Kiếm Hiệp Kim Dung Full

Chương 3


trước sau


Tóm tắt

Vào cuối thời nhà Minh (1630-1644), đại tướng Viên Sùng Hoán bị cáo buộc tư thông với ngoại phiên và bị hoàng đế Sùng Trinh xử tử. Con trai Viên Sùng Hoán là Viên Thừa Chí được đưa lên núi Hoa Sơn và được Mục Nhân Thanh truyền thụ võ nghệ. Trên núi Hoa Sơn, Viên Thừa Chí tình cờ phát hiện ra Kim xà kiếm và Kim xà bí kíp - di vật của Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi và học được kiếm thuật vô địch của Hạ Tuyết Nghi.

Sau đó Viên Thừa Chí gặp được Hạ Thanh Thanh, con gái của Hạ Tuyết Nghi và Ôn Nghi. Hạ Thanh Thanh đã đi theo Viên Thừa Chí sau đó bị đuổi khỏi nhà, hai người yêu nhau. Để trả thù cho cha mình, Viên Thừa Chí gia nhập lực lượng khởi nghĩa do Sấm vương Lý Tự Thành lãnh đạo nhằm lật đổ triều đình nhà Minh. Viên Thừa Chí giúp nghĩa quân lấy lại số vàng đã bị gia đình họ Ôn lấy cắp, cùng với Thanh Thanh khám phá ra kho báu ở Nam Kinh và dùng nó để cung cấp cho nghĩa quân. Nhiều nghĩa sĩ giang hồ đã kết bạn và cam nguyện trung thành với Viên Thừa Chí khi biết chàng là con trai Viên Sùng Hoán. Họ suy tôn Viên Thừa Chí thành minh chủ của 7 tỉnh, tổ chức thành nghĩa quân nhằm bảo vệ đất nước trước sự xâm lược của quân Mãn Châu phía bắc.

Để giúp Sấm vương, Viên Thừa Chí cùng bằng hữu giang hồ tiến hành phá hủy đại pháo do người Tây dương cung cấp cho triều đình đàn áp nhân dân, sau đó chàng lẻn sang kinh đô Mãn Châu nhằm mưu sát Hoàng Thái Cực nhưng không thành công. Mặc dù căm thù hoàng đế Sùng Trinh sát hại cha mình, nhưng Viên Thừa Chí vẫn cứu thoát Sùng Trinh khỏi mưu đồ phế lập của Huệ Vương. Trong thời gian đó chàng quen biết Hà Thiết Thủ, giáo chủ Ngũ độc giáo và là người cùng phe với Huệ Vương, giúp cô cải tà quy chính và thu nhận làm đệ tử. A Cửu (tức Trường Bình công chúa, con gái vua Sùng Trinh) yêu Viên Thừa Chí và chàng cũng phân vân không dứt khoát giữa A Cửu và Thanh Thanh[2].

Lý Tự Thành sau khi đánh chiếm Bắc Kinh, bức tử vua Sùng Trinh đã không thực hiện lời hứa về việc đưa dân nghèo thoát khỏi cảnh nghèo khổ lầm than, ngược lại còn dung túng cho quân sĩ cướp bóc hãm hiếp lê dân, còn bản thân Lý Tự Thành thì đắm chìm vào rượu ngon gái đẹp, nghe lời sàm nịnh giết chết Lý Nham là người vô cùng trung thành với mình. Viên Thừa Chí quá thất vọng nên quyết định ra đi. Quân Mãn Châu với sự trợ giúp của Ngô Tam Quế vượt qua Sơn Hải quan tiến vào Trung nguyên, đánh bại Lý Tự Thành và lập ra nhà Thanh. Viên Thừa Chí biết rằng Trung Quốc đã hoàn toàn rơi vào tay người Mãn, chàng nhận ra rằng mình không thể đảo ngược được tình hình nên quyết định cùng Thanh Thanh và bằng hữu giang hồ chu du hải ngoại, định cư tại hải đảo mà ngày nay là Brunei.

Nhân vật

Viên Sùng Hoán (袁崇煥)[3]: đại tướng thời Minh, cha của Viên Thừa Chí, nhận trách nhiệm bảo vệ biên giới phía bắc trước sự xâm lược của Mãn Thanh. Ông bị vu cáo tư thông với ngoại phiên và bị hoàng đế Sùng Trinh xử tử.Viên Thừa Chí (袁承志): nhân vật chính của tác phẩm[3] con trai Viên Sùng Hoán, đệ tử thứ ba của Mục Nhân Thanh phái Hoa Sơn. Viên Thừa Chí cũng học được võ công vô địch của Kim Xà lang quân Hạ Tuyết Nghi thông qua bộ Kim Xà bí kíp, trở thành minh chủ 7 tỉnh đứng đầu Kim Xà Doanh trong lực lượng khởi nghĩa của Lý Tự Thành, sau khi nhà Minh mất cùng mọi người ra hải ngoại.Hạ Thanh Thanh (夏青青): còn gọi là Ôn Thanh Thanh (溫青青), con gái của Hạ Tuyết Nghi và Ôn Nghi. Cô là người Kỳ Tiên Phái ở Chiết Giang, thành viên của gia đình họ Ôn. Thanh Thanh rất yêu Viên Thừa Chí nên sau khi mẹ cô bị Ôn gia sát hại, cô đã đi theo Viên Thừa Chí làm bạn đồng hành. Thanh Thanh rất hay ghen tuông với những thiếu nữ có quan hệ với Viên Thừa Chí như An Tiểu Tuệ, Tiêu Uyển Nhi, A Cửu. Sau khi nhà Minh mất, Thanh Thanh cùng Viên Thừa Chí ra hải ngoại.A Cửu (阿九): tức Trường Bình công chúa (長平公主), con gái vua Sùng Trinh. Cô là đồ đệ của Trình Thanh Trúc, bang chủ Thanh Trúc bang, sau đó gặp và yêu Viên Thừa Chí. Khi Lý Tự Thành tấn công Bắc Kinh, A Cửu bị Sùng Trinh chặt đứt một cánh tay nhưng đã được Viên Thừa Chí cứu thoát. Cuối tiểu thuyết, A Cửu quyết định cắt đứt tình yêu với Viên Thừa Chí và xuất gia làm ni cô, bái Mộc Tang đạo nhân làm sư phụ, lấy pháp danh là Cửu Nạn (九難). Cô cũng xuất hiện trong Lộc Đỉnh ký.Hạ Tuyết Nghi (夏雪宜): ngoại hiệu Kim xà lang quân (金蛇郎君), võ nghệ cao cường với Kim xà kiếm pháp và Kim xà trùy oai chấn giang hồ. Ông hấp dẫn phụ nữ với vẻ ngoài quyến rũ hào hoa và tinh thần nghĩa hiệp, và đã có hai cuộc tình với Hà Hồng Dược và Ôn Nghi. Hạ Tuyết Nghi được miêu tả là đã chết khi bộ tiểu thuyết bắt đầu và được nhắc đến bởi những người còn sống, trong đó có Viên Thừa Chí là truyền nhân của ông. Hạ Tuyết Nghi (hay còn được biết đến qua danh hiệu Kim Xà Lang Quân) là một trong những nhân vật quan trọng trong tác phẩm Bích Huyết Kiếm của nhà văn Kim Dung.

Cả gia đình ông người bị con thứ Sáu của họ Ôn của phái Thạch Lương giết hại. Hạ Tuyết Nghi may mắn trốn thoát và đã luyện tập võ nghệ trong Kim Xà Bí Kíp (cùng với Kim Xà Kiếm là bảo vật trấn bang của Ngũ Độc Giáo). Trong lúc thâm nhập vào Ngũ Độc Giáo để cướp Kim Xà Kiếm, ông vô tình tìm được bảo vật thứ ba của họ là một bản đồ kho báu mà sau này Lý Tự Thành dùng để nuôi binh khởi nghĩa. Mang mối thù không đội trời chung với Ôn gia, ông quyết giết 50 người và 10 phụ nữ trong gia đình họ. Tuy nhiên, sau khi bắt cóc được Ôn Nghi, con gái Ôn lão chủ, ông bị vẻ đẹp của nàng cảm hóa. Ôn Nghi vì thấy chàng là một hảo hán hiệp nghĩa và vốn căm ghét sự xấu xa của gia đình nên nàng đã yêu thầm chàng. Tuy Hạ Tuyết Nghi võ nghệ siêu quần, nhiều lần bất phân thắng bại với Ngũ trận của Ôn Gia Ngũ Lão, ông đã bị Ôn lão chủ đầu độc trong bát canh sen của Ôn Nghi đưa. Mang trong mình kịch độc, nhưng vì cứu Ôn Nghi, chàng đã chiến đấu dũng cảm, sau bị Ôn gia cắt hết gân tay và phế đi võ công. Cuối cùng, trong quá trình giao lại cho họ Ôn bản đồ kho báu giả, chàng đã thông minh thoát thân và sau đó sáng chế ra ám khí Kim Sa chùy để đấu lại thế trận họ Ôn.Về sau, Viên Thừa Chí đã vô tình học được bí kíp này. Hạ Thanh Thanh chính là con gái của ông với Ôn Nghi. Sau ông đã chết trong hang núi trên phái Hoa Sơn và được Thừa Chí tận tay cất táng.

Hà Thiết Thủ (何鐵手): giáo chủ Ngũ độc giáo. Cô có một cái móc sắt ở tay phải, giống như tên gọi Thiết Thủ là bàn tay sắt. Cô gặp Viên Thừa Chí và ra sức gây khó dễ cho chàng. Khi gặp Hạ Thanh Thanh đóng giả nam trang, Hà Thiết Thủ đã yêu cô nên quyết định phản bội Ngũ độc giáo và rút khỏi kế hoạch ám sát Sùng Trinh[4]. Viên Thừa Chí đã thành công trong việc giúp cô cải tà quy chính và thu nhận cô làm đệ tử, đổi tên là Hà Dịch Thủ (何惕守). Cô cũng xuất hiện trong Lộc Đỉnh ký.Lý Tự Thành (李自成): nhân dân gọi là Sấm vương, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Minh.Mục Nhân Thanh (穆人清): chưởng môn phái Hoa Sơn, ngoại hiệu Thần kiếm tiên viên, có ba đệ tử là Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân, Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ và Viên Thừa Chí.Mộc Tang đạo nhân (木桑): chưởng môn Thiết Kiếm môn, sư phụ của Cửu Nạn, sư huynh của Ngọc Chân Tử.Quy Tân Thụ (歸辛樹): ngoại hiệu Thần quyền vô địch, đệ tử thứ hai của Mục Nhân Thanh. Có xuất hiện trong Lộc Đỉnh ký.

Viên Sùng Hoán bình truyện

Viên Sùng Hoán bình truyện là phần phụ lục của Bích huyết kiếm, được Kim Dung viết năm 1975, được chia làm 15 phần. Ban đầu có tên Quảng Đông anh hùng Viên man tử đăng trên Minh báo[5]. Tư liệu được lấy từ Minh sử, Thái Tông thực lục, Sùng Trinh trường thiên...

Nội dung chủ yếu của Viên Sùng Hoán bình truyện là lý giải nguyên nhân Sùng Trinh giết Viên Sùng Hoán không phải vì trúng kế phản gián của Hoàng Thái Cực mà là vì xung đột giữa hai cá tính con người, và tâm lý không bình thường của Sùng Trinh[5]. Một mục tiêu khác là nhắc đến nỗi hại của chế độ độc tài chuyên chế[5].

Theo bản thân Kim Dung thì bài văn này không có giá trị học thuật mà chỉ có tính dễ đọc so với sách sử thông thường[5].




