tạo nên vậy.
Cả bọn mừng quá, reo hò ầm lên. Nguyễn Sĩ Trung hợp sức cùng Bảo Thụ đẩy tiếp cho khe hở rộng thêm ra. Bảo Thụ nhặt một cành củi cháy đi vào trước, ai nấy cũng cầm đuốc ào ào vào theo. Vừa qua cửa đá, một luồng ánh sáng chiếu ra chói mắt khiến ai nấy đều im hơi nín thở, miệng há hốc ra.
Thì ra trước mặt là một cái hang cực lớn, xung quanh xếp kín nhưng khối vàng bạc, đá quý không biết bao nhiêu mà kể, nhưng số vàng bạc đá quý này đều ẩn sau những tảng băng trong suốt. Xem ra năm ấy, sau khi thuộc hạ của Sấm Vương cất giấu châu báu vàng bạc xing, đã tưới nước vào. Nơi đây quanh năm lạnh giá, băng tuyết không tan, thành thử châu báu vàng bạc như được giấu sau một lớp thủy tinh vậy. Tiếng reo vui ồn ào hẳn lên. Bảo Thụ, Ðào Bách Tuế cùng nhiều người khác đều nhào tới, chẳng còn biết nói gì lúc này. Chợt Ðiền Thanh Văn hoảng hốt kêu
lên:
-Có người!
Cô chỉ tay vào vách hang. Dưới ánh lửa soi, quả nhiên là có hai bóng đen đứng sát bên vách. Mọi người kinh sợ quá chừng, không ngờ có người ở trong hang. Lẽ nào còn có lối khác vào hang? Ai nấy cầm chắc vũ khí trong tay và bất giác đứng tụm lại với nhau. Một lúc lâu sau, hai bóng đen kia vẫn không hề động đậy, Bảo Thụ bèn quát to:
-Ai?
Nhưng hai bóng đen kia không đáp. Thấy hai người không có động tĩnh gì, mọi người càng nghi hoặc hơn. Bảo Thụ nói to:
-Không biết hai vị tiền bối cao nhân nào, xin mời ra đây tương kiến!
Tiếng lão đập vào bốn vách hang dội lại, vang đến nỗi ù cả tai rất khó chịu,nhưng hai người kia vẫn không đáp, cũng chẳng bước ra.
Bảo Thụ giơ cao đuốc lên, tiến lại gần mấy bước, nhìn rõ hai bóng đen kia ở ngoài một lớp băng. Lớp băng này thẳng đứng như một bức tường thuỷ tinh, ngăn thành hai gian trong và gian ngoài. Bảo Thụ lấy hết cam đảm tiến sát đến bức tường băng, thấy hai người kia dáng vẻ kì cục mà không hề động cựa, rõ ràng là bị điểm trúng huyệt đạo. Lúc này, lão không sợ nữa, gọi to:
-Tất cả đến đây!
Lão sải chân bước quanh bức tường, tay phải giơ đao, tay trái cầm đuốc soi vào mặt hai người, bất giác hít một hơi thật sâu. Thì ra hai người này đã chết từ lâu,mặt mũi gớm ghiếc, các thớ thịt trên mặt nhăn nhúm lại. trông thật dễ sợ.
Trịnh Tam Nương và Ðiền Thanh Văn thấy xác chết thì đều sợ hãi rú lên.
Những người khác tới gần xem, thấy hai người tay phải đều cầm dao găm đâm vào người đối phương, một mũi trúng vào bụng dưới, một mũi trúng ngực, đều là đâm chết lẫn nhau.
Nguyễn Sĩ Trung nhìn rõ mặt một xác chết, bèn phủ phục xuống đất khóc rống:
-Ân sư ơi, thì ra sư phụ ở chốn này!
Mọi người thấy hắn gọi thế đều kinh ngạc xúm lại hỏi:
-Thế nào, hai người này là ai?
-Sư phụ của ngươi sao?
-Làm sao lại chết ở đây chứ?
Nguyễn Sĩ Trung gạt nước mắt, chỉ vào cái xác hơi thấp hơn nói:
-Vị này là Ðiền ân sư của tôi. Chiếc bút bằng vàng vừa nãy Vân Kỳ nhặt được là của sư phụ tôi.