Hồi 1

Mặt trời sắp lặn, đàn quạ đang bay về tổ. Trên con đường cái quan nối liền Thiểm Tây với Tân Lĩnh có một thiếu niên thư sinh đang cưỡi con ngựa trắng, vừa đi vừa ngắm phong cảnh vẻ mặt rất hớn hở. Thư sinh có tuổi chưa đầy hai mươi, tay cầm roi ngựa và lẩm bẩm ngâm nga: "Cảnh mặt trời lặn đẹp biết bao, tiếc thay không còn tồn tại được lâu."
Theo sau chàng có một tiểu đồng tuổi chừng mười ba mười bốn cỡi một con ngựa gầy còm. Trên con ngựa của y có cột một bọc sách lớn và một bó hành lý. Thằng nhỏ thấy trời sắp tối đến nơi mà công tử vẫn đi thủng thẳng, nó bèn lên tiếng thúc giục:
- Thưa công tử, nghe nói đường này không được yên lắm, nếu tối hôm nay chúng ta không đi kịp tới thị trấn ngủ trọ, lỡ gặp phải đạo tặc thì nguy to lắm đấy.
Thư sinh nọ nghe tiếng tiểu đồng nói xong tủm tỉm cười, giơ roi lên quất vào mông ngựa một cái.
Con ngựa của chàng cất vó phi chạy ngay.
Công tử họ Hầu tên là Triều Tôn biệt tự là Phương Vực, người huyện Thương Khán tỉnh Hà Nam. Năm đó là năm Sùng Tỉnh ngu niên. Hầu công tử xin phép cha mẹ ra ngoài du học. Hồi bấy giờ quan Thái giám Ngụy Trung Hiền đã bị xử trảm nhưng thiên hạ loạn lạc, đường đi không được bình yên đạo tặc nổi lên như kiến cỏ. Cha mẹ của chàng không cho phép chàng đi, nhưng chàng cứ khăng đòi đi và thưa rằng:
- Đại trượng phu phải đọc sách muôn cuốn, đi vạn dặm đường, thì đầu óc mới học hỏi nhiều và hiểu nhiều được chứ.
Thế là cha mẹ chàng đành phải cho chàng đi. Hầu công tử là người có tài và rất can đảm chàng liền đem theo Hầu Khang, một tiểu đồng vẫn hầu hạ mình. Chàng với tiểu đồng hai người cỡi hai con ngựa đi thẳng về phía Tây. Ngày hôm nay chàng vừa đi tới chân núi Chung Nam, suốt dọc đường chàng chỉ gặp những nông dân mặt vàng khè người ốm yếu và thỉnh thoảng lại còn thấy những xác của những người chết đói nằm ngổn ngang bên dọc đường nữa. Chàng còn thấy có xác chết mồm ngậm đầy cỏ xanh và đất khô. Thoạt tiên chàng còn bố thí tiền bạc cho những người nghèo đó. Nhưng sau thấy nạn nhân nhiều như vậy nên thôi. Khi tới gần chân núi, thấy cảnh sắc tuyệt đẹp chàng quên thảm trạng của lũ dân nghèo rồi cứ thế phóng ngựa vừa đi vừa thưởng thức.
Chàng thúc ngựa đi được một quãng đường, thấy sắc trí càng ngày càng tối đen trong lòng lo vô cùng chàng thúc ngựa chạy nhanh thêm. Chạy thêm được mười mấy dặm đường nữa chàng với tiểu đồng tới một thị trấn nhỏ, hai thầy trò mừng rỡ vô cùng, vội tìm khách sạn để trọ. Ngờ đâu phố xá vắng tanh. Hai thầy trò không thấy một bóng người nào hết. Đi tới trước một khách sạn thấy có tấm bảng đề "Trung Nam khách sạn." Hầu Khang xuống ngựa lên tiếng hỏi:
- Này, Phổ ky đâu? Chưởng quầy đâu?
Y đứng chờ giây lát cũng không thấy bên trong có động tĩnh gì hết. Đang lúc ấy một luồng gió bắc thổi tới có tiếng kêu "rào rào." Hai thầy trò Triệu tôn đều rùng mình rợn tóc gáy. Chàng vội rút thanh kiếm đeo ở trên vai xuống xông thẳng vào trong khách sạn đó liền thấy trong nhà có hai cái xác nằm ngổn ngang trên vũng máu bầm và có rất nhiều ruồi đang bay quanh hai cái xác đó mùi hôi thúi xông lên. Chàng đoán chắc hai cái xác này chết đã lâu rồi. Hầu Khanh thấy vậy la lớn một tiếng rồi chạy luôn ra ngoài cửa thềm. Triều Tôn đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh, thấy đồ đạc bừa bãi trên mặt đất, cửa ngõ cũng đổ nát, hình như đã bị giặc vào càn quét. Hầu Khanh thấy chủ nhân mãi không ra, y lại quay trở vào tìm kiếm. Triều Tôn thấy tiểu đồng vào liền nói:
- Chúng ta đi nơi khác xem thử nào.
Ngờ đâu hai người đi khắp thị trấn thấy nhà nào cũng đều như thế cả.
Hai người còn thấy xác của những thiếu nữ loã lồ, chứng tỏ nạn nhân đã bị cường bạo hãm hiếp xong rồi lại giết luôn. Cả thị trấn đồ sộ như thế mà đâu đâu cũng chỉ có gió lạnh thổi rùng mình, mùi hôi thối nức mũi cả hai chịu không nổi cứ buồn nôn ọe luôn. Lúc này dù Triều Tôn có can đảm đến đâu cũng không dám ở lại đó nữa và vội lên ngựa chạy thẳng về phía Tây ngay.
Hai thầy trò không nói nửa lời chạy luôn một mạch mười mấy dặm đường vừa đói vừa sợ. Đang kinh hoàng và lo âu thì Hầu Khang bỗng lên tiếng nói:
- Công tử xem kìa?
Triều Tôn nhìn theo về phía tay chỉ của tiểu đồng thì từ đằng xa có ánh sáng lửa, cả mừng và nói ngay:
- Chúng ta đến đó nghỉ ngơi đi.
Hai liền rời khỏi ngỏ cái quan đi thẳng về phía có ánh lửa. Hai người càng đi càng thấy đường gồ ghề khó đi. Triều Tôn bỗng nói:
- Nếu nơi đó là ổ cướp thì thầy trò chúng ta lại dấn thân vào chỗ chết mất.
Hầu Khanh giật mình và nói:
- Nếu vậy chúng ta đừng đến nữa.
Triều Tôn thấy mây đen đã bao phủ đầy trời cơn mưa sắp tới nơi nên chàng nói tiếp:
- Chúng ta cứ lẳng lặng tới đó xem sao.
Thế rồi chàng xuống ngựa, cột ngựa vào gốc cây ở bên cạnh đường, rón rén đi tới phía có ánh sáng lửa. Khi chàng tới mới hay nơi đó là hai căn nhà lá, cả hai mới yên tâm được phần nào. Chàng đang định đi tới chỗ cửa sổ để ngó vào bên trong xem sao, ngờ đâu chàng chưa tới gần đã có một con chó to nhảy sổ tới sủa vang. Chàng vội múa lộng thanh kiếm nên con chó ấy mới không dám tới gần cứ dừng ở đó sủa.
Bỗng cánh cửa mở toang bà cụ ở bên trong bước ra, tay cầm một ngọn đèn ra, với giọng run run hỏi chàng là ai.
Triều Tôn liền đáp:
- Chúng tôi là khách qua đường định vào quí phủ xin ngủ nhờ một đêm.
Bà cụ lại tiếp:
- Vậy mời quí khách hãy vào trong nhà.
Triều Tôn đi vào trong nhà lá ấy thấy đồ đạc rất giản dị, ngoài mấy cái sập bằng đất ra thì không còn cái gì nữa. Trong nhà có một ông cụ đang ho luôn mồm, Triều Tôn bảo Hầu Khang đi dắt ngựa tới. Tiểu đồng nghỉ tới những tình cảnh thảm khốc hồi nãy sợ sệt không dám đi. Ông già liền xuống dẫn y ra bên ngoài để dắt con ngựa vào.
Bà cụ lấy một cái bánh khô ra và pha một bình nước cho hai thầy trò uống. Triều Tôn ăn sao nổi những thứ đó chàng chỉ cắn một miếng đành phải bỏ giở, lại hỏi:
- Thị trấn ở đằng kia bị bọn giặc nào đến càn quét và giết chóc thảm thiết thế lão trượng?
Ông già thở dài một hồi rồi đáp:
- Có phải là giặc cỏ gì đâu, vì giặc cướp làm gì có ác độc như thế? Đó là bọn quan binh tạo ra đấy.
Triều Tôn nghe nói giật mình kinh hãi hỏi tiếp:
- Quan binh à? Sao quan binh lại lộng hành đến thế? chúng đang tâm chém giết như vậy mà quan trên của chúng cứ để chúng làm càn như thế hay sao?
Ông già cười nhạt một tiếng rồi đáp:
- Có lẽ Triều tướng công mới đi ra bên ngoài lần đầu chắc? Cho nên tướng công mới không hiểu một tí gì như tướng quân tưởng.
- Quan binh là người biết giữ luật pháp.
Triều Tôn lại hỏi tiếp:
- Sao dân chúng không lên quan trên mà kiện chúng?
Ông già đáp:
- Kiện chúng có ích lợi gì đâu? Không kiện thì còn may ra thoát thân, bằng không cứ tự tiện nộp đơn đi kiện lại còn bị chúng cướp phá đánh đập tàn nhẫn hơn.
- Sao lại có chuyện lạ lùng như thế?
- Không những thế, người nào kiện chúng chưa thấy quan phủ phạt chúng mà mình đã ăn một trận đòn, rồi còn bị giam vào trong nhà tù nữa. Nếu mình không có tiền hối lộ thì đừng có tưởng còn sống về với vợ con.
Triều Tôn nghe ông già nói vậy lắc đầu hoài và lẩm bẩm tự nói.
Chợt cánh cửa lớn đã bị người bên ngoài đẩy gãy đổ vào và có một người lớn tiếng quát mắng:
- Sao gọi mãi không mở cửa thế?
Không đợi ông già trả lời người đó đã tát cho ông già một cái kêu đến bộp một tiếng, bà cụ liền lên tiếng:
- Thưa quan lớn... vợ chồng... chúng tôi... già nua lẩm cẩm nên... không nghe thấy các ngài gọi cửa... ngờ đâu bà già lại bị đánh.
Bà cụ bị đánh một cái tát, người nọ lại quát mắng chửi:
- Không nghe thấy mới đáng bị đánh như vậy! Mau giết gà làm cơm cho bốn người ăn đi.
Ông già vội đáp:
- Chúng tôi sắp chết đói tới nơi làm gì có gà mà giết làm cơm cho quí vị.
Hai thầy trò Triều Tôn lại nghe thấy tiếng kêu "bùm" hình như ông già lại bị đẩy ngã vậy và tiếng bà cụ khóc lóc kêu ca.
Sau lại nghe thấy một tên nữa quát bảo:
- Thôi, Lão vương buông tha cho vợ chồng chúng, ngày hôm nay chúng ta xui thật đi cả ngày mới thâu được có hai mươi mấy lạng bạc ngân thuế. Ai nấy cũng đâm bực mình hết chừng còn đem ông bà già ấy ra đánh đập làm chi?
Tên nọ nói rằng:
- Những hạng người này chúng ta không cứng rắn một chút chúng không kiêng nể đâu. Ngay như mấy mươi lượng bạc thu được đó nếu không phải đệ đánh gãy chân anh chàng nhà quê ấy thì khi nào y chịu ngoan ngoãn nộp tiền thuế cho chúng ta.
Lại một người nói với giọng khàn khàn đỡ lời:
- Nhưng người nhà quê nghèo nàn thực, con gái mươi mấy tuổi mà không có quần mặc. Như vậy họ lấy tiền đâu mà nộp thuế chứ. Nhưng chúng ta không thâu được lại bị quan mắng chửi bảo chúng ta vô dụng...
Người đó đứng nói tới đây thì bỗng nghe tiếng ngựa của Triều Tôn kêu, mấy tên công sai giựt mình kinh hãi vội ra cửa điều tra xem, chúng thấy con ngựa liền bàn tán xôn xao, có tên nói:
- Người cưỡi ngựa thế nào cũng ở trong nhà này như vậy chúng ta lại kiếm được một món hời rồi
Nên tên nào tên nấy mừng rỡ và cùng tiếng vào trong nhà khám xét.
Triều Tôn cả kinh liền kéo tay Hầu Khang lén ra cửa sau đi miết, hai thầy trò chân cao chân thấp cứ cắm đầu mà chạy, mãi không thấy người đuổi theo hai thầy trò mới yên trí và cũng may tiền bạc đều cột cả ở trên lưng Hầu Khang. Hai người ở trong bụi cây ẩn nấp một đêm chờ trời sáng rõ mới đi ra ngoài tới đường cái quan. Hai thầy trò cứ lần theo đường cái mà đi hơn mười dặm rồi quyết định tới thị trấn đằng trước hãy mua ngựa cưỡi sau, Hầu Khang vừa đi vừa mắng chửi bọn công sai hoài. Trong khi đang chửi đổng luôn mồm thì bỗng có bốn tên công sai ở bên đương ngách bước ra tay cầm xích sắt và thước sắt, phía sau lại có hai người tay giắt một con ngựa.
Hai thầy trò Triều Tôn đã nhận ra ngay đó chính là con ngựa của mình nên hai thầy trò cũng ngẩn người ra. Lúc ấy hai thầy trò muốn tránh cũng không kịp nữa, đành làm như không có việc gì xảy ra và cứ đi thẳng về phía trước. Bốn tên công sai cứ ngắm nghía hai người hoài rồi một tên mặt vàng khè liếc mắt nhìn Triều Tôn hỏi:
- Nè, hai người kia làm nghề gì thế?
Triều Tôn nghe lời nói của người đó biết ngay người này chính là lão Vương mà tối hôm qua đánh ông bà già, Hầu Khang liền tiến lên một bước đáp:
- Vị này là công tử của chúng tôi định lên núi Chung Nam du ngoạn.
Lão Vương túm ngay lấy ngực Hầu Khang và nhanh tay cướp luôn bọc đồ cột trên vai rồi mở luôn ra xem ngay. Chúng thấy bên trong có rất nhiều vàng bạc liền động lòng tham và quát hỏi:
- Cái gì công tử với công tôn, chắc ngươi thế nào cũng là đồng bọn với lũ cường hào nên mới tới chốn này. Ngươi phải khai thật có đúng như vậy không?
Hầu Khang tái mặt nhưng cố lấy sự bình tĩnh:
- Bẩm đại quan không phải thế.
Lão Vương quát:
- Chứ thế nào hãy khai mau?
Hầu Khang đáp:
- Bẩm đại quan công tử của tôi là con nhà giàu sang quyền quí, nhân những ngày nghỉ học nhàn rỗi đi du ngoạn đến đây chứ không phải đồng bọn với bọn cường san, xin đại quan xét lại.
Lão Vương hầm hừ:
- Như thế các ngươi lên núi tiếp tế cho bọn cường san phải không?
Hầu Khang sợ hãi:
- Bẩm đại quan không phải vậy.
Lão Vương giận dữ quát:
- Thế tại sao các ngươi mang vàng bạc nhiều thế này, không phải tiếp tế cho bọn cường san?
Hầu Khang càng thêm kinh hãi:
- Bẩm đại quan mấy ngày trước Công tử tôi tới thị trấn trước kia thăm một người, khi về người sư thúc tặng số vàng bạc này cho Công tử tôi làm lộ phí.
- Ngươi nói láo.
- Bẩm đại quan tôi nói thật, tôi nói dối Vương đại quan đất trời tru lục cả gia đình tôi.
Lão Vương đưa cặp mắt cú vọ nhìn Triều Tôn rồi nhìn lại Hầu Khang như để dò xét sự thật. Sau đó lão gật đầu.
- Bây giờ ta cũng tạm tin theo lời nói của ngươi, nhưng số vàng bạc này ta mang về sở tại xét lại coi có đúng như lời của ngươi vừa khai không, nếu đúng ta sẽ trả lại.
Hầu Khang cũng là một tay có bản lĩnh hiểu rõ lão công sai họ Vương muốn chiếm đoạt số vàng bạc kiếm cớ nói ra như thế chứ có đời nào bọn công sai này buông bỏ miếng mồi béo bở.
Nhưng gã vẫn cúi đầu:
- Vâng. Bọn tại hạ xin đa tạ đại quan.
Lão Vương cho tay vào mặt Hầu Khang dọa:
- Nếu sau này ta tìm ra manh mối hai ngươi có thông đồng với bọn cường san thì đừng trách ta sao độc ác.
Nói rồi lão Vương cùng ba tên công sai đi qua một ngõ, Hầu Khang biết bọn chúng tìm chỗ chia vàng bạc. Dù đã bị mất hết số vàng bạc mang theo nhưng vẫn còn sinh mạng, Hầu Khang nói mau:
- Công tử chạy mau kẻo bọn chúng đổi ý thì khốn mất.
Chưa dứt câu gã đã chạy đi, Triều Tôn cũng gấp rút chạy theo. Hai người rẽ sang một con đường mòn vào trong núi để tìm đường ra quan lộ trở về gia trang.
Chỉ vì trong vùng này bọn công sai được bố trí khắp nơi không thể nào qua lọt được. Hầu Khang hướng dẫn Triều Tôn chạy được một lúc, thình lình nghe ở phía sau có tiếng vó ngựa đuổi theo. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần chứng tỏ đang đuổi theo thầy trò Hầu Khang và Triều Tôn. Triều Tôn hốt hoảng:
- Hầu Khang, bọn công sai đuổi theo chúng ta kìa.
Hầu Khang giục:
- Công tử chạy mau, bọn chúng sắp tới nơi rồi.
Triều Tôn vì quá sợ hãi luống cuống, cả hai chân như không còn có thể chạy.
Hầu Khang quay trở lại nắm lấy tay Triều Tôn chạy đi mau.
Tới một chỗ kia, gã hấp tấp bảo:
- Công tử! Bọn chúng sắp tới nơi rồi không thể nào chạy kịp nữa.
Triều Tôn run run:
- Chúng ta làm sao bây giờ?
Hầu Khang trỏ tay về phía trái vách núi:
- Chúng ta hãy trốn trong cái hốc đá đó.
Gã kéo tay Triều Tôn vào nách, chạy nhanh hơn trước trong khi vó ngựa đã tới gần. Đến hốc đá khá rộng. Hầu Khang thúc hối:
- Công tử vào nhanh đi.
Gã lôi tuột Triều Tôn vào trong hốc đá. Hốc đá này chỉ vừa chừng người thôi rong rêu lâu ngày nghe mùi ẩm mốc.
Hầu Khang và Triều Tôn quay mắt ra nhìn nín thở đợi chờ.
Người kỵ mã chạy tới phía sau có dắt một con ngựa dừng lại sau hang cốc.
Hầu Khang và Triều Tôn nín thở nhìn ra ngoài thấy người cưỡi ngựa không phải là bọn công sai và hắn đi một mình. Nhưng người lạ này không biết hắn thuộc hạng người nào có phải là cường đạo hay không. Vừa thoát khỏi bọn công sai giờ nếu rơi vào tay cường đạo họa đâu phải là nhỏ.
Người ky mã này trên tay cầm cây đao sáng ngời đưa mắt nhìn quanh một lượt.
Hắn lẩm bẩm:
- Hai người chạy đi ngã nào, ta định trả ngựa lại sao không thấy.
Nhưng hắn đã reo lên:
- Hai ông bạn hãy ra đây còn ở chi trong đó.
Biết không thể nào trốn được Hầu Khang và Triều Tôn bước ra ngoài.
Người đàn ông trỏ hai con ngựa:
- Ngựa này có phải của hai vị không?
Hầu Khang gật đầu. Người này bảo:
- Tốt hơn hết công tử nên mau trở về đi? Rồi thương lượng với lệnh tôn liễu - kết vụ án này. Vì bọn công sai âm độc lắm. Nếu không nghĩ cách đối phó chúng trước đến khi bị chúng ngăn trở thì phiền hà lắm?
- Còn chúng không biết tên của tại hạ ra sao, rồi tất cả mọi công việc chúng sẽ đổ hết lỗi vào cho công tử đấy?
Triều Tôn nghĩ cũng phải và chàng cũng hết du hứng rồi, liền đáp:
- Dương huynh chỉ giáo như vậy rất phải, vậy Dương huynh cho phép tiểu đệ đi cùng với Dương huynh về phía Đông nhé?
Bàng Cử gật đầu nhận lời. Hai ngày liền Hầu Khang bị hoảng sợ đến mất hết hồn vía, bây giờ y được một tiêu khách đi cùng cho nên khoái chí và yên tâm khôn tả.
Ba người đi được hơn ba mươi dặm, tìm không thấy chỗ trọ Bàng Cử liền lấy lương khô ra cho thầy trò Triều Tôn ăn.
Hầu Tôn đi kiếm một cái nồi vỡ, nhặt ít củi khô định đun ít nước uống, thì bỗng nghe thấy phía sau lưng có tiếng quát tháo:
- Cường đạo ở đây rồi?
Hầu Khang giật mình đến thót một cái, tay run lẩy bẩy nước trong nồi đổ hết cả vào đống củi. Bàng Cử quay đầu lại nhìn thấy một tên công sai hồi nãy phóng ngựa đi trước, y dẫn mười mấy quân binh đều cưỡi ngựa đuổi theo tới. Chàng liền bảo thầy trò Triều Tôn rằng:
- Mau lên ngựa?
Thế rồi cả ba đều nhảy lên mình ngựa phóng đi luôn. Bàng Cử nhường cho thầy trò phóng đi trước, còn chàng thì rút thanh đơn đao ra, đi sau yểm hộ. Bọn quan binh liền la lớn:
- Bắt lấy cường đạo?
Chúng vừa quát tháo vừa phóng ngựa đuổi theo. Bàng Cử thấy quan binh càng đuổi càng gần, và chúng lại còn bắn tên theo, chàng vội múa đao gạt hết những mũi tên đó.
Đang khi ấy chàng thấy ở phía trước bỗng có một con đường nhỏ, liền bảo thầy trò Triều Tôn rằng:
- Mau chạy sang đường nhỏ.
Thầy trò Triều Tôn liền ré sang con đường nhỏ đó mà chạy, bọn quan vẫn đuổi theo riết, tên công sai nọ còn quát tháo tiếp:
- Đuổi đi? Bắt được chúng sẽ có tiền bạc chia nhau ngay?
Bàng Cử thấy bọn quan binh săn đuổi tới gần liền dừng ngựa quay đầu lại quát lớn một tiếng rồi múa đao chém luôn.
Tên công sai họ Vương hoảng sọ vội lui về phía sau còn những quan binh khác thì múa thương xông lại đâm liều.
Bàng cử không dại gì lại đối địch với nhiều người như thế, nên chàng vừa đánh vừa rút lui. Ngờ đâu trong lúc hỗn chiến chân chàng bị một mũi thương đâm trúng.
Tuy vết thương không nặng lắm, nhưng nhuệ khí đã mất nhiều, chàng liền kẹp chặt lấy bụng ngựa, giật cương một cái, con ngựa của chàng nhảy xổ về phía trước, thuận tay chàng chém một tên quân binh gãy luôn một cánh tay trái. Các tên quan binh khác thấy vậy hoảng sợ liền lui ngay về phía sau, nhờ vậy chàng mới có dịp may phi ngựa chạy luôn.
Thấy chàng bỏ chạy bọn quan binh lại đuổi tiếp. Một lát sau chàng đã đuổi kịp thầy trò của Triều Tôn. Lúc ấy con đường càng ngày càng chật hẹp, các quan binh ai cũng sợ Bàng Cử dũng mãnh nên không ai dám đuổi tới gần. Ba người liền thúc ngựa chạy một hồi. Đường núi càng ngày càng khúc khuỷu khó đi, ba người chỉ còn văng vẳng nghe tiếng hò hét của bọn quan thôi, chứ không thấy hình bóng của chúng đâu cả. Đang lúc ấy, ba người thấy trước mặt hiện ra ba con đường nhỏ Bàng Cử liền khẽ bảo:
- Mau xuống ngựa?
Ba người chui vào trong bụi ẩn núp. Vừa núp xong, ba người đã thấy bọn quan binh đuổi tới. Lão Vương đang phân vân thì tên quân binh dẫn đầu đã rẽ sang một con đường khác tìm kiếm. Bàng Cử vội nói:
- Chúng đuổi một lúc thế nào cũng quay trở lại chúng ta hãy chạy mau lên?
Nói xong chàng xé một mảnh áo buột chỗ vết thương ở đùi rồi cả ba đều chạy sang một con đường nhánh khác.
Một lát sau, phía sau lại có tiếng quan binh đuổi theo tới. Bàng Cử lo âu vô cùng bỗng thấy phía đằng trước có ba căn nhà ngói, ở phía trước cửa có một nông dân đang làm lụng, chàng vội xuống ngựa đi tới trước mặt người nông dân đó và nói:
- Đại ca? phía sau có quan binh định giết hại chúng tôi, xin đại ca kiếm một chỗ kín đáo giúp chúng tôi ẩn núp.
Nông dân đó cứ thủng thẳng cuốc đất, hình như không nghe chàng nói gì cả vậy.
Triều Tôn cũng xuống ngựa van lơn. Nông dân ấy đột nhiên ngửng mặt lên nhìn, hai mắt tia ra hai luồng ánh sáng như hai tia điện, ngắm nhìn Bàng Cử với Triều Tôn một hồi, cùng lúc ấy ở trong bụi cây ở phía đằng trước có tiếng sáo du dương vọng tới và có một mục đồng cưỡi trên lưng bò đang thẳng đi ra. Mục đồng ấy tuổi chừng tám, chín đầu cột một cái đuôi sam nhỏ, mặt mũi rất thanh tú khiến cho ai thấy cũng phải động lòng thương, người nông dân liền nói với mục đồng rằng:
- Thừa Chí? dắt ba con ngựa này vào trong núi cho chúng ăn cỏ thật no, chờ trời tối hãy cho chúng trở về.
Tiểu đồng đưa mắt nhìn Triều Tôn ba người một cái rồi đáp:
- Vâng.
Thằng nhỏ liền dắt ba con ngựa của ba người đi luôn.
Bàng Cử không hiểu người nông dân làm như thế có ý nghĩa gì nhưng chàng chỉ thấy lời nói của người ấy rất có oai thế khiến ai cũng không dám chống cự và làm tráilại. Lúc ấy tiếng vó ngựa của quan binh đuổi theo càng ngày càng gần Triều Tôn thấy vậy lo âu vô cùng vội hỏi:
- Biết làm thế nào đây? Biết làm sao đây?
Người nông dân lên liền đáp:
- Ba vị hãy đi theo tôi lại đây.
Nói xong, y liền dẫn ba người vào trong nhà. Triều Tôn thấy trong nhà tuy có để rất nhiều nông cụ, nhưng quét dọn sạch sẽ lắm, đủ thấy nhà này không phải là một nhà nông tầm thường.
Nông dân đó đi thẳng vào bên trong đến bên phòng ngủ ba người chỉ thấy nông dân vén màn lên để lộ bức vách, rồi thấy người ấy giơ tay lên ấn vào hai nơi trên tấm vách đó một cái, liền có tiếng kêu "kèn kẹt" vang lên, trên tường hiện ra một cái lỗ hổng mọi người thấy vậy đều ngẩn người ra, nông dân liền nói:
- Đi vào đi?
Ba người nghe lời theo vào bên trong, mới hay đó là một cái hang động rất lớn, căn nhà lá được xây dựng ngay trước hang động, nếu không dời căn nhà này ra thì không ai biết đằng sau nhà là một cái hang động to rộng như thế.
Ba người vào trong đó ẩn núp xong thì người nông dân lại ấn tay lên vách tường một cái, cánh cửa kín đó tự động khít lại. Nông dân vội quay ra cuốc đất như thường.
Một lát sau tên công sai đã dẫn một bọn quan binh đến, tên công sai họ Vương liền lớn tiếng quát hỏi người nông dân nọ rằng:
- Này? Vừa rồi có ba người vừa cưỡi ngựa qua đây phải không?
Nông dân liền chỉ con đường nhỏ gần đó và đáp:
- Có, họ vừa mới đi qua đây và đi vào con đường ấy đấy.
Bọn quan binh liền theo con đường nhỏ ấy đuổi theo, nhưng chúng đi được bảy tám dặm, không thấy tung tích gì cả liền trở lại hỏi người nông dân, nhưng người nông dân giả bộ như câm như điếc, ăn nói ấm ớ không sao nghe rõ được. Một tên binh sĩ lớn tiếng mắng chửi:
- Đ.m hỏi tên ngu xuẩn này chỉ tốn mất thì giờ, chúng ta đi thôi!!!
Thế rồi bọn quan binh ấy đi sang con đường khác để đuổi theo tiếp, Triều Tôn, Hầu Khang, Bàng Cử ba người nấp trong hang động văng vẳng nghe tiếng vó ngựa chạy đã xa mới an lòng.
Một lát sau, ba người không nghe thấy tiếng động gì nữa, thế mà mãi không thấy nông dân mở cửa cho ba người ra. Bàng Cử nóng lòng sốt ruột vô cùng vội giơ tay đấm vào cửa nhưng tấm cửa đó rất dầy, đấm hằng nửa ngày mà không thấy suy chuyển chút nào., ở trong hang động tối om, không biết giờ giấc gì cả, ba người đành phải ngồi xuống đất ngủ gật để nghỉ ngơi.
Bàng Cử thấy vết thương đau nhức cứ luôn mồm chửi bọn công sai và bọn quan binh. Không biết trải qua bao nhiêu tiếng đồng hồ, cánh cửa đá bỗng xịch mở và có ánh sáng vàng lé vào.
Nông dân nọ tay cầm một ngọn nến vừa bước vào vừa nói:
- Mời ba vị vào xơi cơm?
Bàng Cử đứng dậy đi ra ngoài, thầy trò Triều Tôn theo sau cùng đi ra ngoài khách sảnh. Ba người thấy trên bàn gỗ để ở giữa nhà bày sẵn một bát canh rau một đĩa đậu phụng rang, ngoài ra lại còn có ba con gà nóng hổi nữa. Ba người thấy ngoài người nông dân và mục đồng ra lại còn có ba người nữa cũng ăn mặc theo lối nhà nông. Năm người đang đứng đợi chờ cả ở khách sảnh, Triệu Tôn với Bàng Cử ba người vội chấp tay cảm tạ và tự nói tên họ của mình cho mấy người đó nghe.
Nghe thấy cái tên Kim Xí Dương Bàng Cử hình như mấy người nông dân đó không có vẻ ngạc nhiên gì cả nhưng khi họ nghe Triều Tôn kể lại chuyện Bàng Cử cứu giúp thầy trò mình như thế nào và còn khen ngợi Bàng Cử một hồi. Bàng Cử có vẻ đắc chí vội đỡ lời:
- Câu chuyện vừa rồi có nghĩa gì đâu, thiết nghĩ năm xưa ở Sơn Tây một mình tôi bắn chết Tấn Bắc tam hung, lại còn khủng khiếp hơn chuyện vừa xảy ra hồi nãy nhiều.
Thế rồi, y liền kể lại lúc ấy tình thế nguy cấp như thế nào, y anh dũng ra sao, sắp bị đánh bại đến nơi mà lại còn thắng được đối phương giết chết luôn ba tên đạo tặc... càng kể y càng khoái chí và còn kể lại những chuyện của mình ở trên giang hồ trên mười năm nay lừng lẫy ra sao,... hết sức khoe khoang và tự cho mình là anh hùng cái thế. Y lại còn nói những cường đạo hễ thấy mặt y là không dám tới, y đang nói thao thao bất tuyệt thì bỗng thấy mục đồng ngồi cạnh đó cười khúc khích một tiếng...
Bàng Cử liếc nhìn thằng nhỏ một cái, nhưng y không có vẻ tức giận gì hết. Y lại tiếp tục nói những sự tích trên giang hồ. Triều Tôn nghe y nói có vẻ thích thú lắm. Hầu Khang hãy còn ít tuổi tính tre con vừa nghe vừa khen ngợi và thỉnh thoảng lại hỏi một vài câu. Sau cùng Bàng Cử nói đến võ nghệ, giơ tay giơ chân vừa nói vừa thí dụ. Mấy người nông dân có vẻ không thích nghe, nhất là người béo lùn họ La cứ ngập ngừng hoài và nói:
- Khuya rồi, chúng ta đi ngủ thôi.
Mục đồng nghe nói liền chạy ra đóng cửa luôn, người họ Chu xách một tảng đá lớn để ở xó tối ra chặn cửa. Bàng cử thấy tảng đá lớn như vậy bèn thở phào một cái và nghĩ thầm: "Người này khỏe thật, tảng đá ít nhất cũng nặng tới bốn năm trăm cân mà y xách đi một cách nhẹ nhàng như vậy..."
Họ Ung thấy y mặt biên sắc liền nói:
- Nghiệt súc lại tới lại tới quấy rối đấy.
Người họ Nghê bèn đứng dậy nấp ở phía sau cánh cửa lấy cây đinh ba ra rung động một cái có tiếng kêu cong cong vang lên rồi lên tiếng nói:
- Hôm nay nhất định không để nó đào tẩu được nữa. Thừa Chí, cháu cùng đi theo chú đi.
Mục đồng nhận lời ngay chạy luôn vào trong nhà lấy một cái thương sắt thu nhỏ ra. Người họ Chu liền xách tảng đá lớn sang bên, cánh cửa bị luồng gió thổi mở toang ra. Gió ở bên ngoài thổi vào đem cả mùi tanh hôi và những lá rụng, những ngọn nến ởtrong phòng cũng bị tắt luôn. Hầu Khang kinh hoảng thất thanh la lớn, người họ Nghê với mục đồng đã nhanh nhẹn nhảy ra ngoài cửa. Bàng Cử cầm thanh đơn đao cũng lên tiếng nói:
- Cho tôi đi với.
Y vừa bước chân ra ngoài cửa thì cổ tay trái y bị người ta nắm chặt lấy, y định dùng sức giật ra nhưng y thấy năm ngón tay của người đó cứng như sắt đang nắm chặt lấy tay y, khiến y không sao cử động được. Trong bóng tối liền có giọng nói khàn khàn khe bảo y rằng:
- Đừng đi ra, con hùm đó lợi hại lắm.
Bàng Cử còn định giằng co nữa nhưng người nọ cứ nắm chặt lấy y không kéo vào mà cũng không cho y đi ra. Bàng Cử bất đắc dĩ đành phải ngồi xuống đất người nọ mới chịu buông tay y ra.
Lúc ấy mọi người chỉ nghe thấy người họ Nghê quát tháo và tiếng hổ gầm.
Tiếng cồng đồng ở trên cây đinh ba kêu loong cong cùng tiếng lá, tiếng cành cây rơi xuống đất rào rào cùng nổi lên ồn ào vô cùng, thỉnh thoảng lại xen tiếng quát tháo của mục đồng. Mọi người đoán chắc hai người một hổ đang kịch chiến ở bên ngoài, một lát sau tiếng ồn ào đó càng ngày càng xa có lẽ con hổ đó đã bị thương và đào tẩu và hai người đã đuổi theo rồi.
Người họ La liền lấy đá lửa ra để châm nến chỉ thấy trong nhà đầy những lá và cành cây nhiều vô cùng. Mọi người đang im lặng bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng chân người đi tới, thoắt cái mục đồng đã chạy vào trong nhà vẻ mặt hớn hở mồm thì la lớn:
- Ăn thịt hổ, ăn thịt hổ.
Triều Tôn thấy cây đoản thương của y dính đầy máu tươi liền nghĩ thầm: "Y bé nhỏ như thế mà dũng mãnh như vậy. Mình thì tay không không trói nổi một con gà thật là hổ thẹn quá."
Chàng đang suy nghĩ, đã thấy người họ Nghê bước vào, tay trái cầm đinh ba, tay phải xách con cọp rằn rất lớn. Vừa vào tới nơi y đã ném ngay con cọp rằn xuống đất.
Triều Tôn giật mình đến thót một cái, vội chạy ngay vào bên trong. Sau chàng thấy con vật không cử động gì hết mới hay nó đã chết rồi. Người họ Nghê vênh mặt lên bảo mục đồng rằng:
- Thừa Chí, lúc nãy cháu đã đánh lầm rồi cháu có biết không?
Mục đồng cúi đầu xuống đáp:
- Dạ, cháu không nên đứng trước mặt mà ném phi tiêu.
Người họ Nghê mới dịu nét mặt và nói tiếp:
- Đứng phía trước ném phi tiêu không phải là không được, nhưng cháu hãy ném hai phi tiêu cùng một lúc. Đồng thời phải ném trúng hai mắt của nó và sau khi ném xong thì nhảy sang bên ngay. Bây giờ cháu ném có một phi tiêu, đả thương có một mắt nó thôi. Con cọp đã bị thương rồi, thế nào sức vồ của nó cũng mạnh hơn trước, nếu không dùng cây đinh ba chống đỡ thì cháu đã toi mạng rồi.
Mục đồng không nói năng gì hết, cứ đứng yên mà nghe thôi. Người họ Nghê liền khen y vài câu:
- Cháu ném phi tiêu khá lắm, nhưng sức ném còn hơi yếu một chút. Nhưng điều này không thể trách cháu được, sau này cháu lớn lên sức lực ở cổ tay sẽ tự nhiên mạnh hơn bây giờ liền.
Nói xong, y xách con cọp lớn lên. Chỉ thấy chỗ hậu môn bị bắn trúng một mũi phi tiêu. Y lại nói tiếp:
- Mũi tiêu đủ sức mạnh, nên đã xuyên vào tận trong bụng nó, vì vậy con súc sinh này mới chết ngay.
Mục đồng đáp:
- Ngày mai cháu sẽ dụng tâm luyện lại.
Người nọ nghe gật đầu, liền lôi con hổ vào trong hậu đường. Bàng Cử thấy hai người giết một con cọp lớn một cách dễ dàng như vậy, trong lòng sợ hãi không yên.
Thoạt tiên y tưởng những người này không phải là nông dân thường. Bây giờ y biết những người này có lẽ là giặc cướp giả dạng. Nếu họ mà ra tay đối phó mình thì mình địch sao lại họ.
Nhưng Triều Tôn không có ý nghĩ ấy, chàng cứ hết sức khen ngợi mục đồng anh dũng, rồi chàng còn chạy lại vuốt tay thằng nhỏ hỏi tên họ là chi nữa nhưng mục đồng không chịu cho chàng hay.
Đêm hôm đó, Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang ba người cùng ngủ một giường.
Vừa nằm xuống, Hầu Khang đã ngủ say liền. Triều Tôn nằm trằn trọc mãi không sao ngủ được. Một lát sau, chàng nghe có tiếng người đọc sách, liền lắng tai nghe, mới hay mục đồng đang đọc sách bằng tiếng Quảng Đông, chứ không phải là tiếng Trung Châu chàng lại càng ngạc nhiên thêm. Chàng nghe mãi không hiểu thằng nhỏ ấy đọc sách gì sau mãi mới nghe được một vài câu, mới hay mục đồng đang đọc viện binh trận, chiến đấu gì đấy. Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, chàng vội khoác áo ngoài vào, đi ra ngoài sảnh thấy trên bàn có thắp một ngọn nến cực lớn, mục đồng đang chăm chỉ đọc và người họ Ung ngồi bên cạnh dạy bảo. Trông thấy Triều Tôn ra chỉ khe gật đầu chào một cái thôi.
Triều Tôn tới cạnh bàn, thấy trên mặt bàn còn có thêm một cuốn sách nữa, chàng bèn cầm một cuốn lên xem thấy ngoài bìa đề "Kỳ Hiệu Tân Thư", mới hay cuốn sách ấy là cuốn binh thư.
Triều Tôn liền lên tiếng với họ Ung ấy rằng:
- Xem cử chỉ và hành động tôi nhận thấy quí vị ắt không phải là người thường. Vậy không hiểu tại sao quí vị ẩn cư ở nơi đây? Chẳng hay tiểu sinh có thể cho tại hạ nghe rõ nguyên nhân ấy không.
Người họ Ung đáp:
- Chúng tôi chỉ là những người dân rất thường thôi. Chúng tôi quanh năm sinh sống bằng nghề cày cấy săn bắn, còn học sách tập viết là việc rất thường thôi, chứ có gì khác lạ đâu mà công tử lại hỏi như vậy? chẳng lẽ chỉ có con cháu quan hay người giàu có mới được học hành hay sao?
Triều Tôn biết đối phương không chịu nói cho mình hay, có hỏi thêm chỉ vô ích mà thôi, nên chàng cáo lỗi, rồi trở về phòng ngay.
Chàng đang mơ mơ màng màng thì thấy có người đẩy mình một cái liền thức giấc và tỉnh lại liền. Chàng nghe thấy Bàng Cử khe nói:
- Nơi đây là ổ giặc đấy, chúng ta mau chạy đi thôi.
Triều Tôn giật mình kinh hãi khe hỏi lại:
- Sao Tổng tiêu đầu lại biết rõ như thế?
Bàng Cử liền lấy đá lửa ra đánh thắp một bó đuốc nhỏ, rồi tới cạnh một cái rương lớn rồi mở nắp ra và nói:
- Công tử xem này.
Triều Tôn thấy trong gương chứa toàn vàng bạc châu báu, giật mình kinh hãi đứng ngẩn người ra liền.
Bàng Cử đưa bó đuốc cho Triều Tôn cầm, để khuân cái gương ấy xuống, bên dưới lại còn một cái nữa, y định be khóa để mở ra xem Triều Tôn vội khuyên bảo:
- Ta không nên xem những gì bí ẩn của người khác như thế, nhỡ gây tai họa thì sao?
Bàng Cử đáp:
- Tôi nhận thấy trong rương có mùi khó ngửi xông ra.
Triều Tôn vội hỏi lại:
- Mùi gì thế?
- Mùi tanh của máu.
Triều Tôn không nói gì nữa. Bàng Cử liền bẻ luôn cái khóa rồi lắng tai nghe thấy bên ngoài không có tiếng gì cả, y liền khẽ mở nắp rương lên, và giơ bó đuốc lên soi.
Không hiểu hai người trông thấy vật gì ở trong rương mà đều ngẩn người ra liền.
Thì ra trong rương có hai cái thủ cấp một cái đã bị chém lâu, nên máu đã khô và thâm cả rồi, cái thứ hai thì mới chém không lâu. Họ tẩm vôi bột và thuốc để cho khỏi hư, nên râu và lông mày của hai cái thu cấp ấy vẫn còn toàn vẹn cả. Bàng Cử là người lão luyện giang hồ đến thế mà cũng biến sắc mặt, chân tay run lẩy bẩy liền. Triều Tôn cũng kinh hãi đến đứng đờ người ra.
Bàng Cử khẽ đóng nắp rương lại và nói:
- Chúng ta phải chạy cho thực mau mới được.
Nói xong, y liền gọi Hầu Khang dậy rồi cả ba lần mò ra ngoài sảnh, nhưng khi tới nơi canh cửa, vừa rờ tới tảng đá lớn chặn cửa thì Bàng Cử kêu khổ thầm liền. Y giở hết sức bình sinh ra mà cũng không sao lay chuyển nổi tảng đá ấy.
Bỗng có ánh sáng đèn chiếu ra, ba người vội quay lại nhìn, mới hay người họ Chu đã cầm nến bước ra. Bàng Cử vội cầm lấy thanh đơn đao để phòng bị, nếu có sao thì đành thí mạng với đối phương ngay. Nhưng người nọ không thèm đếm xỉa tới y, chỉ hỏi:
- Muốn đi phải không?
Nói xong, y liền đi tới cạnh cửa, khẽ đẩy tảng đá sang bên, rồi mở luôn cánh cửa lớn ra.
Không biết là hên hay xui, Bàng Cử với Triều Tôn cứ cúi đầu đi ra ngoài cửa, dắt ngựa tới, rồi lên ngựa phóng nhanh về phía Đông tức thì.
Ba người đi được mười mấy dặm, trong lòng đang yên trí thì bỗng nghe thấy phía sau tiếng gió ngựa nhộn nhịp và có người kêu gọi:
- Này, đứng lại, đứng lại.
Ba người không dám ngừng lại cứ thúc ngựa phóng tiếp. Đột nhiên có cái bóng đen thấp thoáng, một người lướt qua cạnh ba người và phóng lên phía trước, giơ tay ra một cái. Ngựa của Bàng Cử kinh hãi hí lên một tiếng cực lớn rồi đứng chồm lên luôn.
Bàng Cử vội giơ đao, nhắm đầu người ấy chém luôn một nhát. Người nọ giở thế võ tay không cướp khí giới ra đấu với Tổng tiêu đầu. Nhưng chỉ đấu được vài hiệp, người đó đã tung mình nhảy lên giơ tả quyền ra đấm luôn vào thái dương huyệt của Bàng Cử. Không chịu cho đối phương đấm trúng Bàng Cử múa đao lên nhắm cánh tay của người ấy chém luôn. Ngờ đâu thế công của người nọ chỉ là thế hư, tay đưa ra lưng chừng chàng đã biến quyền thành chưởng, người chàng ta chưa rơi xuống mặt đất đã dùng chưởng móc luôn vào cổ tay của Bàng Cử mồm thì quát lớn:
- Xuống ngựa.
Thế là người ấy đã lôi được Bàng Cử té xuống đất tức thì. Không hiểu y đã dùng thủ pháp gì mà chỉ giơ tay ra một cái đã cướp luôn được thanh đơn đao của đối phương ngay.
Người ấy cướp được thanh đơn đao xong liền buông tay Bàng Cử ra ngay và hai tay cầm thanh đơn đao bẻ "cách" một tiếng thanh đao ấy đã gãy làm hai, và vứt xuống đất luôn.
Dưới ánh sáng mặt trời mới mọc ba người nhận ra người đó là người họ Chu.
Người nông dân họ Chu nói:
- Ba người hãy theo tôi trở về đã.
Nói xong y liền nhảy lên mình ngựa dẫn đường đi trước, không lo ngại ba người Bàng Cử và Triều Tôn đào tẩu gì cả. Bàng Cử biết có chạy cũng không thể nào chạy thoát và phản kháng cũng không nổi, nên đành phải ngoan ngoan theo người nọ đi luôn.
Ba người theo người họ Chu lại quay trở về căn nhà ngôi ở trọ đêm hôm trước.
Vừa vào đến cửa đã thấy bên trong đèn thắp sáng choang, mục đồng ngồi ngay chính giữa, còn ba người kia ngồi ở hai bên, ai nấy vẻ mặt đều nghiêm nghị vô cùng và không nói nửa lời.
Bàng Cử yên trí phen này thế nào cũng chết chứ không sai, nên y đánh liều làm ra vẻ nghênh ngang kiêu ngạo nói:
- Ngày nay Dương đại ca đã lọt vào tay các ngươi, muốn chém thì chém, muốn giết thì giết khỏi cần phải nói nhiều.
Họ Chu liền nói:
- Ung đại ca nên đối xử với y ra sao?
Người họ Ung ngẫm nghĩ một hồi chưa kịp lên tiếng thì người họ Nghê đã xen lời tiếp:
- Buông tha cho thầy trò Hầu công tử.
Họ Ung đáp:
- Tên họ Dương này chuyên môn bảo tiêu làm chó săn cho người có tiền, tội của y đáng chết rồi, nhưng ngày hôm nay y có lòng nghĩa hiệp cứu thầy trò Hầu công tử thì hãy tha chết cho y một phen. Chú em họ La chú hãy phế đôi nhãn hiệu của y đi.
Người họ La đứng dậy, Bàng Cử thấy vậy mặt biến sắc. Triều Tôn không hiểu tiếng lóng của giang hồ, nên không biết phế đôi nhãn hiệu là khoét đôi mắt đi.
Nhưng chàng thấy thái độ của mọi người đoán chắc thế nào cũng giết hại Bàng Cử chứ không sai. Chàng đang định lên tiếng van lơn họ thì bỗng thấy mục đồng nói:
- Ung thúc thúc, cháu thấy y cũng tội nghiệp lắm, thôi tha cho y đi.
Người họ Ung đưa mắt nhìn nhau một cái, ngừng giây lát, y lớn tiếng nói với Bàng Cử rằng:
- Bây giờ đã có người xin cho ngươi, vậy ngươi phải thề độc là không được tiết lộ một tí gì về những việc mà hôm nay ngươi đã trông thấy.
Bàng Cử đáp:
- Quả thật tôi không có ý định dòm ngó gì hết, nhưng tôi đã trót thấy rồi, có điều chỉ trách Dương mỗ là người mù quáng không biết quí vị là anh hùng hảo hán. Từ đây trở đi tôi xin thề không bước chân vào Thiểm Tây này nửa bước và việc của quí vị tôi xin giữ kín. Nếu tôi nuốt lời thì trời đất tiêu diệt tôi.
Họ Ung lai nói:
- Được, chúng ta tin ngươi là người hảo hán, thôi ngươi đi đi.
Bàng Cử chấp tay chào định đi thì người họ Nghê đột nhiên đứng dậy quát tháo:
- Ngươi đi ngay như thế này ư?
Bàng Cử ngẩn người ra một cái nhưng y liền hiểu ý ngay, gượng cười một tiếng và đáp:
- Thôi được xin cho tôi mượn thanh đao.
Bàng Cử giơ tay ra bắt và đi mấy bước để tay phải lên mặt bàn, rồi múa đao chém đến phập một cái, đứt luôn bốn ngón tay.
Chém xong, y liền vừa cười vừa nói tiếp:
- Con đồ này một thân một mình chịu không liên can gì đến bọn kia hết.
Mọi người thấy tay y máu chảy ra như suối mà vẫn cố gắng chịu đựng được nên ai nấy đều cảm phục khí khái của y. Người họ Nghệ giơ ngón tay cái lên nói tiếp:
- Được lắm, câu chuyện hôm nay coi như đã kết liễu rồi.
Nói xong y liền đi vào bên trong, lấy thuốc cứu thương và vải trắng ra băng bó cho Bàng Cử. Không muốn ở lại đó chút nào Bàng Cử để người họ Nghê băng bó vết thương cho mình xong quay lại nói với người họ Nghệ rằng:
- Chúng ta đi thôi.
Triều Tôn thấy sắc mặt y nhợt nhạt như vậy chắc là y đau đớn lắm định mời y ở lại thêm một đôi ngày nữa nhưng chàng nghĩ lại không dám lên tiếng nói. Người họ Ung thấy vậy vội đỡ lời:
- Hầu công tử nói ra thì chúng tôi với công tử cũng có đôi chút liên can với nhau.
Người khách họ Dương này cũng hảo hán lắm. Thôi để tôi biếu cho hai người vật này.
Nói xong, y móc túi lấy ra một vật đưa cho Triều Tôn, Triều Tôn thấy vật đó là một the trúc, nho nhỏ, đầu có đục lỗ thành hai chữ "Sơn Tôn." Phía sau lưng có vẽ một bông hoa gì đó, nhưng chàng không hiểu vật này dùng để làm gì? Đang ngơ ngác nhìn thì người họ Ung lại tiếp:
- Hiện thời thiên hạ đại loạn, công tử là một thư sinh yếu ớt, không nên đi lại bên ngoài như vậy. Tôi khuyên công tử nên trở về nhà ngay. Nếu đi đường có gặp sự gì nguy nan thì công tử cứ việc đưa cái thẻ trúc này ra là bình yên ngay.
Triều Tôn lại xem cái thẻ trúc đó, thấy không có cái gì là lạ hết, nên chàng vẫn chưa tin nó có pháp lực thần bí gì chàng đoán chắc vật này chỉ là một vật để trong người thôi cho nên chàng liền cám ơn một tiếng rồi giao cho Hầu Khang bỏ vào trong bọc áo.
Thế rồi ba người từ biệt mọi người ra đi, cưỡi ngựa thung thẳng theo lối cũ quay lại. Cả ba trong lòng đều rầu rĩ vô cùng. Đi đến khi trời sáng tỏ mới đến một thị trấn nhỏ. Triều Tôn liền kiếm một khách sạn để cho Bàng Cử nghỉ ngơi.
Sáng ngày hôm sau ba người lại lên đường đi luôn. Không muốn trông lại thảm trạng thị trấn bị quan binh càn quét Triều Tôn đề nghị đi vòng đường chứ không chịu đi xuyên qua thị trấn đó. Ba người đi đến giờ ngọ mới có chỗ nghỉ chân, nghỉ ngơi xong, lại lên đường, đi được hơn hai chục dặm nữa, bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa nhộn nhịp, rồi thấy một người cưỡi ngựa ở đằng trước phi tới. Khi đi qua cạnh ba người, có đưa mắt ngắm nhìn Triều Tôn và Bàng Cử một cái rồi phóng ngựa đi luôn.
Ba người đi được năm sáu dặm đường, lại nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa nhộn nhịp. Và thấy người cưỡi ngựa hồi nãy đuổi theo tới. Lần này y ngắm nhìn Bàng Cử và Triều Tôn kỹ lưỡng hơn, người ấy đầu bọc vải xanh mặt mũi có vẻ rất anh tuấn.
Y đi qua cạnh ba người rồi phóng đi luôn.
Triều Tôn liền lên tiếng nói:
- Hình dáng của người này kỳ lạ thật, sao y đi rồi lại quay trở lại thế?
Bàng Cử đáp:
- Chờ lát nữa có việc gì xảy ra Hầu công tử chỉ việc đào tẩu trước, cứ để mặc cho tôi đối phó.
Triều Tôn kinh hãi hỏi lại:
- Dương huynh nói gì thế? Lại có cường đạo hay sao?
- Có lẽ chúng ta đi không đầy năm dặm nữa thế nào cũng có việc xảy ra, nhưng bây giờ chúng ta muốn lui cũng không được nữa đành phải xông pha lên một phen vậy.
Liền có ba người cỡi ngựa chạy ra cản đường. Bàng Cử... thúc ngựa chạy lên chắp tay chào nói:
- Tại hạ là người họ Dương người của tiêu cục Võ Hội đi qua quí địa nhưng không phải là bảo tiêu gì cả, cho nên mới không gửi thiếp chào quí Vương gia, còn vị Hầu công tử đây là đi du lịch. Hầu công tử là học trò mong quí vị nể nang nhường lối đi cho.
Bàng Cử ở trên giang hồ cũng có chút tên tuổi xưa nay, đơn đao của y cũng học được chân truyền, nhưng vừa rồi y bị chặt gãy mấy ngón tay và y lại nghĩ mấy người quanh đây chắc đa số có liên quan đến người họ Ung. Cho nên y mới dùng lời lẽ khiêm tốn như thế để thỉnh cầu. Người đi giữa ba người kia tay không cầm khí giới cười đáp:
- Chúng ta thiếu tiền lộ phí định mượn các hạ một ít.
Rồi y phi ngựa tới, giơ tay ra chộp luôn cái bọc áo sắp rơi xuống đất.
Y vừa cầm bọc áo lên vừa thử xem nặng bao nhiêu rồi vừa cười vừa nói:
- Cám ơn nhé.
Giây phút sau ba người đó đã đi mất dạng liền. Bàng Cử liên tiếp bị thất bại chán nản vô cùng. Hầu Khang lo âu vội hỏi:
- Tất cả tiền lộ phí của chúng ta ở trong cái bọc đó hết, bây giờ biết lấy gì mà đi về đây?
Bàng Cử đáp:
- Chú được sống sót như vậy cũng đã là mừng lắm rồi, thôi chúng ta cứ đi đến đâu lo đến đấy vậy.
Ba người nản chí cúi đầu thủng thẳng đi luôn. Nửa giờ sau, bỗng nghe thấy phía sau lại có tiếng vó ngựa nhộn nhịp ba người vội quay đầu nhìn lại mới hay ba người lúc nãy lại quay ngựa đuổi theo. Bàng Cử và Triều Tôn đều hoảng sợ vô cùng, không biết họ đuổi theo như thế để làm chi.
Ba người đó vừa phóng ngựa tới trước mặt bỗng xuống ngựa liền, người đi trước chắp tay chào và nói:
- Ra là người nhà cả, chúng tôi thất lễ mà cũng không hay, xin hai vị đừng trách cứ nhé.
Một người nữa hai tay bưng bọc áo trả lại cho Hầu Khang, lễ phép:
- Xin giao hoàn món vật này lại cho huynh đài, vừa rồi chúng tôi đã hiểu lầm xin thứ lỗi cho.
Hầu Khang trố mắt nhìn gã kia chưa biết phải phản ứng ra sao cho đúng vì trong lòng hắn rất nghi ngại bởi vì bọn người này vừa mới cướp cái bọc của thầy trò hắn chạy đi, bây giờ trở lại trao trả với ý định gì.
Từ trước bọn cường can tính tình hung bạo tráo trở lạ thường làm sao có thể tin được. Chúng bảo chúng ta người nhà cả. Câu nói này có ý nghĩa gì. Hầu Khang đứng ngớ người ra chưa đáp.
Tên kia tươi cười:
- Huynh đài hoài nghi tôi nói đùa đấy à?
Hầu Khang gật đầu:
- Vâng... tôi... tôi... tôi.
Tên kia ngắt lời:
- Chúng tôi trả lại thật, huynh đài nhận đi.
Hắn ném cái bọc sang phía Hầu Khang, Hầu Khang chộp bắt cái bọc cầm nơi tay chưa biết phải nói lời gì. Trong trí óc Hầu Khang nghĩ ra một chuyện, hắn nghĩ thầm:
- Hay bọn này là cường đạo, hắn hiểu lầm ta và công tử là đồng môn nên mới nói: "Chúng ta là người nhà cả."
Hắn còn đang suy nghĩ thì chợt thấy tứ phía có một số đông người từ trong những kẹt đá chạy tới. Hình như bọn người kia ẩn nấp trong sơn cốc giờ trở ra ngoài. Bọn này đứng chào. Số người kia chạy tới ngưng lại. Họ đều là những người nông dân thôn dã thân hình to lớn khoe mạnh. Bọn người kia nhìn gặp mấy người này mừng vui như vừa trải qua một tai nạn rồi lại gặp nhau.
Triều Tôn và Hầu Khang chú ý quan sát để xem đây là chuyện gì, tại sao hôm nay họ lại hội đông đảo như thế.
Bọn người chào hỏi nhau đủ giọng của các tỉnh. Và cứ xem phục trang của họ cũng đủ biết đa số là ở xa tới. Hai người không hiểu những người đó lặn lội xa xôi đến đây làm chi nên trong lòng thắc mắc vô cùng.
Tối hôm đó Triều Tôn và các người ở trọ trong khách điếm tại chân núi Lão nhai định sáng sớm mai là lên núi liền. Mọi người đang ăn cơm tối bỗng có người chạy vào nói:
- Tổ tướng công đã tới.
Chín phần mươi ngươi trong khách điếm đều đứng cả dậy và chạy luôn ra khỏi khách điếm. Bàng Cử kéo tay Triều Tôn và nói:
- Chúng ta cùng đi ra xem sao đi.
Hai người đi ra ngoài cửa khách điếm thấy những người đó đều đứng sang cả hai bên đường buông xuôi tay xuống. Hình như đang đợi chờ một nhân vật quan trọng vậy.
Một lát sau trên đường núi ở phía tây có tiếng vó ngựa nhộn nhịp vọng tới, mọi người đều quay mặt lại nhìn cả về phía đó giây phút sau liền thấy một thư sinh chạc độ hai bảy hai tám tuổi cỡi ngựa thủng thẳng đi tới. Người đó thấy mọi người đứng cả hai bên đường nghênh đón, người đó liền thúc ngựa lại gần rồi nhảy xuống dưới đất. Trong những người đi theo đã thấy một đại hán tiến lên đỡ lấy cương ngựa. Thư sinh ấy đi bước một tới cúi đầu vái chào và hỏi thăm từng người một.
Thư sinh ấy đi tới trước mặt Triều Tôn thấy chàng ăn mặc theo lối thư sinh vội tiến tới gần chắp tay chào và hỏi:
- Vị này là ai thế?
Triều Tôn đáp:
- Tại hạ họ Hầu xin hỏi quí tính danh là gì?
Thư sinh nọ đáp:
- Tại hạ họ Tổ tên là Trọng Thọ.
Triều Tôn chắp tay chào và hỏi tiếp:
- Tai hạ ngưỡng mộ đã lâu...
Trọng Thọ mỉm cười và đi vào trong khách điếm luôn. Bàng Cử lôi Triều Tôn sang bên và nói:
- Hình như thư sinh họ Tổ này rất có quyền thế. Hầu công tử nên nói với y bảo y tha cho chúng ta đi. Công tử với y cùng là người học hành với nhau chắc dễ nói chuyện hơn.
Triều Tôn nghĩ cũng phải liền đi tới trước cửa phòng của Trọng Thọ ho một tiếng đánh tiếng trước rồi mới giơ tay lên gõ cửa. Lúc ấy chàng nghe thấy trong phòng có tiếng đọc sách vọng ra. Chàng gõ được mấy cái tiếng đọc sách trong phòng liền ngưng ngay, cửa phòng vừa hé mở Trọng Thọ đã ra nghênh đón và nói:
- Ở khách điếm tĩnh mịch này mời Hầu huynh vào đây trò chuyện với đệ một phen.
Triều Tôn vái chàng nọ một cái rồi đi thẳng vào trong liền. Chàng thấy trên bàn có để một quyển sách bên trên có viết chữ: Binh Liêu, Minh Điêu Thần Hoàng Thượng. Chàng đoán chắc đó là một bản tấu chương nên chàng không dám ngó nữa vì sợ đối phương nghi kỵ, rồi mới ngồi xuống.
Trọng Thọ hỏi gia thế của chàng ra sao? Chàng theo đúng thứ tự mà trả lời. Thấy chàng là con trai Hộ bộ Thượng thư liền kêu "ủa" một tiếng nói tiếp:
- Lệnh tôn đại nhân là một người quần tư thanh lục, chúng tôi rất kính phục.
Triều Tôn vội đáp lời. Tiếp theo đó chàng liền kể lại chuyện cho Trọng Thọ nghe mình vì trốn tránh quan sai rồi được Bàng Cử ra tay cứu giúp như thế nào, sau lại được người họ Ung tặng cho cái thẻ bài trúc... riêng có chuyện thấy ở trong hòm có đầu lâu người thì chàng không dám nói ra cho đối phương nghe thôi.
Trọng Thọ vừa cười vừa nói tiếp:
- Chúng ta gặp gỡ ở nơi đây kể ra cũng có duyên phận đấy, ngày mai huynh hãy theo tiểu đệ lên núi để quen biết một ít anh hùng hào kiệt. Đây cũng là một việc rất khoái chí của một đời người, quí hồ Hầu huynh đừng tiết lộ những gì mắt thấy tai nghe của chuyến đi này thì tiểu đệ cam đoan Hầu huynh không bị hại gì cả.
Triều Tôn thấy chàng ta ăn nói nhanh nhạy như vậy trong lòng mới yên tâm. Thế rồi hai người lại nói đến chuyện văn thơ. Mới hay Trọng Thọ học rất ít, nên khi chàng ta thấy Triều Tôn ăn nói trang nhã như vậy lại càng kính nể vô cùng.
Hai người đàm đạo cho đến canh hai, Triều Tôn mới cáo từ về phòng. Bàng Cử đợi chờ hoài không thấy Triều Tôn quay trở về phòng nóng lòng sốt ruột vô cùng, không biết hên sui ra sao, đang đi đi lại lại thì bỗng thấy Triều Tôn vẻ mặt hớn hở về tới. Y mới yên lòng.