Mọi người nhìn mặt Ðiền An Báo chỉ chừng dưới bốn mươi tuổi, còn trẻ hơn cả Nguyễn Sĩ Trung, song nghĩ lại thì hiểu ra ngay. Hai người này thật ra đã chết mấy chục năm, chỉ vì trong hang giá rét nên xác vẫn còn nguyên vẹn như vừa mới chết mấy ngày vậy.
Tào Vân Kỳ chỉ vào cái xác thứ hai, hỏi:
-Sư thúc, còn người này là ai? Làm sao hắn lại dám giết sư tổ của chúng ta?
Nói xong, hắn đá một phát vào cái xác kia. Mọi người thấy xác này cao gầy,chân tay rất dài thì cũng đoán ra được tám chín phần. Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Ông này là cha Kim Diện Phật, hồi nhỏ tôi vẫn gọi là Miêu gia. Ông rất thân với ân sư tôi. Có một năm hai người rủ nhau ra ngoài quan ải, lúc ấy chúng tôi không biết là có việc gì, chỉ thấy hai người vui vẻ lắm, song từ đấy không thấy họ trở về nữa. Sau này các huynh đệ trong giới võ lâm truyền nhau là họ bị Hồ Nhất Ðao ở Liêu Ðông làm hại, cho nên Kim Diện Phật và Ðiền sư huynh mới nhất quyết báo thù Hồ Nhất Ðao. Nào ngờ cái người họ Miêu... nảy lòng tham, thấy châu báu trong động liền hạ độc thủ đối với ân sư tôi.
Nói xong, Nguyễn Sĩ Trung đá một phát vào đùi cái xác ấy. Người họ Miêu và họ Ðiền sau khi chết, toàn thân đông cứng nên dù Nguyễn Sĩ Trung có đá, cái xác vẫn đứng thẳng không đổ, còn ngón chân hắn đá lại đau ê ẩm. Cả bọn đều nghĩ "Biết đâu sư phụ ngươi nẩy lòng tham, hạ độc thủ trước cũng nên". Nguyễn Sĩ Trung giơ tay đẩy xác người họ Miêu, toan tách người đó ra khỏi sư phụ mình nhưng hai người bị dính với nhau đã mấy chục năm, tay liền với đao, đao liền với người, băng đóng cứng lại, sao có thể đẩy rời họ ra? Ðào Bách Tuế thở dài:
-Năm xưa, Hồ Nhất Ðao có nhờ người báo cho Ðiền Quy Nông và Miêu đại hiệp hay rằng ông ta biết ông cha của hai dòng họ bị chết vì nguyên nhân gì. Có điều hai người này chết không được đẹp mặt cho lắm nên ông ta không tiện nói ra, chỉ muốn đưa họ đến tận nơi xem mà thôi. Bây giờ chúng ta đã tận mắt thấy cả rồi, lời Hồ Nhất Ðao không sai. Như vậy Hồ Nhất Ðao ắt đã tới hang này, song thấy kho báu mà bỏ qua, thực không biết vì sao?
Ðiền Thanh Văn bỗng nói:
-Hôm nay tôi gặp một chuyện rất lạ...
-Chuyện gì thế?-Nguyễn Sĩ Trung hỏi.
Ðiền Thanh Văn đáp:
-Sáng hôm nay chúng ta đuổi theo... -cô vừa nói vừa nhếch môi về phía Ðào Tử An, mặt hơi đỏ lên -Sư thúc, sư huynh phi ngựa trước, tiểu diệt tụt lại phía sau...
Tào Vân Kỳ không nén được, gằn giọng:
-Muội cưỡi con ngựa tốt nhất, làm sao tụt lại đằng sau được? Muội.. muội không muốn ra tay với tên họ Ðào chứ gì?
Ðiền Thanh Văn không thèm nhìn hắn, chỉ khẽ nói:
-Huynh hại cả một đời muội, lại còn muốn dằn vặt đến thế nào nữa thì cũng tùy.
Nhưng Ðào Tử An là chồng chưa cưới của muội, muội có lỗi với Ðào huynh. Tuy Ðào huynh không cần muội nữa, nhưng ngoài anh ấy ra, trong