Hồi 2

Ngày hôm sau là ngày Tết Trung thu, nên hôm đó Triều Tôn với Bàng Cử theo mọi người lên núi thật sớm. Khi đi tới lưng núi thì vừa đúng giờ ngọ đã có mười mấy người khiêng sẵn cơm nước ở đó chờ đợi rồi, nhưng các món ăn đều là món chay hết. Mọi người ăn uống xong, nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục đi luôn.
Từ chỗ nghỉ chân lên tới đỉnh núi, suốt dọc đường đều có trạm canh và khám xét rất nghiêm ngặt. Khi bị khám xét tới bọn Triều Tôn ba người, thì Trọng Thọ tiến lên gật đầu một cái, người canh gác để cho đi qua. Triều Tôn nghĩ thầm: "Nguy nan thật, nếu tối hôm qua không trò chuyện với Trọng Thọ thì ngày hôm nay chưa biết số phận mình sống chết ra sao?"
Đến lúc chiều tà mới lên tới đỉnh núi. Mấy trăm hảo hán, cao có, thấp có, đã xếp hàng đứng nghênh tiếp mọi người. Có một người vừa cao vừa mập, vạm vỡ khác thường, hình như là thủ lãnh của nhóm người ra đón, thấy Tô Trọng Thọ, vội tiến tới đó chào. Rồi, hai người dắt tay nhau cùng đi vào trong nhà. Triều Tôn thấy trên núi thưa thớt có mấy chục nóc nhà. Căn lớn nhất hình như là một ngôi chùa hoặc miếu. Những căn nhà đó không phải là nhà thường dân, mà cũng không giống sơn trại nào của giặc cướp. Vì không có một căn nào xây lầu canh pháo lũy cả.
Ở dưới núi, Bàng Cử đã thấy kiểu cách của các người ấy khác những đám giặc cỏ mọi nơi, thì chắc trên sơn trại thế nào cũng hùng vĩ lạ thường, nhưng có ngờ đâu lại sơ sài nghèo nàn đến thế! Chàng phân vân không hiểu những người này là hạng người gì?
Chàng nghĩ thầm: "Mình lăn lộn trong đám giang hồ chẳng gì cũng đã được mấy năm trường. Việc gì chẳng mục kích qua? Trường hợp nào chẳng có mình dự qua? Nhưng lần này có điều lạ nhất là những người này phần nhiều ở nơi xa xôi hàng nghìn vạn dặm tới. Khi gặp nhau, thái độ của họ thân mật như anh em ruột thịt, mà sắc mặt thì buồn bực phẫn uất, không thấy một người nào tươi cười vui mừng cả?"
Triều Tôn và ba người được dẫn vào nghỉ một căn phòng nhỏ. Một lát sau, có người bưng cơm nước tới. Có bốn món chay và hơn 20 cái bánh mì hấp (Người phía Bắc Trung Hoa ăn bánh mì hấp thay cơm). Đêm hôm đó, Triều Tôn cùng Bàng Cử bàn tán thầm thì. Cả hai đều không hiểu những người kia quy tụ trên núi này làm gì? Ngày hôm sau là ngày 16 tháng 6, hai người vừa ăn điểm tâm xong, ra ngoài dạo chơi quanh núi thấy đâu đâu cũng có những đại hán lạ mặt, có kẻ mặt đầy những sẹo vết thương, có người què chân cụt tay, đều là chiến trường trải, phong sương lịch duyệt cả. Hai chàng sợ người ta nghi kỵ lại sinh tai bay vạ gió thì nguy, nên vội trở về phòng ngay, cả ngày không dám ra khỏi phòng.
Hôm đó bốn bữa ăn đều toàn những món chay cả. Bàng Cử rủa thầm: "Chúng làm chay cúng cha cúng tổ, mặc chúng! Tại sao lại bắt buộc cả tụi mình phải ăn nhạt theo chúng thế này?"
Tới lúc hoàng hôn, bỗng tiếng chuông vang tai inh ỏi, có một người vào mời.
- Tổ tướng công mời quí vị lên trên điện xem làm lễ.
Triều Tôn và Bàng Cử theo người đi liền. Hầu Khang cũng định đi theo, người kia vội xua tay:
- Cậu em ở lại. Đi ngủ sớm còn hơn.
Triều Tôn và Bàng Cử theo người kia đi vòng qua mấy căn nhà ngói, đến một ngôi miếu.
Triều Tôn ngửng đầu thấy trên cửa có treo một tấm hoành phi đề ba chữ "Trung Liệt Từ", chàng nghĩ thầm: "Đây là căn từ đường, không hiểu họ thờ những ai thế?"
Xuyên qua gian ngoài và sân giữa thấy hai bên đều có để giá bày võ giới. Nào đao kiếm thương kích đủ thập bán ban, cái nào cái nấy đều lau chùi bóng lộn choáng mắt.
Vào tới đại điện, hai chàng thấy có ngót ba ngàn người, ngồi đông kín cả điện. Giựt mình hoảng sợ, hai chàng ngạc nhiên vì trên hoang sơn này sao lại tụ họp được nhiều người đến thể?
Triều Tôn nhìn lên bàn thờ thấy thờ một pho thần tượng, khôi giáp đàng hoàng ngoài phủ một cẩm bào, tay trái cầm bảo kiếm nhà vua, tay phải một cờ lệnh mặt xương xương, râu ba chòm, trông rất oai nghi, nhìn thẳng về phía trước có vẻ lo âu.
Hai bên có bầy hai hàng bài vị, vì đứng xa quá, nên chàng không trông thấy rõ những tên họ viết trên linh vị đó.
Mọi người đều phủ phục vái lạy. Một tiểu đội mặc áo đại tang tiến trước mặt mọi người, rồi phục xuống đất đáp lễ. Triều Tôn và Bàng Cử đều giựt mình vì thấy tiểu đồng ấy lại là tên mục đồng giết cọp đêm qua.
Mọi người vái lễ xong rồi đứng dậy, ai nấy nước mắt ràn rụa vẻ mặt đầy phẫn uất. Trọng Thọ nói với Triều Tôn:
- Hầu huynh tài hoa xuất chúng xin sửa chữa dùm cho những câu văn viết sai trong văn tế mà đệ đã soạn thảo.
- Dạ, đệ không dám nhận những lời quá khen ấy.
Trọng Thọ sai người đem văn phòng tứ bảo ra và nói tiếp:
- Sở dĩ tiểu đệ mời Hầu huynh lên đây cũng vì muốn nhờ vả đến tài ba của Hầu huynh để làm cho công luân của Nguyên nhung chúng tôi được vẻ vang thêm.
Triều Tôn khó xử quá, vì biết Vua Sùng Chính đã bị trúng kế phản gián của quân Thanh mà đem Viên Sùng Hoán ra xử trảm, thiên hạ ai ai cũng biết ông này bị oan. Nhưng đó là Thánh chỉ của nhà Vua, nếu người nào đứng ra minh oan cho ông ta sẽ mang tội phạm thượng và bị xử tử ngay, biết rõ như thế nhưng nay Trọng Thọ nhờ vả tới, không lẽ chẳng chối từ.
Dù sao chàng cũng là một văn nhân, nên chỉ nghĩ ngợi giây phúc rồi cầm bút viết luôn: "Tiến quân sắp tới Hoàng Long, Nhạc Nguyên soái đã bị thác oan. Nhà Hán đang phục hưng, Gia Cát quân sư đã vội lánh trần. Ô hô! Ai tai! Thượng hương!" Chàng lấy cố nhân ra vị văn tế này nếu có lỡ lọt vào tay nhà vua, thì cũng không thể khép tội cho chàng được.
Trọng Thọ thấy Triều Tôn hạ bút như rồng bay phượng múa mừng lắm. Và Tôn lại ví Viên Sùng Hoán như Gia Cát Khổng Minh và Nhạc Phi thật là ca ngợi hết bề nói. Mà sự thực cảnh ngộ của Viên Đốc Phủ cũng hơi giống cảnh ngộ của Nhạc Nguyên Soái, chứ không phải chàng tâng bốc bậy. Trọng Thọ giải nghĩa mấy câu đó cho mọi người hiểu. Ai nấy đều đồng thanh cám ơn và tỏ vẻ có thiện cảm với Triều Tôn và Bàng Cử, không coi hai người như khách lạ nữa.
Trọng Thọ lại nói:
- Văn bút của Hầu huynh quả thật khác thường. Huynh dùng hai vị thánh hiền Gia Cát và Nhạc Vũ Mục để ví, khiến Nguyên Nhung chúng tôi ở dưới chín suối cũng được hân hạnh vô cùng. Lát nữa đệ sẽ cho người khắc mấy câu nói đó vào bia đá dựng trước cửa miếu.
Triều Tôn vội bái tạ.
Hành lễ xong, mọi người ngồi về chỗ cũ. Người xướng lễ lại lên tiếng hô: "Mỗ Dinh, X Tướng quân," hoặc là "Mỗ trấn, Y Tổng Binh."
Cứ mỗi lần hô xong một danh tánh chức vị nào lại có một người đứng lên trình diện và báo cáo. Nghe thấy chức hạ cũ của Viên Sùng Hoán. Sau khi Viên tướng quânbị hãm hại, các bộ hạ tản mát đi bốn phương. Rồi hàng năm đúng ngày, đúng giờ họ đến núi Lão Ô này tụ họp, để làm lễ tưởng niệm vị chủ tướng cũ.
Những lời báo cáo của họ, có tới tám chín mươi phần trăm chàng Triều Tôn không hiểu. Hình như họ còn mưu toan sự gì nữa. Khi người xướng lễ hô tới tên: "Kế Trấn Phó tổng binh Châu An Quốc."
Có một người đứng dậy, Triều Tôn và Bàng Cử đều giật mình, ngạc nhiên. Người đó chính là người nông dân đã đưa Tôn và Cử vào ẩn núp trong hang núi.
Bàng Cử nghĩ thầm: "Không ngờ y lại là một danh tướng đã đánh bại giặc Liêu Ninh. Như vậy mình thua ông xa."
Châu An Quốc nói:
- Còn nội một năm năy, tiểu chủ đã tiến bộ về võ nghệ, và cũng đã đọc được rất nhiều cuốn sách. Võ nghệ của tôi và của hai chú La, Ngụy đều truyền thụ hết cả cho Công tử rồi. Xin các vị đề cử danh sư khác cho.
Trọng Thọ nói tiếp:
- Trong nhóm anh em chúng ta, chẳng còn ai võ nghệ quật cường bằng ba vị!
Vậy Châu tướng quân đừng nên khiêm tốn mà chối từ nữa.
- Tiểu chủ thông minh lạ thường, mới chỉ bảo qua loa mà cậu ấy đã hiểu ngay. Tất cả tài nghệ của chúng tôi đều đã đem ra dạy cho cậu ấy hết cả rồi. Thật quả phải mời vị danh sư khác dạy bảo, để khỏi lỡ mất thời giờ quý báu của cậu ấy đi.
- Thôi được, việc này để lát nữa sẽ bàn định sau. Còn vụ tiêu diệt kẻ gian phi, có kết quả gì không?
Người họ Ngụy đã giết chết mãnh hổ, liền đứng dậy tường trình:
- Tháng trước, La tướng quân theo dõi tên gian tặc họ ôn, tới Triết Giang thì diệt được y. Còn tên gian tặc họ Sử thì 10 ngày trước đây đã bị tôi giết chết tại Tràng An. Hai thủ cấp của chúng đều có cả ở đây.
Nói đoạn, y mở cái túi vải để dưới đất, lấy hai cái đầu lâu ra. Mọi người đều phẫn nộ, hô lớn: hoan nghênh. Và cũng có một số người nghiến răng nguyền rủa hai cái thủ cấp đó.
Trọng Thọ đặt hai cái đầu gian tặc lên trên bàn thờ, rồi quỳ xuống khấn vái. Tới lúc này Triều Tôn mới biết hai cái đầu người mà đêm nọ mình trông thấy trong hòm áo là thủ cấp của kẻ thù nhà họ Viên. Chắc hai người này là kẻ gian đã liên can vào vụ hãm hại Viên Sùng Hoán. Lúc đó, lại có vài người đêm những thủ cấp khác ra trình.
Thế là trên bàn thờ bày la liệt mười mấy cái đầu người.
Nghe lời báo cáo của họ, trong những đầu lâu này có một cái là đầu của quan Ngự sử đương thời, họ Triều Tôn đã được cha kể truyền cho nghe, quan Ngự sử này đã tâu với vua, vu oan cho Viên Sùng Hoán là mãi quốc cầu vinh, tư thông với địch, nên y bị cho quan thanh liêm khinh miệt. Vì vậy, ngày nay y mới bị bộ hạ của Viên Sùng Hoán giết chết. Mọi người báo cáo xong, Trọng lại lên tiếng:
- Thù lớn của chúng ta chưa báo xong, vua thái của Sát Từ (Mãn Thanh) và vua Sùng Chính vẫn còn tồn tại. Vậy các vị có cao kiến gì để trả thù cho Đại soái của chúng ta không?
Một người lùn đứng dậy nói:
- Tổ tướng công!
Tiếng nói của y lớn như tiếng sấm. Triều Tôn và Bàng Cử không ngờ người y bé nhỏ như vậy mà tiếng nói lại lớn đến thế đều phải giựt mình kinh ngạc.
Tổ Trọng Thọ trả lời:
- Chẳng hay Triệu tống binh có ý kiến gì? Xin cứ phát biểu.
Người lùn đó nói:
- Theo ý tôi...
Chưa dứt lời, bỗng có một người từ ngoài cửa hấp tấp chạy vào bẩm rằng:
- Bẩm, Lý Tự Thành tướng quân có sứ giả vào hầu kiến.
Mọi người thấy nói đến ngạc nhiên bàn tán ầm ỹ.
Trọng Thọ nói:
- Triệu tổng binh hãy khoan phát biểu. Chúng ta ra đón sứ giả của Lý tướng quân trước đã.
Triệu tổng binh:
- Xin tuân lệnh.
Nói đoạn, y đảo chân đi ba bước. Mọi người đều đứng dậy. Cánh cửa lớn mở rộng và một bàn tay cầm bó đuốc đứng sang hai bên, rồi có ba người bước vào. Bàng Cử ở Thiểm Tây đã nghe danh Lý Tự Thành từ lâu. Biết y làm phản, giết quan quân, oai thế rất lớn nên chàng muốn coi xem bộ hạ của y là những hạng anh hùng hảo hán nào?
Chàng thấy một người đi trước thời ngoài 60 tuổi, mặt rỗ tóc rối bù, mặc quần áo bóng cũ rách cả khuỷu tay và dưới đầu gối, chân đi đôi giày cỏ, không khác gì một tên công dân thường ở tỉnh Thiểm Tây.
Hai người đi theo sau, một người ngoài 30 tuổi, mặt trẳng trẻo trông nho nhã tuấn tú, ăn mặc gọn ghẽ, tỏ vẽ văn nhân và một người nữa, ngoài 20 tuổi, thân hình vạm vỡ, da mặt ngăm đen, ăn mặc theo lối nông dân. Người đi đầu tiên thẳng tới trước bàn thờ rồi đứng yên. Người mặt trắng lấy hương nến trong bọc áo ra, thắp lên và cắm vào bát hương. Rồi cả ba cùng quỳ xuống vái. Tiểu mục đồng quỳ cạnh bàn thờ đáp lễ. Ba người lễ xong. Người mặt rỗ lớn tiếng nói:
- Lý Tự Thành tướng quân chúng tôi được biết Viên đại nguyên soái ở Liêu Đông đã đánh lui quân Sài Tứ, lập công lớn, nên Tướng quân chúng tôi rất thán phục. Sau lại hay tin Viên đại nguyên soái bị nhà Vua nghe lời vu oan, giết chết. Thiên hạ bá tánh ai ai cũng đều căm hận. Bấy giờ quan buộc dân làm loạn, chúng tôi đói rét quá, đành phải kháng cự, không chịu nộp lương và giết quan quân. Cầu anh linh của Viên đại nguyên soái phù hộ chúng tôi đánh lên Bắc Kinh. Bắt tất cả nhà Vua và bè lũ gian tham, đem ra giết hết, để trả thù cho Viên đại nguyên soái và dân chung của thiên hạ.
Nói xong, y lại vái mấy cái.
Mọi người thấy sứ giả của Lý Tự Thành tôn trọng Đại nguyên soái của mình đến thế, ai nấy đều có thiện cảm với người ấy. Tổ Trọng Thọ tiến lại gần, chấp tay chào và nói:
- Chúng tôi rất cảm ơn quý thịnh tình. Xin ngài cho biết cao tính danh là gì?
- Tôi là Lưu Nhất Hổ, Lý tướng quân chúng tôi hay ngày hôm nay là ngày giỗ kỵ của Viên đại nguyên soái, thế nào quí vị cũng tới sùng lễ, nên sai tôi đến đây đại diện dự lễ và để cùng quý vị tương kiến.
- Dạ, tôi là Tổ Trọng Thọ.
- Thế thì Tướng quân là lệnh đệ của Tổ đại tướng quân đấy! Anh danh của Tổ đại tướng quân lừng lẫy bốn phương, chúng tôi rất bái phục!
Hai người đang trò chuyện, người tùy tùng mặt đen của Nhất Hổ bỗng thấy đứng chặn ngay cửa giữa.
Xuất kỳ bất ý, mọi người cùng ngơ ngác không hiểu có chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều đứng dậy.
Lúc ấy người thiếu niên mặt đen chỉ thẳng vào mặt hai người đứng lẫn trong đám người tới dự lễ mà quát rằng:
- Hai ngươi là bộ hạ của Tào thái giám, đến đây để làm gì?
Lời của y vừa dứt, mọi người đều kinh ngạc. Thì ra sau khi Vua Sùng Chính xử trảm Ngụy Trung Hiền và Khách Thị rồi, trong triều đình nghịch đảng đã bị quét sạch. Nhưng tính vua hay đa nghi, không tín nhiệm một vị đại thần nào cả, mà chỉ tin dùng có tên Thái giám theo hầu từ hồi nhà vua còn là Thái tử. Thái giám ấy tên là Tào Hóa Thuần. Y là thủ lãnh đội vệ sĩ của nhà Vua, chuyên môn phụ trách mặt điều tra các quan văn võ trong triều hoặc ở khắp nơi.
Tên tuổi của Tào thái giám không ai không biết tới. Cho nên người thanh niên mặt đen vừa quát hỏi xong, mọi người đều giựt mình sợ hãi.
Hai người kia, một người cằm tua tủa mọc râu vàng, tuổi ngót 40. Còn người nọ, mặt trắng, không râu, nhưng béo mập và lùn. Người béo lùn biết sắc mặt, nhưng y trấn tỉnh lại ngay, rồi vừa cười vừa nói:
- Ông hỏi tôi đấy ư? Xin ông đừng nói bông, nói đùa như vậy!
Người thanh niên mặt đen lại quát:
- Hừ; Ta thèm nói bông nói đùa à! Hai người ở lại điếm lén lút bàn tán, định vào trong núi này nằm vùng, rồi sai người đi báo cáo cho Tào thái giám hay, để đem quân đến vây bắt tất cả. Ta đã nghe rõ hết những lời bàn bạc của hai ngươi.
Tên râu vàng rút luôn đơn đao ra, định xông lại thí mạng với người thanh niên mặt đen. Nhưng tên mặt trắng béo mập kia vội cản lại, rồi nói:
- Lý Tự Thành định dụ dỗ anh em trên núi nhập bọn với y. Điều này ai cũng biết cả. Bây giờ các ngươi muốn đến đây làm ly gián anh em chúng ta không được đâu!
Tiếng nói của y nhỏ bé, giống hệt giọng nói của các vị Thái giám. Tuy vậy, lời nói của y cũng làm cho ý chí một số người bị lung lay; họ hoài nghi ba người sứ giả của Lý Tự Thành không phải thật tâm đến để dự lễ cúng kỵ Viên tướng quân.
Lưu Nhất Hổ tuy xuất thân ở nông dân nhưng dầu dự rất nhiều trận chiến, trở nên điêu luyện thành con người gan thép, nên rất tinh khôn và minh mẫn. Chàng thấy sắc mặt biến đổi của nhiều người, biết ngay lời nói của tên mặt trắng đã có hiệu lực liền đứng dậy thét hỏi:
- Ngài là ai? Có phải là bạn hữu của Sơn Tôn này không?
Hỏi trúng chỗ yếu, người kia không trả lời được.
Tổ Trọng Thọ cũng thét hỏi:
- Bạn có phải là bộ hạ cũ của Viên đại soái không? Tại sao tôi chưa hề gặp bạn bao giờ? Bạn là thủ hạ của vị Tổng binh nào?
Người mặt trắng biết việc đã bại lộ, liền đưa mắt ra hiệu với tên râu vàng. Cả hai cùng nhảy tới phía cửa giữa. Tên râu vàng dùng thế "Cực Lịch Hoa Sơn" chém thẳng một đao vào mặt thanh niên mặt đen. Tên mặt trắng nọ, trông như nam bán nữ, nhưng hành động của y cũng nhanh nhẹn lạ lùng. Y rút luôn đôi bút Phán Quan ở trong tay áo ra, nhắm ngay giữa ngực thanh niên mặt đen điểm tới. Vì tỏ thái độ tôn sùng, đến đây chỉ có mục đích dự lễ tế Viên Sùng Hoán, chàng thanh niên mặt đen không đem theo khí giới. Mọi người thấy chàng tay không tình thế có vẻ nguy ngập, liền có bảy, tám người võ giỏi vô địch xông tới cứu chàng.
Ngờ đâu võ nghệ của chàng cũng cừ khôi lắm, tay trái nhanh như gió giở miếng "Cầm Nã thủ" nắm luôn cổ tay tên râu vàng. Đồng thời, tay phải của chàng duỗi thẳng hai ngón tay trỏ và giữa đâm thẳng vào hai mắt của tên mặt trắng. Hai tác động của chàng tuy phát động sau, nhưng lại tới trước. Tên râu vàng và tên mặt trắng đều hoảng sợ, phải lùi lại thủ thế ngay. Mọi người thấy chàng thanh niên chỉ một miếng võ đã chuyển từ thủ ra công ngay.
Ai nấy đều dừng bước, khen ngợi thầm. Hai tên kia thấy không thể xông ra nổi bên ngoài, biết mình ở trong hang hổ, tình thế nguy ngập vô cùng, nên vừa lui một bước, cả hai nhất loạt tiến lên. Thanh niên mặt đen chỉ dùng song chưởng, tả xông hữu đụt, ra vào trong đơn đao và song bút.
Chàng tấn công nhiều hơn thủ thế. Hai tên kia mấy lần định tiến tới ngưỡng cửa, nhưng lại đều bị chàng nọ dồn lui trở lại.
Tên mặt trắng nóng ruột thay đổi luôn luôn bút pháp. Cặp bút của y đâm ngang, điểm dọc. Miếng nào cũng nhằm những yếu huyệt của chàng thanh niên mà tấn công.
Còn khách râu vàng thì áp dụng đao pháp của Võ Thắng môn Sơn Tây. Đứng theo lối trung bình tấn, đao nào của y cũng nhằm hạ thổ địch mà trảm. Thấy tình thế của thanh niên nọ nguy cấp, mọi người định xông lại giải cứu. Nhưng ai nấy thấy Lưu Nhất Hổ có vẻ trấn tĩnh lạ thường, nên cũng yên trí ngồi xuống xem họ tiếp tục tranh đấu. Mọi người nghĩ thầm: "Người cùng đi với họ mà không lo ngại thì tất nhiên họ phải như thế nào mới bình tĩnh như thế được. Ta hãy ngồi xem kết quả ra sao."
Ba người tiến lên, lùi xuống, tung hoành trong điện. Thấy lúc đang hăng hái chiến đấu, khách râu vàng bỗng kêu tiếng với giọng bi đát, đơn đao của y tuột tay bay vàođám đông người. Châu An Quốc nhảy lên bắt lấy chiếc đơn đao ấy. Ngay lúc đó người thanh niên mặt đen tiến lên một bước, giơ chân trái đá tên râu vàng ngã xuống. Trong lúc chân trái của chàng chưa thâu về, chân phải lại thừa thế đá luôn tên mặt trắng. Tên này võ nghệ khá hơn, nên y khòm lưng, thót bụng lại tránh miếng đá đó và đồng thời song bút của y phản điểm lại giữa ngực của địch. Nhưng tay phải của thanh niên mặt đen nhanh như chớp nhoáng, đột nhiên nắm lấy ngọn bút bên trái của tên mặt trắng. Rồi vặn mạnh một cái, chàng đã cướp được cây bút sắt của kẻ địch. Lúc ấy, cây bút bên phải của tên mặt trắng đã điểm tới, nhưng nhanh như cắt, chàng thanh niên liền dùng cây bút vừa giựt được gạt ngang luôn. Hai bút va chạm nhau "keng" một tiếng, bật đom đóm lửa lên. Tên mặt trắng bỗng cảm thấy hổ khẩu tay đau đớn lạ lùng, và cây bút cũng rời khỏi tay. Chàng thanh niên mặt đen cười khoái trá, tay phải túm luôn ngực kẻ địch và nhấc bổng lên, tay trái của chàng kéo luôn quấn của tên mặt trắng ra.
Đang khi mọi người đều ngạc nhiên, thanh niên mặc đen vừa cười vừa nói:
- Đây, xin quí vị lại gần chứng kiến xem y có phải là Thái giám không?
Lúc này mọi người mới hiểu tại sao người thanh niên mặt đen lại có cử chỉ lạ lùng như thế. Ai nấy cùng nhìn thẳng vào người tên mặt trắng. Quả thật y đã bị hoạn tất.
Mọi người đều cười ồ và xúm đông lại xem. Thấy chàng thanh niên mặt đen giải quyết rất nhanh chóng chứng tỏ võ nghệ chàng rất cao cường, ai nấy đều kính phục.
Lúc ấy bây giờ đã có người đến đè đầu hai tên gian tiếp xuống. Tổ Trọng Thọ quát hỏi:
- Tào thái giám phái hai người đến đây làm gì? Có bao nhiêu đồng đảng? Và trà trộn vào đây bằng cách nào?
Hai tên nọ làm thinh không trả lời. Trọng Thọ đưa mắt ra hiệu, La tham tướng giơ đơn đao lên, chỉ trong nháy mắt đã hạ luôn thủ cấp của hai tên gian phi và đặt lên trên bàn thờ. Trọng Thọ chắp tay vái chào Lưu Ninh Hổ và nói rằng:
- Nếu ba vị không lột mặt nạ của bọn gian tặc kia giúp cho thì họa lớn đến nơi chúng tôi cũng không hay.
Lưu Nhất Hổ vội đáp lời:
- Việc này chỉ là một sự ngẫu nhiên. Chúng tôi gặp bọn chúng ở dọc đường. Thấy chúng nó có nhiều điểm khả nghi nên chúng tôi để ý theo dõi. Đêm hôm qua, theo chúng vào một khách sạn, chúng tôi mới khám phá được tung tích của chúng.
Trọng Thọ nói với hai người tùy tòng của Nhất Hổ rằng:
- Hai vị quí danh là gì?
Người mặt mũi tuấn tú tự xưng họ Điền và người thanh niên mặt đen là họ Thôi.
Châu An Quốc tới gần nắm tay thanh niên mặt đen tỏ tình thân thiện và khen ngợi luôn miệng.
Nhất Hổ, Trọng Thọ và mấy vị thủ lãnh dắt nhau vào nhà trong đàm thoại bí mật.
Nhất Hổ phát biểu rằng:
- Lý Tự Thành tướng quân mong được liên minh với quí vị để đánh đổ nhà Minh.
Các bộ hạ của Viên Sùng Hoán trù trừ chưa dám quyết định. Sau cùng Trọng Thọ nói:
- Hành động của chúng ta đã bị Tào thái giám biết rồi. Nếu không liên minh với Lý tướng quân đề cử đại sự thì làm sao mà trả thù cho Viên nguyên soái và giết vua Sùng Chính được. Lỡ Tào thái giám phái quân đi khắp nơi đón giết chúng ta thì sao?
Mọi người nghĩ lại cũng phải, nên cuộc liên minh với Lý Tự Thành được giải quyết xong ngay.
Bên trong mọi người thương lượng liên minh đại kế.
Ngoài điện Châu An Quốc và Đả Hổ Anh Hùng Ngụy Hạo kéo thanh niên mặt đen Thôi Sơn ra một nơi tĩnh mịch trò chuyện.
Châu An Quốc nói:
- Thôi đại ca, hôm nay chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu nhưng nhất kiến vị của đại ca đừng coi chúng ta như người ngoài.
Thôi Thu Sơn trả lời:
- Hai vị đại ca trước kai đánh quân Thanh bảo vệ dân chúng, đệ xưa nay khâm phục lắm. Hiện nay đệ lại được hân hạnh gặp quý bạn anh hùng trên Sơn Tôn này, đệ rất lấy làm sung sướng.
Ngụy Hạo nói:
- Tôi nói câu này hơi đường đột xin đại ca thứ lỗi cho. Chẳng hay đại ca học vị danh sư nào?
Thôi Thu Sơn, hai mắt bỗng đỏ ngầu, trả lời:
- Gia sư là Nhất Thanh Lôi Trương Bạch Đế qua đời đã từ lâu năm rồi!
Châu An Quốc và Ngụy Hạo đưa mắt lên nhìn nhau trong lòng tỏ vẻ hoài nghi. Song Ngụy Hạo tính tình thẳng thắn, không nhịn được, nói liền:
- Nhất Thanh Lôi Trương lão tiền bối, chúng tôi ngưỡng mộ đã lâu, nhưng có một câu này xin Thôi đại ca chớ khiển trách, võ nghệ của Trương lão tiền bối tuy cao cường thật nhưng hình như còn kém Thôi đại ca xa.
Thôi Thu Sơn lẳng lặng không nói nửa lời. Thấy vậy, Châu An Quốc lại nói:
- Trò giỏi hơn thầy, đó cũng là lẽ thường. Nhưng vừa rồi, tôi thấy thân pháp và thủ pháp của Thôi đại ca trong lúc triệt hạ hai tên gian tế thì hình như đại ca còn được sự chân truyền khác.
Thôi Thu Sơn nghĩ ngợi giây phút mới trả lời:
- Hai vị là bạn quen, tôi không dám giấu diếm. Sau khi sư phụ tôi tạ thế, trong một trường hợp ngẫu nhiên, tôi may mắn gặp một vị cao nhân ngoài đời thương hại tôi mà đã chỉ bảo cho tôi chút ít võ nghệ. Nhưng ông ta bắt tôi thề không được nói tên tuổi của ông cho ai biết. Vì lẽ đó, xin hai vị đại ca lượng thứ cho.
Thấy chàng thành thật như vậy, sở dĩ chúng tôi muốn hỏi Thôi đại ca là vì có một việc muốn hỏi.
- Hai vị có việc gì, nếu tiểu đệ có thể làm được, tiểu đệ xin giúp ngay. Cùng là người nhà với nhau cả, hai vị hà tất phải khách khứa như vậy.
Châu An Quốc nói:
- Xin đại ca hãy chờ một tí để tôi đi kiếm thêm hai người bạn nữa đến đây trò chuyện.
Thôi Thu Sơn thấy thái độ của Châu An Quốc rất thận trọng, nhưng không biết định nhờ vả mình vào việc gì. Châu An Quốc và Ngụy Hạo cho gọi họ ứng và họ La đến.
Người họ ứng hỏi:
- Có việc gì thế?
Châu An Quốc trả lời:
- Người kia võ nghệ giỏi lắm. Anh em chúng ta đây không ai địch nổi hắn. Nghe hắn nói chuyện, tôi nhận thấy hắn là người chánh trực và hào phóng lắm.
Ngụy Hạo nói:
- Nhưng hỏi đến sư phụ hắn thì hắn giấu diếm không chịu nói.
Rồi y kể lại câu chuyện nói với Thu Sơn cho họ ứng và họ La nghe.
Người họ Ứng tên Tòng, là mưu sĩ dưới trướng của Viên Sùng Hoán. Vụ vây thành Ninh Viên năm nọ, y cũng có rất nhiều công lao trong đó. Người họ La tên Đại Can, là một pháo thủ trứ danh. Trong trận đánh ở Ninh Viên, y châm ngòi thuốc hồng y đại bác bắn chết vô số quân Thanh. Nhờ công đó, y mới được thăng lên chức Tham tướng.
Sau khi Viên Sùng Hoán bị xử tử oan, bộ hạ hắn tản mác, ai nấy trở về quê hương làm ruộng. Ứng Tòng nói:
- Chúng ta cứ nói thật, yêu cầu hắn giúp xem hắn trả lời ra sao.
Châu An Quốc nói:
- Tôi thiết tưởng việc này nên hỏi qua ý kiến của Tổ tướng công đã.
Ứng Tòng đáp:
- Phải đấy.
Nói đoạn y quay vào gian trong, thấy Trọng Thọ và Thất Hổ đang chuyện trò tương đắc. Nhưng y cũng mời Trọng Thọ ra bên ngoài bàn bạc mấy câu. Trọng Thọ nói:
- Ứng sư gia, việc này quan hệ đến đời sống của tiểu chủ nhân. Trước hết, sư gia phải hỏi xem người họ Thôi có bằng lòng hay không đã.
Ứng Tòng gật đầu nghe lời, rồi cùng Châu An Quốc, Ngụy Hạo, La Đại Can ba người đến gặp Thôi Thu Sơn, Ứng Tòng nói:
- Chúng tôi có một việc, chỉ có Thôi đại ca mới giúp được thôi. Cho nên...
Thôi Thu Sơn thấy Ứng Tòng muốn nói lại ngừng, vẻ mặt sượng sùng. Chàng sốt ruột hỏi luôn:
- Đệ là người thô lỗ. Các vị định chỉ bảo điều gì, xin cứ nói. Nếu việc gì có thể làm được, quyết không chối từ.
Ứng Tòng nói tiếp:
- Thôi huynh sảng khoái như vậy chúng tôi xin nói thật để huynh rõ. Viên đại soái chúng tôi bị hãm hại, còn lại một người con trai. Lúc bấy giờ cậu ta mới lên bảy. Chúng tôi cố gắng mãi mới cứu được cậu ta thoát nạn. Trước sau đã ác chiến với bọn Cẩm Y vệ 3 lần. Anh em chúng tôi có 2 người tử nạn. Nay mới bảo toàn được một chút cốt nhục đó cho Viên đại soái chúng tôi. Vị tiểu chủ chúng tôi là Thừa Chí. Và bốn anh em chúng tôi đảm nhiệm dạy cậu ta cả văn lẫn võ. Cậy ấy thông minh lắm chỉ bảo qua vài lần là hiểu ngay. Mấy năm nay bản lĩnh của chúng tôi đã truyền hết cả cho cậu ta rồi. Cậu ấy tuổi hãy còn nhỏ, tuy có một vài môn võ vẫn chưa lĩnh hội hết, nhưng nếu còn theo học chúng tôi nữa, thế nào cậy ấy cũng tiến bộ rất nhanh. Và sẽ có một tương lai rất lớn.
Thôi Thu Sơn đã hiểu ý nghĩ lời nói của Ứng Tòng liền trả lời:
- Các vị tính cho cậu ấy theo tôi học võ phải không?
Châu An Quốc trả lời:
- Vừa rồi chúng tôi thấy đại huynh ra tay đánh bại hai tên gian tặc. Chúng tôi công nhận võ nghệ của đại huynh giỏi hơn chúng tôi nhiều. Nếu Thôi đại ca chịu thâu nhận cậu ấy làm đồ đệ, dạy dỗ thành tài. Không riêng gì anh em chúng tôi, cả linh hồn của Viên đại soái chúng tôi nơi cửu tuyền cũng cám ơn đại ca vô cùng.
Nói đoạn bốn người cùng chắp tay vái lạy. Thôi Thu Sơn vội đáp lễ rồi ngẫm nghĩ giây phút mới trả lời:
- Được các vị coi trọng như vậy, tôi đâu dám từ chối. Nhưng hiện giờ tôi đang phục vụ trong quân đội Lý tướng quân, nay đây mai đó, không một lúc nào được ở một chỗ. Và chiến đấu với quan quân luôn luôn, chưa biết sống chết lúc nào. Nếu Viên công tử có theo tôi ở trong hàng ngũ, một là tôi e không có thì giờ dạy cậu ấy hai là nguy hiểm vô cùng.
Bốn anh em Ứng Tòng ngẫm nghĩ lời nói của Thu Sơn cũng phải. Ai nấy đều thất vọng, Thu Sơn bỗng nói lớn:
- Có một người võ nghệ giỏi gấp tôi trăm lần. Nếu ông ta bằng lòng thâu nhận thì thật may mắn cho công tử lắm.
Nói đoạn, chàng chợt nghĩ ra điều gì lắc đầu lẩm bẩm nói thầm:
- Không xong, không xong.
Lưu Nhất Hổ đã điều đình xong công việc liên minh với Tổ Trọng Thọ. Ngày hôm sau, mọi người tuyên thệ trước bàn thờ Viên Sùng Hoán. Thề quyết cùng nhau sanh tử, không ai được phụ lòng ai. Sau đó, Tổ Trọng Thọ thu xếp cho Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang, ba người lên đường về nhà. Khi chia tay, chàng nói với Triều Tôn và Bàng Cử rằng:
- Chúng ta gặp nhau đây, cũng do số phận xuôi nên hạnh ngộ này. Tất cả những sự gì xảy ra trên Sơn Tôn này xin hai vị đừng tiết lộ ra ngoài nửa câu. Nếu không nghe lời tôi, hậu quả ra sao, tôi không dám nói trước.
Hầu Triều Tôn và Dương Bàng Cử dạ dạ luôn miệng. Trọng Thọ tặng cho mỗi người 50 lạng làm tiến lộ phí, và còn phái hai người đàn em tiễn bọn Triều Tôn ba người xuống núi. Trải qua bao cuộc hiểm nguy, Triều Tôn và Bàng Cử đều chán nản cực độ. Một người đóng cửa ở nhà đọc sách, sau trở nên một nhà văn tên tuổi về cuối đời nhà Minh. Còn một người thấy trên giang hồ có biết bao nhiêu người tài giỏi xét ra "ngọn núi này đã cao lại còn núi khác cao hơn, ngoài vòm trời này lại còn vũ trụ khác", nên chàng đóng cửa cục tiêu lại, xoay sang nghề nông, suốt đời không nhắc nhở đến chuyện võ. Sau chàng bị quân Thanh giết chết.
Thương thuyết cuộc Liên minh xong, Lưu Nhất Hổ cùng người họ Điền hạ sơn trở về đơn vị trong đội Lý Tự Thành. Các bộ hạ Viên Sùng Hoán có một số người tham gia nghĩa quân Lý Tự Thành, còn một sối thì về nguyên quán sửa soạn cuộc khởi nghĩa.
Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo và Ứng Tòng, thì ở lại núi để bàn tán về việc xuất sư sau này của Viên Thừa Chí.
Được tin Thôi Thu Sơn nhận lời dạy cho mình Phục Hổ chưởng, Thừa Chí mừng đến nỗi suốt đêm hôm đó không ngủ được. Sáng hôm sau, vì ai nấy đều bận việc nên không có thì giờ nhắc nhở tới việc dạy võ. Chiều, mọi người lũ lượt xuống núi. Trước khi ra về, họ đều vào từ biệt tiểu chủ nhân, như vậy lại bận rộn thêm nửa ngày. Tối hôm ấy, Tổ Trọng Thọ vào trong thắp một đôi nến đỏ, đặt chiếc ghế bành ở giữa mời Thôi Thu Sơn ngồi lên trên ghế đó để Viên Thừa Chí làm lễ bái sư, Thôi Thu Sơn nói:
- Thật quả mới trông thấy chú em họ Viên, tôi đã cảm tình liền. Nay chú ấy thích học võ Phục Hổ chưởng, tôi xin vui lòng ở lại đây vài ngày để truyền thụ cho chú ấy.
Nhưng liệu trong mấy ngày trời, có thể học thành tài không? Và thành tài rồi có thể sử dụng được không? Những điều đó cần phải xem sự học tập với nhau thôi, chớ tôi không dám nhận thầy trò đâu!
Ứng Tòng nói:
- Quí hồ đại ca dạy cho năm ba miếng, một vài hiệp suốt đời cũng là sư phụ rồi. Hà tất đại ca phải khiêm tốn như thế?
Thôi Thu Sơn nhất định không nhận. Mọi người không sao cưỡng ép nổi, đành phải thôi, không nói tới nữa.
Mọi người cũng biết luật lệ của võ lâm. Thôi Thu Sơn ngồi trên ghế nghiêm nghị hỏi:
- Thừa Chí, thế Phục Hổ chưởng pháp này do một vị cao nhân tiền bối truyền cho. Tôi tuy chưa lãnh hội hết sự tinh vi huyền ảo của nó, nhưng ở chốn giang hồ, với kẻ địch hạng bình thường thì cũng dư sức để đối phó. Lúc ông ta truyền thụ cho tôi thế Chưởng pháp này có bắt tôi thề độc rằng: Sau khi học thành tài môn võ này, quyết không được giết hại người vô tội, đè nén kẻ lương dân.
Thừa Chí là người rất thông minh, nghe Thu Sơn nói như vậy vội quỳ ngay xuống và nói rằng:
- Đệ tử Viên Thừa Chí, sau khi học xong Phục Hổ chưởng pháp, quyết không đè nén lương thiện, giết hại kẻ vô tội. Bằng không, bằng không...
Vì không biết phải nói như thế nào, nên Thừa Chí nói tiếp:
- Bằng không sẽ bị sư phụ đánh chết.
Thu Sơn cười nói:
- Tốt lắm!
Bỗng thoáng một cái, người đã biến mất. Thừa Chí vội quay mình lại, thấy Thu Sơn đã ở đằng sau, và vỗ vai y vừa cười vừa nói:
- Chú bắt lấy tôi nhé.
Nhờ được danh sư Châu An Quốc và Ngụy Hạo chỉ bảo, nên võ nghệ của Thừa Chí có chút căn bản. Y đột nhiên hạ tấn xuống, tay trái đánh dứ một miếng, tay phải quàng về phía sau, nhưng y không quay mình lại, chỉ cần nghe hơi gió để phân biệt thân hình đối phương, rồi nhắm đùi Thu Sơn nắm lấy.
Thu Sơn mừng thầm:
- Biết sử dụng miếng này kể cũng khá lắm đấy!
Vừa nói dứt lời, tay chàng khẽ vỗ vào vai Thừa Chí, rồi thoắt một cái, chàng lại biến mất.
Áp dụng theo sự chỉ dẫn của Ngụy Hạo, Thừa Chí định thần nhìn, hơi dang hai tay ra, nhờ vậy cũng yểm hộ được các chỗ hiểm yếu của toàn thân. Y thấy thân pháp của Thu Sơn nhanh nhẹn lạ lùng, bắt thế nào cũng không nổi. Y không chạy vòng quanh như bịt mắt bắt dê nữa. Y lùi từng bước một, lui về phía chân tường. Rồi nhảy một cái, đứng sát lưng vào tường, y vừa cười vừa nói:
- Thôi thúc thúc, cháu đã trông thấy thúc thúc rồi!
Lúc ấy Thu Sơn không thể vòng ra sau lưng y được, liền ngừng bước, cả cười nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm! Cháu không những khôn ngoan mà căn bản võ nghệ cũng khá. Thế Phục Hổ chưởng này học thế nào cũng đạt.
Thế rồi, bắt đầu từng miếng từng hiệp một, chàng dạy Thừa Chí cho hết thế võ đó. Thế "Phục Hổ chưởng" này có tất cả 108 miếng, mỗi miếng lại có 3 đường biến hóa "kỳ chính tương sinh tương khắc" cộng tất cả là 324 đường, Viên Thừa Chí đều nhớ hết cả. Thôi Thu Sơn lại dạy thêm 3 lần nữa. Thừa Chí đã học thuộc hoàn toàn thế võ đó. Thu Sơn vừa dạy vừa giảng, đem mỗi miếng mỗi biến hóa như thế nào để truyền thụ cho Thừa Chí một cách rất tỉ mỉ. Thừa Chí có căn bản sẵn, lại thêm thông minh có thừa, nên cả những chỗ tinh vi nhứt, y cũng lãnh hội hết, chỉ vì chưa tập được thành thục cho lắm, nên chưa có thể sử dụng được ngay thôi. Một người càng dạy càng thấy hứng thú, một người rất chăm chỉ học hỏi, nên cả hai tập luyện cho tới đêm khuya.
Sáng hôm sau, Thôi Thu Sơn ra ngoài bách bộ, trông thấy Thừa Chí một mình ở bãi đất hoang tập luyện võ nghệ. Y đem 108 miếng "Phục Hổ chưởng" hóa đi biến lại mà còn quán xuyến cả tám yếu quyết tinh vi. Thấy vậy, Thôi Thu Sơn bỗng nhảy vào nhằm giữa lưng đá một cái. Thừa Chí nghe thấy sau lưng có tiếng gió, vội né mình quài tay nắm luôn chân của kẻ địch. Đến khi nhận kĩ ra, y mới biết người tấn công mình là Thôi Thu Sơn, y liền rút tay lại và la lớn:
- Kìa, Thôi thúc thúc!
Thôi Thu Sơn vừa cười vừa nói:
- Đừng ngừng tay, cứ tiếp tục đánh đi.
Nói đoạn, chàng bổ luôn vào mặt Thừa Chí. Y không tránh mà lại thêm một bước đấm luôn một quyền vào hạ mạng Thôi Thu Sơn. Miếng võ này là miếng thứ 89 củathế võ "Phục Hổ chưởng" gọi là "Thâm Nhập Hổ Huyệt", Thôi Thu Sơn tấm tắc khen ngợi:
- Đúng lắm, đánh như thế được lắm.
Chàng miệng nói, tay vẫn không ngừng tiếp tục tấn công Thừa Chí. Có miếng nào Thừa Chí sai lầm, chàng lại chỉ bảo ngay, hai người, kẻ đi người lại, đem 324 đường biến hóa không cùng, càng vận dụng càng thấy kỳ lạ. Thừa Chí còn sung sướng hơn nhặt được của báu. Tập cho tới khi Thừa Chí mồ hôi nhễ nhại, Thôi Thu Sơn mới cho phép ngừng tay. Trong khi nghỉ ngơi, chàng giảng giải những miếng hóc hiểm cho Thừa Chí biết. Giảng giải xong, hai người lại đứng dậy tiếp tục luyện tập.
Từ sáng sớm cho đến khuya, ngoài hai bữa ăn ra, Thừa Chí không chịu bỏ phí một giờ phút nào cả.
Luyện tập trong bảy ngày liền, sáng ngày thứ tám, Thôi Thu Sơn lại nói:
- Tất cả võ nghệ của tôi đã truyền cho chú hết rồi. Còn sự thành công hay không, phải xem sau này chú có chịu khó luyện tập luôn không đã... Khi giao đấu với địch, dù áp dụng thế võ nào cũng vậy, ta chỉ có thể tin cậy vào tài nghệ bảy phần mười thôi, còn ba phần kia cậy nhờ vào trí khôn mới được, chớ nhắm mắt nhắm mũi đánh bừa thì khó lòng thắng lắm.
Viên Thừa Chí xin vâng lời... Thu Sơn lại nói tiếp:
- Ngày mai tôi phải trở về với Lý tướng quân. Sau này chú phải chăm chỉ tập luyện lấy.
Thừa Chí mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Thôi Thu Sơn tuy ở với Thừa Chí có mười ngày, nhưng chàng đã dạy cho y tất cả bí quyền của thế võ "Phục Hổ chưởng." Như vậy đủ thấy chàng thương mến Thừa Chí không cầm nổi cảm xúc, mếu máo khóc muốn bật ra tiếng. Thôi Thu Sơn sống trong hàng ngũ lâu năm, tuy giết người không hề chớp mắt nhưng thấy tình quyến luyến chân thật của Thừa Chí, chàng cũng phải cảm động.
Thôi vuốt ve vỗ về Thừa Chí giây lát rồi nói:
- Người thông minh như chú trong võ lâm này ít có lắm. Chỉ tiếc rằng chúng ta hông có dịp đoàn tụ lâu ngày.
- Thôi thúc thúc, cháu xin thúc thúc đến trại Lý tướng quân cũng được chớ sao?
- Chú con nhỏ tuổi, đến chỗ ấy ở sao được!
Vừa nói tới đấy, bỗng nghe tiếng kêu của nó không giống cọp mà cũng chẳng giống sài lang!
- Nó là báo đấy!...
Chàng đang nói, sực nghĩ ra điều gì, rồi lại nói tiếp:
- Chúng ta ra ngoài bắt sống con Báo ấy đi. Tôi cần dùng loại thú này...
Tính tò mò xúi giục, Thừa Chí vội cướp lời:
- Chú muốn dùng nó để làm gì?
Thôi Thu Sơn chỉ cười mà không nói, Thừa Chí đi theo ra, thấy chàng không cầm khí giới bèn hỏi:
- Thôi thúc thúc định dùng khí giới gì bắt con báo ấy thế?
Ngờ đâu Thu Sơn không ra thẳng ngoài cửa lại bước vào gian trong, chỗ ở của Tổ Trọng Thọ, rồi lên tiếng gọi:
- Châu đại ca, Ngụy đại ca, hai vị có ở trong đó không?
Nhờ các vị giúp hộ một tay, ra ngoài kia dồn hộ con báo vào trong này. Tôi đang cần dùng tới nó.
Ngụy Hạo là tay thiện nghệ giết hổ, thấy Thu Sơn nhờ mình một việc đúng sở thích, như gãi đúng chỗ ngứa liền trả lời:
- Được, để tôi dồn cho!
Nói đoạn, chàng cầm luôn chiếc đinh ba vẫn săn hổ, xông ra ngoài cửa. Thu Sơn vội gọi:
- Ngụy đại ca! Xin đại ca đừng đả thương nó nhé!
Ngụy Hạo ở đằng xa đáp vọng lại, vâng lời. Tiếp theo đó tiếng hò hét của chàng vang động trên đỉnh núi.
Thu Sơn, An Quốc và La Đại Can hai người cũng nhảy theo ra ngoài cửa. Thừa Chí cầm đoản thương định theo ra, Tổ Trọng Thọ vội gọi lại:
- Thừa Chí, cháu đừng ra nữa. Chúng ta ở lại trong này mà xem.
Bất đắc dĩ Thừa Chí phải ngừng bước, rồi cùng Trọng Thọ và Ứng Tòng ba người đứng tựa cửa sổ, nhìn ra phía ngoài xem. Thấy ba người ta cầm bó đuốc, chia nhau đứng Đông, Tây, Bắc ba ngã. Ngụy Hạo tay cầm đinh ba, chiến đấu với một con báo thật lớn ở bên sườn núi. Chàng chỉ dùng đinh ba cản không cho con báo vồ tới, chớ không đả thương nó. Báo thấy ánh sáng lửa hoảng sợ, muốn chạy, nhưng bị Thu Sơn, An Quốc và Đại Can ba người chận lại. Con báo cũng tinh khôn lắm, thấy Thu Sơn tay không, liền gào một tiếng thật lớn, nhảy tới định vồ. Thu Sơn né mình tránh khỏi đôi chân đầy móng sắc bén của con thú, rồi tay phải cứng như sắt, tạt luôn một cái vào trán cao báo. Con thú ngã lộn một vòng, quay mình chạy về phía Nam. Thấy cửa phòng phía này mở rộng, con báo tinh khôn lắm, nó nhất định không chịu chạy vào. Nó định quay sang phía khác, nhưng các người đã ập lại. Trong lúc nó đang ngơ ngác nhìn ngược, nhìn xuôi, thì Thu Sơn đã nhảy tới đá mạnh vào mông nó một cái. Con thú bị đau, rú lên một tiếng, chạy thẳng vào trong nhà. Lúc ấy Ứng Tòng đã đóng kín các cửa ngõ lại, chỉ để một cánh bên phía Tây. Thấy các người cầm đuốc đi tới, con báo vừa gầm gừ vừa đi thẳng vào phía trong cửa ngõ đó. Đại Can theo sau, rồi đóng nốt cánh cửa ấy lại. Thế là con báo bị nhốt ở trong điện.
Mọi người thấy bắt được con báo rồi, ai nấy vẻ mặt hân hoan, nhìn thẳng vào phía Thu Sơn như muốn hỏi chàng định bắt con báo ấy làm gì. Thu Sơn mỉm cười nói:
- Thừa Chí, chú vào đánh con báo ấy đi!
Chàng vừa dứt lời, mọi người đều giật mình sợ hãi, Trọng Thọ nói:
- Tôi e cháu Chí đánh không nổi con thú ấy đâu.
Thu Sơn vội trả lời:
- Không sao, đã có tôi ở cạnh trông nom; con báo ấy không làm gì nổi chú ấy được.
Thừa Chí nhanh nhẩu:
- Cháu xin vào ngay!
Tay cầm đoản thương, y đẩy cửa định bước vào, Thu Sơn vội cản lại:
- Hãy khoan, chú để cây thương xuống, vào đánh bằng tay không!
Thừa Chí ngẩn người trong giây phút nhưng y hiểu ngay ý định của Thu Sơn là muốn y dùng "Phục Hổ chưởng" mới học được để đối phó với con báo kia. Tuy vậy, y vẫn rụt rè chưa dám vào. Thu Sơn lại thúc giục:
- Cháu sợ phải không?
Thừa Chí không ngần ngại nữa, đẩy mạnh cánh cửa, ung dung tiến thẳng vào. Chỉ nghe thấy một tiếng "gầm" thật lớn, rồi một bóng đen nhảy tới vồ vào đầu Thừa Chí. Chàng né mình tránh sang một bên, rồi thuận tay tạt một cái vào mang tai con báo. Tuy bị đánh trúng, nhưng tay chàng bé nhỏ yếu ớt, nên con báo không thấy đau đớn chút nào, nó quay đầu lại giơ chân cào Thừa Chí, chàng nhảy tới phía sau con thú, hai tay nắm lấy đuôi kéo. Lúc ấy Thu Sơn đã đứng cạnh đó để bảo vệ, vì sợ con báo phát cáu nổi khùng, Thừa Chí sẽ không chế ngự nổi. Y tuy ít tuổi nhưng thế võ Phục Hổ chưởng y đã biết sử dụng thuần thục, nên tuy con báo vồ ba lần, cào ba lần, rốt cuộc vẫn không đụng chạm nổi vạt áo của chàng. Trái lại, nó còn bị chàng đánh cho một cái tát và tiếp luôn một cái đá.
Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo, ba người thấy Thừa Chí tay không đấu với báo, mặc dù đã có Thu Sơn đứng cạnh bảo vệ, nhưng vẫn còn lo ngại thay cho y.
Trong khi An Quốc và Ngụy Hạo đều cầm sẵn ám khí để đề phòng lúc nguy cấp giết báo cứu người.
Dưới ánh sáng của mấy bó đuốc thắp chung quanh, Thừa Chí nhảy nhót né tránh nhanh nhẹn vô cùng. Lúc đầu cậu ta không dám tới gần con báo. Nhưng sau đến khi sử dụng mới thấy "Chưởng pháp Phục Hổ" ảo diệu vô cùng. Càng đánh, càng thấy phấn khởi tinh thần. Vì bàn tay quá nhỏ và sức lực còn yếu ớt thấy đánh vào con thú không ăn thua gì, cậu liền xoay ra cách lôi kéo. Mỗi lần lôi là mỗi lần cậu vặt được một nắm lông của con báo. Con thú bị đau, rống lên ầm ĩ. Và nó cũng bắt đầu sợ đôi bàn tay bé nhỏ của Thừa Chí. Nó vừa nhe răng, vừa lui để trốn tránh kịp. Chỉ trong chốc lát, hầu khắp căn điện đầy lông báo bay tứ tung. Con báo bị vặt trụi lông, trông thật kỳ lạ, mọi người đứng xem đều cười ồ cả lên.
Thấy đánh mãi vẫn chưa phục nổi con báo, Thừa Chí đột nhiên đổi sang miếng "Bồ Tát Đê Mi" (Bồ tát lim dim đôi mắt). Cậu cúi thấp xuống, xông thẳng trước mặt con báo. Con thú ngơ ngác, rồi nhảy lên vồ Thừa Chí. Thấy cậu ta đã ở dưới bụng con thú nọ, Ngụy Hạo sợ quá, phi ngay song tiêu. Con báo tinh khôn lắm, giơ chân phải gạt song tiêu.
Lúc ấy không thấy hình bóng Thừa Chí đâu cả. Mọi người nhìn kỹ thì cậu đang núp dưới bụng báo, hai chân quặp lấy bụng nó, còn đầu thì đỡ cằm con thú lên, khiếncon vật muốn cắn không được, muốn cào không tới. Nó cứ nhảy đi nhảy lại, rồi lại lăn lộn dưới đất mấy vòng mà Thừa Chí vẫn ôm chặt không buông.
Một người, một thú cứ cầm cự nhau mãi. Nhưng Thừa Chí tự biết sức mình, nếu cứ kéo dài như thế mãi, cậu sẽ bị đuối sức. Hễ buông tay ra là cậu bị con báo vồ ngay, càng nghĩ càng sợ, cậu vội gọi:
- Thôi thúc thúc giúp cháu với!
Thu Sơn trả lời:
- Chú lấy đôi mắt của nó trước đi.
Nghe lời chỉ bảo, Thừa Chí vươn tay phải ra móc mắt trái của con báo. Con vật đau quá lồng lộn nhảy nhót dữ dội.
Thu Sơn tiến lên một bước. Chỉ nghe "bốp bốp" hai tiếng, chàng đã dùng thế liên hoàn hai tay đánh trúng đầu con báo. Con thú lắc lư đầu mấy cái, rồi nằm ngửa tênh hênh ra đất hết thở. Chàng liền ẵm Thừa Chí lên, cả cười nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm!
Nói đoạn, Thu Sơn quay lại nhìn mọi người. Chàng thấy bọn Tổ Trọng Thọ, ai nấy đều kinh hãi đến nỗi mồ hôi toát ra ướt áo. Chàng mở cửa điện, rồi đá vào mông con báo một cái, vừa cười vừa nói:
- Tha cho mi!
Chiếc đá ấy mạnh đến nỗi con thú bị bắn thẳng ra khỏi cửa. Bỗng bên ngoài có tiếng người sợ hãi rú lên.
Mọi người tưởng con báo chưa chết ra tới ngoài lại vồ người liền đổ xô ra xem. Ai nấy đều thất kinh vì thấy xung quanh núi đầy những ánh lửa đuốc sáng tỏa một vùng, thành rừng đao thương lấp loáng phản chiếu bởi những ánh sáng của các ngọn đuốc ấy.
Thì ra quân Minh đã ùn ùn kéo tới vây đánh núi Lão ô.
Cũng may các đảng viên nhóm "Sơn Tôn" đã giải tán từ hồi trưa. Tổ Trọng Thọ xét tình hình thấy khó lòng tẩu thoát khỏi tay kẻ địch. Nhưng có người ngạc nhiên, tự hỏi: Phải chăng những đàn em canh gác dưới núi đều đã bị quân Minh sát hại hết chăng? Nên quân địch mới lên tới đỉnh núi, mà tuyệt nhiên không nghe thấy một tiếng báo động nào!
Những người còn lại trên núi đều là những người từng đánh trăm trận cả. Tuy trong lòng họ hơi e ngại, nhưng không một người nào tỏ vẽ nao núng cả. Trọng Thọ là người có địa vị cao hơn cả nên chàng phải lịnh chỉ huy:
- La tướng quân dẫn tất cả đàn em phụ trách nấu bếp, quét dọn và canh gác miếu ra đầu núi phía Đông phóng hỏa rồi hò hét làm nghi binh.
La Đại Can vâng lời đi luôn. Trọng Thọ nói tiếp:
- Châu tướng quân, Ngụy tướng quân, hai vị tới trước núi, mỗi người bắn 10 phát tên cho quân địch khỏi tiến đến gần. Bắn xong trở lại đây tức thì!
Chờ Châu, Ngụy hai người đi rồi, chàng lại nói tiếp:
- Thôi đại ca! Đệ nhờ đại ca giúp cho một việc rất quan trọng.
Thôi Thu Sơn tiến ra:
- Đại ca muốn tôi bảo vệ Thừa Chí phải không?
- Vâng.
Nói đoạn, Trọng Thọ và Ứng Tòng đều quỳ xuống vái Thu Sơn. Chàng giựt mình vội đáp lễ!
Lúc ấy tiếng hò reo, tiếng trống, tiếng thanh la nổi dậy, phát từ trên núi xuống. Mọi người đoán chắc những tiếng đó, do La Đại Can phát động, mục đích làm cho quân địch bối rối. Trọng Thọ chỉ vào Thừa Chí vội nói với Thu Sơn rằng:
- Viên đại soái chúng tôi chỉ có một người con này thôi. Bây giờ trăm sự nhờ đại ca hộ tống tiểu chủ xuống núi giúp.
Thu Sơn trả lời:
- Tôi xin tận tâm bảo vệ chú Thừa Chí!
Bấy giờ Châu An Quốc và Ngụy Hạo bắn tên xong, trở về. Trọng Thọ lại ra lệnh:
- Tôi và Châu tướng quân cùng đi một đường. Khi gặp La tướng quân ba người chúng tôi sẽ xông xuống núi bên phía Đông. ứng tiên sinh và Ngụy tướng quân xuống bên phía Tây. Bọn chúng ta xông xuống trước để dụ địch tập trung lực lượng về phía chúng ta. Thừa dịp đó, nhờ Thôi đại ca hộ tống giúp Thừa Chí xuống núi ở phía sau. Rồi tất cả sẽ gặp nhau ở trại Lý tướng quân.
Trong lúc nguy cấp mà Tổ Trọng Thọ vẫn bình tĩnh chỉ huy, mọi người đều phục chàng can đảm. Được Ứng Tòng và mọi người dạy bảo mấy năm, nhứt đáp chia ly, lòng Thừa Chí bùi ngùi khôn tả. Cậu ta liền quỳ xuống vái mọi người mấy cái và thưa rằng:
- Tổ thúc thúc, ứng thúc thúc, Châu thúc thúc, Ngụy thúc thúc, cháu... cháu...
Cổ họng tắc nghẽn, y không sao nói tiếp được. Tổ Trọng Thọ liền đỡ lời:
- Cháu đi theo Thôi thúc thúc, phải nên ngoan ngoãn nghe lời.
Thừa Chí gật đầu xin vâng.
Lúc đó, quân Minh sắp đánh lên tới đỉnh núi, Ứng Tòng nói:
- Chúng ta đi thôi! Thôi đại ca chờ một lát hãy lên đường nhé!
Mọi người tay cầm khí giới, chia đường xông xuống.
Thấy Thu Sơn tay không, Ngụy Hạo liền giao cây đinh ba cho Thu Sơn và nói:
- Thôi đại ca đỡ lấy.
Thu Sơn trả lời:
- Tôi không cần tới.
Nói đoạn, chàng định giao trả. Nhưng Ngụy Hạo đã đi xa rồi. Chàng đành phải tay trái dắt Thừa Chí, tay phải cầm đinh ba đi về phía sau núi.
Trên sườn núi phía sau cũng có rất nhiều bó đuốc chiếu rọi. Quân Minh đông như đàn kiến vừa hò reo vừa xông lên. Thấy tên và đá bắn như mưa, Thôi Sơn đành phải lùi vào trong Miếu. Chàng xuống bếp lấy hai cái vung chảo; mình cầm cái to, còn cái nhỏ đưa cho Thừa Chí và bảo rằng:
- Chúng ta lấy cái vung này làm tạm cái mộc để đỡ tên đá. Thôi, đi đi!
Hai chú cháu dùng khinh công, nhằm xó tối mà tiến thẳng vào, nhưng hai người bị quân Minh phát giác tung tích. Chúng hò reo, đuổi và bắn theo mấy chục mũi tên.
Thôi Sơn để Thừa Chí chạy trước, còn chàng đi đoạn hậu, tay trái múa vung chảo cản đỡ các mũi tên phía trước, tay phải múa đinh ba gạt mũi tên phía sau. Cả hai cùng theo đường chân núi xông xuống. Bỗng có một nhóm quan quân khá đông, chạy đi ngăn cản nhưng chỉ trong chốc lát đã có mười mấy tên quân bị đinh ba của Thôi Sơn đâm chết. Cây đoản thương của Thừa Chí tuy không giết nổi người nhưng cũng có thể hộ thân cho cậu. Chạy xuống tới lưng chừng núi, hai người định dừng lại nghỉ ngơi chốc lát, bỗng có tiếng hò hét vọng lại, rồi thấy một đội quân Minh khác ở ngang hông núi xông tới. Đi đầu là một viên Thiên Hộ, tay y cầm đại đao bổ thẳng vào đầu Thôi Sơn. Giơ đinh ba lên đỡ, Thôi Sơn thấy chĩu tay, biết tên Thiên Hộ sức lực khá mạnh.
Chàng liền dùng miếng "Độc Long Xuất Động" (rồng độc ra ngoài hang) đâm thẳng sang. Tên Thiên Hộ giơ đao gạt sang một bên và hô lên:
- Các anh em tiến!
Thôi Sơn không dám tiếp tục chiến đấu liền giơ cái vung chảo úp vào mặt kẻ địch. Tên Thiên Hộ vội tránh sang bên phải, Thôi Sơn cả thét lên một tiếng, đinh ba của chàng đâm thẳng vào mạng mỡ kẻ địch. Tới khi rút được cây đinh ba ra, chàng quay lại, không thấy bóng Thừa Chí đâu cả. Chàng thất kinh, bỏ đi tìm. Thấy bên trái có một đám đông đang hò hét, chàng hùng hổ phóng tới. Quân Minh sợ hãi, phải gạt sang hai bên để cho chàng đi. Khi tới gần tới nơi, quả nhiên chàng thấy Thừa Chí đang bị bao vây. Cây đoản thương đã rơi xuống đất, cậu ta chỉ dùng hai bàn tay nhỏ đỡ, thế "Phục Hổ chưởng" mới học được ra đối địch với bọn quân Minh. Vì người nhỏ sức yếu, Thừa Chí càng đánh càng kém thế. Sắp bị nguy hiểm đến nơi, thì may thay, Thôi Sơn đã tới cứu ứng. "Soảng soảng" hai mũi đinh ba đánh ngã hai tên địch, chàng vội kéo luôn Thừa Chí chạy. Bọn quân lính hò hét đuổi theo. Chàng bỗng đứng lại, dùng miếng "Hồi mã thương" đâm ngã hai tên địch đuổi tới gần.
Tiếp theo đó, chàng tiến lên một bước dùng chuôi cán đinh ba hất tung một tên lính lên rơi xuống mỏm đá. Tên lính nọ kêu lên một tiếng thảm khốc, rồi chết ngất.
Bọn quan binh thấy Thôi Sơn thần dũng quá, đều ngưng bước không dám đuổi theo nữa. Thôi Sơn cặp Thừa Chí vào nách, giở khinh công "Đề Tung thuật" (thuật nhẹ mình nhảy nhót) nhảy như bay, tiến thẳng vào trong bóng tối như vào chỗ không người. Không bao lâu đã rời bọn quân binh khá xa, Thôi Sơn mới đặt Thừa Chí xuống và hỏi rằng:
- Chú có bị thương không?
Thừa Chí thấy hỏi, vội giơ tay lau mồ hôi trên mặt thấy dính nhơm nhớm, vội ra chỗ có ánh trăng xem. Thấy tay dính đầy máu, cậu ta sợ quá. Quay lại nhìn mặt Thôi Sơn, cậu cũng thấy dính máu, liền hỏi:
- Thôi thúc thúc, máu... máu...
- Không sao. Đó là máu của địch quân. Người chú có chỗ nào thấy đau không?
- Không ạ.
- Hay lắm. Chúng ta đi thôi!
Cả hai cùng bò vào trong bụi cây mà đi. Một tiếng đồng hồ sau, sắp ra khỏi bụi rậm, Thôi Sơn ló đầu ra ngoài xem. Dưới núi, lửa đuốc sáng choang, mấy trăm quân lính đang canh gác ở đó. Chàng rỉ tai Thừa Chí:
- Chỗ này không xuống được. Phải rút lui.
Hai người quay trở lại, đi bộ mấy trăm thước, trông thấy một cái hang rất rộng. Trước cửa hang, cây cỏ um tùm, khó lòng phát giác, cả hai cùng chui vào trong đó ẩn núp, Thừa Chí trẻ người non dạ, đang ở chỗ nguy hiểm mà vẫn ngây thơ, không biết sợ hãi gì cả. Vì mỏi mệt quá, chỉ trong chốc lát, Thừa Chí ngủ lăn ra đất, Thôi Sơn khẽ ẵm cậu lên, ôm vào trong lòng. Lát lâu, tiếng hò reo của quân trên núi ánh sáng tỏ bừng, chắc quân Minh đang phóng hỏa đốt ngôi miếu. Lát lâu nữa, lại nghe thấy tiếng thâu binh của quân Minh, rồi đại đội người ngựa đi qua. Thôi Sơn kêu khổ thân, vì chỗ hang núi chàng ẩn núp ở ngay bên cạnh con đường xuống núi.


Hồi 3

Trải qua một thời gian khá lâu bỗng Thôi Sơn nghe thấy phía ngoài bụi cây có tiếng động, hình như có người ngồi xuống. Chàng vội cầm cây đinh ba lên và lắng tay nghe. Có tiếng một người quát lớn:
- Tên nghịch tặc họ Viên có một đứa con còn sống. Hiện giờ ở đâu?
Tiếng nói to quá, làm Thừa Chí giật mình tỉnh giấc, Thôi Sơn ra hiệu bảo cậu giữ im lặng.
Lại nghe thấy người nọ quát hỏi:
- Mầy có nói không? Nếu không, tao phải chặt gãy chân mày trước!
Một tiếng khác chửi lại:
- Mầy muốn chặt, cứ việc chặt đi, chứ tao ở biên giới đánh nhau với quân Mãn Thanh hung ác như thế còn không sợ, há gì bè lũ gian tặc chúng bây!
Nghe giọng nói đúng như Ứng Tòng, Thừa Chí khẽ kêu lên:
- Ứng thúc thúc!
Người nọ quát hỏi:
- Mầy không chịu nói phải không?
Ứng Tòng không thèm trả lời, nhổ nguyên đống nước miếng vào mặt tên nọ. Tiếp theo đó, chỉ nghe một tiếng la thét thê thảm. Có lẽ Ứng Tòng đã bị quân địch chém một nhát rồi cũng nên? Thừa Chí không thể nhịn được nữa, vùng mình thoát khỏi tay Thôi Sơn, vừa gọi, vừa phóng thẳng ra:
- Ứng thúc thúc!
Dưới ánh sáng, Thừa Chí thấy một người giơ đao định chém một người nằm ngã dưới đất. Cậu ta xông ngay vào, dùng miếng "Tả Kích Hữu Cầm" trong thế "Phục Hổ chưởng" đấm vào mắt tên nọ. Mắt y bị đấm đau, nổ đom đóm lửa. Cổ tay phải của y cũng bị đau, vì giơ tay định đỡ, và con dao trong tay bị văng đi mất. Thừa Chí thuận tay chém luôn một đao vào vai tên nọ. Tuy người nhỏ sức yếu, không chém đứt nổi cánh tay của địch nhưng cũng khiến cho tên nọ đau đến mất hồn bạt vía. Bị đánh bất ngờ, các quan binh đều giật mình hoảng sợ. Nhưng nhìn kỹ lại chỉ thấy một thằng bé con thôi, cả bọn đều cầm đao thương xông lại chém lia lịa, tưởng như sắp chém thằng bé thành mảnh vụn.
Đột nhiên, từ trong bụi cây, một cây đinh ba lao ra, một số lớn binh sĩ bị toạt hổ khẩu tay, đau đớn lạ thường, quăng cả khí giới xuống đất. Thừa dịp nhốn nháo, Thôi Sơn nhảy vọt vào cặp chặt Thừa Chí, rồi thoắt một cái, đã nhảy ra khỏi đám đông. Đến lúc quan quân hoàn hồn, phóng tên theo thì hai người đã chạy đi mất rồi.
Sau khi Thôi Sơn đã cứu Thừa Chí khỏi nơi ấy, viên tướng thừa lệnh Tào thái giám đến đây chỉ huy cuộc vây bắt, liền ra lệnh cho bốn tên hảo thủ lập tức theo dõi. Chúng thấy Thôi Sơn dưới nách vẫn cặp Thừa Chí, mà vẫn chạy nhảy như bay. Một tên lấy ra ba cái thủ tiễn (tên phóng bằng tay) dùng hết sức bình sinh lao theo. Nghe thấy hơi gió lướt qua đầu chàng, vì tránh ba mũi tên, chàng phải ngừng bước. Lợi dụng phút đó, một tên khác vội vã phóng liên tiếp ba chiếc phi tiêu theo. Thôi Sơn bèn đặt Thừa Chí xuống đất, tay trái quơ luôn được hai mũi phi tiêu. Đang định phóng trả đũa lại thì những ám khí khác của địch đã liên tiếp bay tới. Chàng một tay bắt, một tay dùng đinh ba gạt những ám khí đó, rồi vừa chạy xuống núi.
Lúc ấy, tuy cách đại đội quân Minh đã xa, nhưng bốn tên kia vẫn còn theo sau đuổi riết.
Trong bốn người kia có một tên nói với theo:
- Này anh bạn kia, muốn sống thì khôn liền bỏ khí giới xuống, ngoan ngoãn nghe lời chúng ông thì ngươi sẽ ít chịu đau khổ!
Thấy lời nói của tên nọ quá vô lễ, Thôi Sơn giận lắm, lẳng lặng lấy ngầm phi tiêu ra. Chờ y đuổi tới gần, chàng liền phóng luôn. Cái trên cái dưới, hai phi tiêu đi nhanh như chớp. Tên nọ kêu "Trời ơi!" một tiếng, đùi y đã bị trúng ngay một phi tiêu, ngã lăn ra đất. Còn ba tên kia, thây kệ bạn bị thương, vẫn cắm đầu đuổi theo. Thu Sơn thấy kẻ địch sắp tới gần, liền nói với Thừa Chí rằng:
- Đôi đao của tên kia sắc lắm, để tôi cướp lấy cho chú nhé!
Nói đoạn, chàng cầm đinh ba xuống đất rồi đột nhiên quay lại. Nhưng tên sử dụng song đao đã dùng thế "Vân Long Tam Hiện" (rồng mây hiện ba lần) chém liên hoàn ba nhát, nên Thu Sơn không cướp nổi song đao của y. Còn tên dùng thiết tiêu đã xông tới cạnh Thừa Chí. Thu Sơn chưa cướp được song đao thấy Thừa Chí sắp bị nguy hiểm đến nơi, chàng liền quay lại quay tít một vòng đá tới phía sau tên cầm thiết tiêu, chàng dùng miếng "Kim Long Thần Trảo" (rồng vàng múa vuốt) giơ tay túm lấy vai áo tên kia.
Tên cầm thiết tiêu đang quất ngang ngọn roi vào lưng Thừa Chí bỗng thấy phía sau có kẻ địch, y vội ngừng roi quay mình trở lại, Thu Sơn đánh nhanh quá, tên kia chỉ có cách vừa đỡ vừa lui. Thuận chân, Thừa Chí đá luôn vào mông đít tên nọ, y nổi giận, thét to một tiếng, giở roi đánh trở lại. Nhưng đã quá chậm vì thiết tiêu của y đã bị Thu Sơn nắm lấy rồi. Lúc đó tên sử dụng song đao và tên dùng quỷ đầu đao đều nhứt loạt chém vào lưng Thu Sơn, còn tên bị trúng phi tiêu cũng đã bò dậy, cầm thương đâm vào cạnh sườn trái của Thừa Chí.
Lúc ấy, nguy cơ tứ phía, Thôi Thu Sơn quả thật anh dũng. Trong lúc tối khẩn cấp đó mà chàng vẫn ung dung không hề nao núng. Chàng thét lên một tiếng thật lớn, tay phải dùng miếng "Hàng Long Phục Hổ" đánh ngay vào ngực tên cầm thiết tiêu. Miếng đó là một trong ba miếng tuyệt diệu của ba thế võ "Phục Hổ chưởng." Tên quân Minh kia làm sao đỡ nổi? Y bị hất tung người lên và rơi nhằm trúng ngọn thương của tên bị phi tiêu ngã xuống, cũng may tên nọ đã rút nhanh cây thương lại, nên y mới thoát chết.
Thu Sơn, cướp đượt cây thiết tiêu, liền quất trở lại, hất ba mũi đao của hai tên nọ phóng ra. Rồi chàng kéo tay Thừa Chí chạy thẳng xuống núi.
Bốn tên quân Minh thấy Thu Sơn chỉ trong chớp nhoáng đã dùng tay không cướp roi sắt, đồng thời lại giải vây được thế tấn công của bốn người. Võ nghệ của chàng đã tới mức tuyệt đỉnh, nên bọn người này sợ quá không dám đuổi theo nữa, chỉ lấy ám khí phóng theo. Trong bóng tối, Thu Sơn nghe tiếng gió "vù vù" lia lịa, vói Thừa Chí vàolòng rồi vượt cao, nhảy thấp, để tránh những ám khí của địch. Dù sao phải ẵm thêm một người, chàng nhảy nhót cũng không nhanh nhẹn cho lắm. Vì vậy, tránh được ba viên "Thiết bồ đề" ở phía phải tới, thì chân trái chàng đã thấy đau, chàng biết mình đã bị trúng ám khí rồi. Vết thương thấy đau rồi lại thấy ngứa, chàng sợ quá, biết mình đã trúng phải mũi tên độc rồi. Không dám dừng bước, chàng phải ngiến răng chịu đựng để chạy xa thêm một quãng nữa. Như vậy chất độc lại càng phát nhanh hơn.
Một lát sau, chân bị tê liệt, chàng loạng choạng rồi ngã lăn ra đất. Thừa Chí sợ quá vội gọi:
- Thôi thúc thúc!
Bốn người đang đuổi theo phía đàng sau, nhìn thấy Thu Sơn đã ngã nằm trong bóng tối, liền hò reo chạy tới.
Thu Sơn bảo với Thừa Chí:
- Thừa Chí, chú em chạy mau lên! Để mặc tôi cản chúng lại cho!
Tuổi tuy còn nhỏ, nhưng Thừa Chí là người rất có nghĩa khí. Cậu dương hai tay nhảy tới phía sau lưng Thu Sơn để sửa soạn nghinh địch...
Thu Sơn nghĩ thầm: "Võ nghệ của y còn non nớt quá, bảo vệ ta sao nổi."
Tuy vậy, lòng chàng vẫn thấy cảm động vì cử chỉ đẹp đẽ ấy. Chỉ trong nháy mắt, kẻ địch đã đuổi tới noi. Tên sử dụng song đao và tên dùng quỷ đầu đao, lấy sống đao chém thẳng vào mắt cá chân Thừa Chí. Cậu bé nhảy cao tránh khỏi nhát đao đó. Thu Sơn gượng quỳ dậy, phóng cây tiêu vào người cầm song đao. Tên kia muốn tránh cũng không kịp, trán y bị cây tiêu đâm trúng chết liền. Trong lúc tên cầm quỷ đầu đao vì hoảng sợ ngẩn người ra, Thu Sơn nhanh như chớp đã lao mình tới bóp chặt cổ họng y. Tên nọ đau quá, tiện tay chém luôn một đao vào cánh tay chàng. Tuy bị thương chàng vẫn thừa sức bóp cổ kẻ địch cho tới khi hắn tắt thở mới thôi. Còn hai tên kia, vốn bị thương sẵn, thấy Thu Sơn hùng dũng quá đều quay đầu ù té chạy.
Cánh tay của Thu Sơn máu chảy không ngớt và đùi bên phải đã bị tê liệt thành vô tri giác, nhưng chàng vẫn nghiến răng chịu đựng. Rồi chàng nhặt thanh đao, dùng tay trái chống lên, cố gượng đứng dậy. Lúc ấy tuy kẻ địch đã chạy xa rồi, nhưng chàng còn sợ chúng dẫn viện binh tới. Không quản ngại đau đớn nguy hiểm gì cả, chàng đi lò cò một chân và lấy thanh đao làm gậy chống, rồi cứ nửa đi nửa nhảy, tiến thẳng xuống chân núi.
Trong khi đó, Thừa Chí đi cạnh để chàng vịn vai đi cho dễ dàng. Đi được một lúc, nọc độc từ dưới chân trái ngấm dần lên, khiến tay trái chàng cũng bị đuối sức. Vì vậy, tay phải đang vịn vào vai Thừa Chí càng phải dùng sức thêm lên. Càng đi, Thừa Chí càng thấy nặng chĩu, nhưng cậu vẫn cố sức chịu đựng, không dám hé miệng kêu ca nửa lời. Đi thêm một quãng đường nữa, cả hai người đều mỏi mệt, kiệt sức. Thừa Chí bỗng nói:
- Thôi thúc thúc nè, đằng trước kia có một ngôi nhà! Chúng ta đến đó để tạm tránh đi. Chỉ có một tí nữa là tới nơi ngay!
Thu Sơn gật đầu, rồi miễn cưỡng lết chân đi. Vừa tới trước cửa nhà đó, chàng đã chịu không nổi, ngã lăn ra đất, chết ngất.
Thừa Chí sợ quá, vội cúi xuống gọi:
- Thôi thúc thúc!
Lúc đó cánh cửa nhà nọ "kẹt" một tiếng hé mở. Một người đàng bà tuổi trung niên bước ra.
Thừa Chí nói:
- Thưa Đại nương, chúng cháu gặp quan binh. Chú cháu bị thương. Bà làm ơn cho chúng cháu vào ở nhờ một đêm.
Người đàn bà nông dân đó vốn tâm địa rất nhân từ, thấy Thừa Chí nói đoạn, liền gọi một thanh niên trạc độ 18, 19 tuổi đỡ lấy. Thu Sơn có võ công khá cao, thần khí nội liêm, nên tâm trí vẫn chưa mê mẩn. Vừa nằm lên giường giây lát, chàng đã gọi Thừa Chí cầm đèn đến xem vết thương. Thấy bên chân bị trúng độc đã sưng lên gấp đôi, cả hai cùng giật mình sợ hãi. Thu Sơn nhờ người thanh niên nọ băng bó vết thương trên cánh tay và lấy giẻ cột chặt phía dưới đùi để cho hơi độc khỏi nhiễm tới tim. Sau đó chàng mới rút mũi tên ra. Vết thương chảy máu đen. Chàng định cúi xuống để hút máu độc ra, nhưng chân bị sưng to quá, nên miệng chàng không sao đụng tới chỗ đau được. Thừa Chí lẳng lặng ngồi xuống, để miệng vào vết thương hút luôn. Nút tới bốn chục lần, y nhổ ra toàn những máu đen. Mãi đến lần thứ 40 mới thấy máu đỏ chảy ra.
Thu Sơn bảo rằng:
- May quá! Chất độc trong mũi tên không phải là thứ lợi hại cho lắm. Thừa Chí chú mau ra súc miệng đi!
Trong khi đó, người đàn bà nông dân đứng cạnh vẫn niệm Phật cầu cho nạn nhân chóng qua khỏi.
Đến chiều ngày hôm sau, người thanh niên, về cho hay, bọn quan binh đã rút lui hết rồi. Tuy chân của Thu Sơn đã bớt sưng dần, nhưng chàng lại lên cơn sốt, nói mê sảng.
Vì Thừa Chí nhỏ tuổi nên chẳng hiểu bệnh tình Thu Sơn nặng nhẹ như thế nào.
Người đàn bà nông dân nói:
- Cậu ấm này! Tôi chắc độc khí trong chân thúc thúc cậu chưa hết đâu. Thế nào cũng phải xuống dưới trấn mời thầy lang về chữa mới được.
Thừa Chí công nhận lời nói đó là phải. Người đàn bà đó tốt bụng quá, đã cho mượn chiếc xe bò lại còn sai chàng thanh niên kia đưa hai chú cháu xuống dưới thị trấn. Tội nghiệp thay! Cả hai chú cháu đều không có đồng xu dính túi. Người thanh niên kia hỏi hai người muốn ăn gì cho biết để làm. Thừa Chí không biết trả lời ra sao, chỉ thoái thác là còn no thôi. Cậu đang ngồi khóc thút thít bỗng Thu Sơn chợt tỉnh giấc.
Thừa Chí hỏi chàng có cách gì ra tiền không? Chàng hỏi lại:
- Hiện giờ trong người chú em có vật gì đáng tiền không?
Thừa Chí mừng quá reo lên:
- Thế chiếc vòng này có được không?
Nói đoạn, cởi cái vòng đeo ở cổ ra. Thu Sơn thấy chiếc vòng đó là vàng điệp, trên có đính 8 hột trân châu, và khắc 4 chữ "Phú Quý Vinh Hoa" phía dưới khắc hai hàng chữ nhỏ "Tổ Đại Thọ kính trọng" "Viên công tử ni nguyệt chi khánh." Chàng mới biết cái vòng này của Tổ Đại Thọ mừng Thừa Chí lúc đầy tháng.
Tổ Đại Thọ nguyên là viên đại tướng rất đắc lực của Viên Sùng Hoán. Lúc tuổi trẻ, Đại Thọ rất nghĩa hiệp tính tình phóng đãng. Kế Liêu Phủ Tôn Thừa Tôn bắt được, sắp bị trảm huyết, nhưng may mắn được Viên Sùng Hoán xin miễn cho. Vì vậy chàng rất trung thành với Viên đại soái. Sau khi Đại soái bị chết oan uổng, chàng nổi giận đem bộ hạ rời khỏi kinh đô. Chàng định nổi loạn để trả thù cho ân nhân nhưng sau mẹ và vợ con chàng khuyên can mãi mới thôi. Chàng là một viên dũng tướng đối mặt Minh, ai ai cũng biết tiếng. Lúc đó Thu Sơn nửa mê nửa tỉnh, không còn tính toán hơn thiệt, liền hỏi:
- Chú bảo phổ ky dẫn chú đi cầm. Sau này có tiền ta lại chuộc về.
- Vâng cháu xin đi ngay.
Nói đoạn, cậu ta nhờ người dẫn đi cầm.
Người làm việc ở tiệm cầm đồ trông thấy cái vòng, giựt mình rồi nói:
- Cậu bé hãy đứng chờ một lát nhé!
Người ấy cầm chiếc vòng đó vào nhà trong khá lâu. Thừa Chí và người phổ ky chờ lâu quá, nóng ruột. Nhưng một lát sau, người làm ở tiệm cầm đồ mới đi ra, hỏi rằng:
- Hai chục lạng bạc có cầm không?
Thừa Chí không biết trả lời ra sao cả. Cũng may, được người phổ ky có lòng tốt, nài thêm cho cậu thêm 5 lạng nữa. Cầm lấy số bạc và giấy cầm đồ, Thừa Chí cùng tên phổ ky tiện đường, mời thầy lang đến thăm bịnh cho Thu Sơn.
Nhưng cậu không ngờ, mình đang bị hai tên Công sai theo dõi. Khi về tới phòng, thấy Thu Sơn nằm ngủ li bì, trán nóng như lửa thì sốt ruột quá. Thầy lang chưa tới mà đã thấy bảy, tám tên Công sai, tay cầm day xích và thước sắt xông vào. Một tên trong bọn la lớn:
- Chính thằng nhỏ này đây!
Tên cầm đầu bọn Công sai hỏi Thừa Chí:
- Này, cậu bé kia! Cậu họ Viên phải không?
Thừa Chí sợ hãi, không biết trả lời ra sao, chỉ nói:
- Không phải.
Tên Công sai cả cười, móc túi lấy chiếc vòng vàng ra rồi hỏi:
- Thế cái vòng này cậu lấy trộm ở đâu ra thế?
Thừa Chí tức mình trả lời:
- Cái vòng này của tôi, không lấy trộm của ai hết!
Tên công sai lại cười:
- Viên Sùng Hoán là thân phụ của cậu phải không?
Thừa Chí không dám trả lời, quay trở vào gọi Thu Sơn. Mấy tên Công sai đứng ngoài cửa phòng vội quát tháo bảo nhau:
- Bọn gian đảng núi Lão Ô đang trốn trong này. Ta đừng để cho chúng tẩu thoát!
Thu Sơn bỗng ngồi dậy, muốn gượng đứng lên. Nhưng vừa đặt chân xuống đất, chàng đã ngã qụy xuống. Thấy bọn Công sai xông vào trong khi chưa kịp đỡ Thu Sơn dậy, Thừa Chí đã phải nhảy ra ngăn cản. Khách ở trọ và các phổ ky nghe thấy tiếng kêu bắt tội phạm, đều đứng xúm đầy sân xem. Họ trông thấy bảy, tám tên Công sai đang hoành hành với một đứa bé trạc độ 10 tuổi. Ai nấy đều ngạc nhiên. Một tên công sai định quàng cái xích sắt vào đầu Thừa Chí.
Thừa Chí lùi lại một bước để tránh nhưng cậu vẫn giữ thế, không để cho Công sai đột nhập trong phòng. Tên Công sai thấy không xích nổi Thừa Chí cũng ngạc nhiên vô cùng. Y sống trong nghề nha lại đã mấy chục năm, và lần nào xích người cũng rất dễ dàng. Thế mà với thằng nhỏ này, y lại xích không nổi. Y giận quá, đưa tay đành nắm lấy cái đuôi sam nhỏ của Thừa Chí. Thấy bọn Công sai hùng hổ ào ào, Thừa Chí sợ hãi đến nỗi suýt khóc. Nhưng thấy tên Công sai ra tay định xâm phạm vào người mình, cậu liền né đầu tránh và sử dụng ngay miếng "Hoàng Hổ Đơn Tiên" (phất ngang cây roi) trong thế võ Phục Hổ chưởng. Cậu nắm cổ tay tên Công sai kéo ngang một cái. Tên nọ loạng choạng suýt ngã. Y càng giận thêm, liền giơ chân vừa đá vừa chửi:
- Thằng nhãi con kia, hôm nay ông phải cho mầy biết tay.

Thừa Chí vừa né tránh chiếc đá vừa nắm lấy đùi và mông tên Công sai nhắc bổng y lên, rồi thuận tay hất y ra ngoài. Tên Công sai vừa to vừa mập, bị hất tung ra ngoài sân, ngã chổng bốn vó lên trời. Bé nhỏ như Thừa Chí làm gì có sức mạnh đến thế? Đó là nương lấy sức đá của tên Công sai, cậu mượn lấy sức ấy để đánh lại "Tả Lực Đả Lực" và hất ngã nổi tên công sai. Các người đứng xem đều vỗ tay khen ngợi. Nhìn thấy người lớn bắt nạt người trẻ con, họ tức giận sẵn rồi, nay lại thấy tên người lớn kia bị thằng bé con đánh ngã, họ mới hò reo khen ngợi như vậy.
Các tên công sai khách cũng đều ngạc nhiên. Chúng nghĩ thầm: "Thằng nhỏ này có phép lạ chắc?"
Rồi chúng đưa mắt ra hiệu, tay cầm thước sắt xông cả lại. Bọn người đứng xem thấy bọn Công sai rút võ khí ra, sợ bị vạ lây đều tránh ra xa. Thừa Chí tuy đã học được mấy năm võ nghệ, nhưng dù sao cậu vẫn còn nhỏ tuổi, thì địch sao nổi nhiều người lớn như thể? Đang lúc nguy cấp, bỗng thấy phòng bên có một đại hán bước ra. Chỉ thấy khẽ nhún mình, người ấy đã nhảy tới trước mặt rồi. Chàng giơ hai tay nắm và vỗ loạn xạ. Không hiểu tại sao, tất cả vũ khí của bọn Công sai đều bị chàng cướp giựt hết cả.
Có mấy tên Công sai rút lui hơi chậm bị đánh đến nỗi mắt quầng, mồm sưng vênh cả lên. Chàng nọ cả cười rồi rú lên thứ tiếng lạ lùng. Một tên Công sai thét lớn:
- Chúng ta đến đây tróc nã phạm nhân, nhà người là ai? Có mau tránh ra không?
Người kia tựa như không nghe thấy, chỉ thoáng một cái đã tới mặt tên Công sai vừa la thét, và tay phải cứng như sắt, chàng túm ngực tên Công sai vứt ra ngoài. Tên Công sai tựa như diều đứt dây, là là bay ra ngoài đường, và "ầm" một tiếng, y đã bị ngã chết ngất dưới đất. Còn những tên Công sai khác không dám ở lại, chạy ngoài đường.
Đại hán nọ đi tới trước mặt Thừa Chí hai tay chỉ ra hiệu miệng ú ớ. Thì ra người đó là người câm, và hình như hỏi lai lịch của Thừa Chí. Không biết trả lời sao cho phải, Thừa Chí nóng ruột quá. Bỗng chàng câm dỡ một bàn tay lên và úp một bàn tay xuống. Bắt đầu đánh theo thế Phục Hổ chưởng, từ miếng thứ nhất, chàng đánh tới một miếng thứ 10 mới thôi. Thừa Chí biết ý liền từ miếng 11 đánh tới miếng 24. Chàng Câm vừa cười vừa gật đầu, rồi chạy lại ẵm Thừa Chí lên tỏ vẻ thân mật. Thừa Chí chỉ vào trong phòng, ra hiệu có người nằm trong đó. Chàng Câm liền ẵm cậu vào.
Trông thấy Thu Sơn đang ngồi dưới đất, mặt nhợt nhạt như sắp chết, chàng Câm giựt mình đặt Thừa Chí xuống. Chàng vừa tiến đến gần, Thu Sơn đã nhận ra người quen, liền ra hiệu chỉ xuống đùi mình. Chàng Câm gật đầu, rồi tay trái dắt Thừa Chí, tay phải ẵm Thu Sơn, đi bước đại ra khỏi khách điếm. Thấy chàng Câm hung hăng như vậy, bọn phổ ky cũng không dám cản trở. Hai tên Công sai núp ở hai bên, chờ chàng Câm đi một quãng mới dám theo dõi. Chúng muốn biết chàng và hai phạm nhân trú chân ở đâu, rồi chúng về triệu thêm người tới nã bắt. Lúc ấy, Thu Sơn mơ mơ màng màng không biết gì cả.
Chàng Câm vì không nghe thấy tiếng người đuổi theo, nên cũng không nghi ngờ gì cả.
Duy có Thừa Chí nhỏ người mà khôn ngoan lạ lùng. Cậu thấy phía đằng xa xa có bóng người thấp thoáng, biết ngay là bọn Công sai theo dõi. Cậu liền ra hiệu cho chàng Câm hay. Quay đầu ngó lại phía sau, chàng chỉ thấy có hai tên Công sai theo sau nên chàng không sợ, cứ thủng thẳng tiến về phía Tây. Đi độ hai ba dặm đường, càng đi càng thấy vắng vẻ, chàng Câm đặt Thu Sơn xuống đất, rồi quay phắt lại, chỉ nhảy hai, ba cái chàng đã tới trước mặt hai tên Công sai nọ. Chúng định quay đầu chạy, nhưng kịp sao được, chàng đã mỗi tay túm ngay một đứa, quăng ngay xuống dưới thung lũng. Chỉ nghe thấy hai tiếng kêu thảm thiết, hai tên Công sai đã vỡ sọ chết tươi.
Giết xong hai tên Công sai, chàng Câm lại ôm Thu Sơn lên, rảo bước đi như bay, dù cố sức chạy theo mà Thừa Chí vẫn không đuổi kịp. Chạy được hơn dặm đường, Thừa Chí mệt thở hổn hển không đi được nữa. Chàng Câm mỉm cười cúi xuống ẵm cả Thừa Chí lên. Như vậy, chàng khỏi phải lo nghĩ, đi còn mau lẹ hơn trước. Được một quãng, chàng quay sang trái, hướng thẳng phía núi mà tiến. Qua hai ngọn núi, chàng tới trước cửa ba căn nhà lá dựng ở lưng chừng núi. Một người đứng trước cửa nhà lá chạy lại nghinh đón, người đó là một thiếu phụ trạc ngoài 20 tuổi. Nàng và chàng Câm cùng gật đầu chào ngay. Trông thấy Thu Sơn và Thừa Chí, nàng có vẻ ngạc nhiên nhưng nàng dẫn mọi người vào trong nhà, rồi lên tiếng gọi:
- Tiểu Tuệ, con cầm ấm trà ra đây mau.
Một em nhỏ ở phòng bên lên tiếng vâng lời, rồi xách một ấm nước trà và mấy cái bát ra. Trông thấy Thu Sơn và Thừa Chí, em nhỏ trợn tròn đôi mắt nhìn.
Người thiếu phụ tuy ăn mặc mộc mạc, nhưng da trắng trẻo, mặt xinh đẹp, và cả em nhỏ cũng xinh xắn vô cùng. Thiếu phụ nọ hỏi Thừa Chí:
- Cậu bé tên gì? Tại sao lại gặp được chàng Câm này?
Thấy nàng hỏi như vậy, Thừa Chì biết rõ ràng là người quen của chàng Câm, nên không giấu diếm, cậu kể hết sự thể đầu đuôi cho nàng nghe. Thấy Thu Sơn bị thương, nàng vào trong lấy một hộp đựng thuốc ra. Mở ra ít thuốc bột màu trắng và ít thuốc bột màu đỏ, hòa lẫn với nước, nàng cho Thu Sơn uống. Rồi nàng lại lấy một con dao nhỏ thật sắc bén khoét những chỗ thịt thúi trên đùi Thu Sơn bỏ đi, rồi rắc ít thuốc bột màu vàng vào chỗ vết thương. Một lát sau, nàng lại lấy nước thật trong rửa sạch vết thương, và rắc thêm thuốc bột màu vàng vào. Rửa và rắc thuốc hai lần xong, nàng mới thấy Thu Sơn cất tiếng rên. Nàng nhìn Thừa Chí rồi cười nói:
- Khỏi nguy hiểm rồi!
Nói đoạn, nàng chỉ chỏ ra hiệu cho chàng Câm bồng Thu Sơn vào phòng trong nghỉ ngơi.
Thiếu phụ vừa thu dọn hòm thuốc, vừa nói với Thừa Chí:
- Tôi họ An, cháu cứ gọi tôi là Thím An. Con nhỏ này là cháu gái tôi, tên nó là Tiểu Tuệ. Cháu cứ việc ở lại đây.
Thừa Chí gật đầu. An đại nương xuống bếp làm cơm giết gà để thết khách. Mệt nhọc suốt ngày, ăn uống xong Thừa Chí không thể gượng được nữa, đành phải gục đầu xuống mặt bàn ngủ thiếp đi.
Sáng ngày hôm sau, cậu vừa tỉnh dậy, Tiểu Tuệ liền kéo tay cậu đi rửa mặt. Thừa Chí nói:
- Để tôi đi thăm Thôi thúc thúc xem vết thương khỏi chưa đi.
- Bác Câm đã cõng ông ta đi rồi.
Thừa Chí giựt mình hỏi:
- Có thật không?
Tiểu Tuệ gật đầu. Thừa Chí chạy vào trong, quả nhiên không thấy Thu Sơn đâu cả. Cậu òa lên khóc. Tiểu Tuệ vội khuyên:
- Anh đừng khóc, đừng khóc nữa!
Thừa Chí không chịu nghe, cứ khóc hoài.
Tiểu Tuệ liền gọi:
- Má ơi! Má ơi! Mau ra đây!
An đại nương nghe thấy tiếng con gọi, vội chạy ra. Tiểu Tuệ nói với mẹ rằng:
- Má này! Anh ấy thấy bác Câm và Thôi thúc thúc đi rồi, anh ấy khóc liền.
An đại nương vội an ủi Thừa Chí:
- Cháu nín đi! Có phải Thôi thúc thúc của cháu bị thương nặng lắm đó không?
Thừa Chí gật đầu. Đại nương nói tiếp:
- Thím chỉ có thể chữa cho chú ấy khỏi tạm thôi. Muốn cho chú ấy mau lành, thím phải bảo bác Câm cõng chú ấy đi nhờ thầy lang chữa cho. Chờ chữa xong, chú ấy sẽ trở lại đây với cháu.
Thừa Chí hiểu rõ mới nín dần. An đại nương lại nói:
- Chú ấy sắp khỏi rồi. Cháu mau vào rửa mặt đi, rồi vào đây ăn cơm với thím và em nó.
Dùng cơm sáng xong, An đại nương bảo Thừa Chí kể lại thật rõ ràng câu chuyện đã xảy ra một lần nữa. Nghe xong, nàng cứ thở dài hoài. Thế là Thừa Chí được yên tâm ở lại nhà đó.
Cậu mồ côi từ thuở nhỏ, nay bỗng nhiên được Đại nương trông nom săn sóc như người mẹ hiền, lại có thêm Tiểu Tuệ làm bạn nên trong mấy ngày ở tại đó, cậu cảm thấy sự ấm cúng nhất trong đời. An đại nương lại bảo cậu ôn luyện lại những võ nghệ mà đã học hỏi được. Xem xong, nàng gật đầu khen ngợi và nói rằng:
- Cháu thông minh giỏi gian lắm!
Như vậy cũng đủ rõ nàng cũng hiểu biết những tinh túy của các thế võ đó vậy.
Cứ như thế qua được mười mấy ngày, và ngày nào An đại nương cũng bắt Thừa Chí luyện võ. Nhưng luyện hay hay dở, nàng không bao giờ chỉ bảo khen chê cả, và nàng săn sóc cho chàng từng li từng tí, coi chàng chẳng khác nào con ruột của mình vậy.
* * *
Tiểu Tuệ xuống lưng chừng núi đi tìm Thừa Chí vì không biết chàng vừa đi đâu mà không có ở trong nhà.
Cô gái dừng lại cất tiếng gọi:
- Anh Thừa Chí! Anh đâu rồi?
Gọi mãi không nghe tiếng Thừa Chí đáp lời, Tiểu Tuệ xuống núi để tìm chàng.
Tới một lùm cây chợt nghe có tiếng nói:
- Cô bé kia đứng lại.
Một ngưòi từ trong bụi rậm bước ra. Coi lại đó là một viên Công sai tay cầm đại đao sáng ngời.
Tiểu Tuệ giật mình lui mấy bước mở to đôi mắt đen huyền nhìn người khách lạ mặt.
Cô gái sợ sệt hỏi:
- Ông là ai?
Viên Công sai không đáp mà chỉ hỏi:
- Nhà An đại nương ở đâu?
Tiểu Tuệ lại lui thêm hai bước:
- Ông là ai, sao hỏi nhà An đại nương?
Viên Công sai nghiêm sắc mặt:
- Ta muốn gặp An đại nương có chuyện gấp lắm. Nhà An đại nương đâu?
Tiểu Tuệ tuổi hãy còn ngây thơ đâu hiểu chuyện gì, trỏ tay lên ngọn núi:
- Nhà ở trên kia.
Viên Công sai nhìn kỹ Tiểu Tuệ rồi hỏi:
- Tiểu cô nương tên gọi là gì?
- Tiểu Tuệ!
Cặp mắt của viên Công sai chớp lên:
- Tiểu cô nương hãy theo tôi.
Tiểu Tuệ kinh hãi trố mắt:
- Tôi theo ông để làm gì?
- Có người bảo tiểu cô nương theo tôi.
Tiểu Tuệ càng kinh dị hơn:
- Người đó là ai?
- Tiểu cô nương gặp ngườ đó rồi sẽ rõ.
Tiểu Tuệ lắc đầu:
- Tôi không đi.
Vị Công sai cười gằn:
- Tiểu cô nương không đi thì bắt buộc tôi phải đưa tiểu cô nương đi.
Hắn bước tới chụp nắm lấy Tiểu Tuệ.
Bật... bật...
Tiểu Tuệ kinh hãi vỗ hai chưởng, vừa hét:
- Mẹ ơi! Cứu con...
Nhưng viên Công sai đã lấy chiếc khăn lớn trùm lấy Tiểu Tuệ cuốn lại cho cô gái hết la.
Hắn quay mình đi xuống núi. Thình lình có tiếng hét:
- Trả em gái lại cho ta!
Người vừa hét chính là Thừa Chí. Chàng vỗ một chưởng vào lưng viên Công sai.
Viên Công sai nghe luồng gió day trở lại khoa cây đại đao chống đỡ.
Hắn nhìn Thừa Chí rồi quát:
- Thằng bé này muốn chết sao! Lui mau.
Viên Công sai hấp tấp bước đi, nhưng Thừa Chí đã dùng khinh pháp vượt ngang qua đầu hắn chận lại.
Chàng hét:
- Trả em gái ta, tại sao ngươi bắt cóc em ta?
Viên Công sai trợn mắt:
- Thằng tiểu quỷ, ngươi có lui ra không?
Thừa Chí không nói vỗ một chưởng ngay tâm huyệt viên Công sai.
Hắn quát:
- Ta giết ngươi!
Cây đao trong tay viên Công sai chớp lên, Thừa Chí rú lên một tiếng nhào lộn ra ngoài.
Chàng trúng nhằm hai nhát đao của viên Công sai máu tuôn lênh láng.
Tuy đã bị thương nhưng Thừa Chí đã phóng người dậy cản ngang trước mặt viên công sai.
Viên Công sai giận dữ quát:
- Thằng quỷ nhỏ có chịu dang ra chưa?
Thừa Chí trợn mắt:
- Ngươi không buông em gái ta ra, bằng không ta liều sống chết với ngươi.
Viên Công sai cười lớn:
- Vậy là người phải chết!
Hắn khoa đao định chém thêm mấy nhát kết liễu sinh mạng Thừa Chí. Bỗng có tiếng thét lanh lảnh:
- Buông con ta xuống. Ai bảo ngươi tới đây bắt cóc con gái ta.
Trong tiếng thét kèm theo một loạt chỉ sắc bén bắn vùn vụt vào mình viên Công sai.
Hắn hốt hoảng lui lại tránh rồi nói mau:
- Có người bảo tôi tới đây đưa tiểu cô nương về dinh.
- Người nào?
- Đại nhân!
An đại nương sửng sốt lên rồi thét:
- Buông con ta ra...
Nàng vỗ hai tay vào nhau, một viên ám khí liền bắn xẹt vào người viên Công sai làm hắn buông tuột cái khăn, Tiểu Tuệ ngã xuống đất.
Y cảm thấy giữa lưng đau ngấm ngầm, và trong lúc y hơi chậm tay một chút, đơn đao của y đã bị chiếc côn vải cuốn chặt và bị giựt rời khỏi tay y. Hắn nhảy lui về phía sau hai bước, miệng cười xã giao:
- Chồng chị nhờ tôi, tôi phải làm cho được. Thế nào cũng có ngày tôi trở lại đây kiếm chị.
Đại nương lại quật ngang miếng vải vào lưng y, nhưng lần này y đề phòng trước, nên vừa dứt lời, y đã quay mình chạy thẳng xuống núi. Đại nương không đuổi theo, quay lại phía Thừa Chí và Tiểu Tuệ. Thấy con gái mình không việc gì, nàng mới yên tâm, Tiểu Tuệ ngả vào lòng mẹ, khóc lóc. Thấy người và mặt Thừa Chí ướt đẫm những máu, Đại nương vội đưa về rửa và băng bó vết thương cho cậu trai. Cũng may hai vết chém chỉ phớt qua, làm chảy máu nhiều thôi chớ không nặng cho lắm. Sau khi nàng đặt Thừa Chí lên giường ngủ, Tiểu Tuệ mới kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nàng nghe. Nàng nhìn Thừa Chí rồi nghĩ thầm: "Không ngờ nó tuổi nhỏ bé người mà cũng có lòng nghĩa hiệp như vậy! Hiện giờ ta không thể ở lại chốn này được. Thế nào ta cũng phải gây dựng cho nó thành tài mới trả được ơn này."
Nghĩ đoạn, nàng nói với Tiểu Tuệ:
- Con cũng đi ngủ đi, đêm nay còn phải lên đường. Chúng ta dọn đi nơi khác đấy!
Tiểu Tuệ vẫn thường theo mẹ dọn nhà đây đó luôn luôn, nên khi nghe mẹ nói như vậy cũng không ngạc nhiên gì cả, An đại nương thu xếp quần áo, gói làm hai bọc.
Sau khi ba người ăn cơm tối xong, Đại nương thắp nến ngồi chầu một bên hình như nàng có ý chờ đợi người nào đó, nên cửa vẫn thấy để ngỏ.
Tới canh hai, ngoài cửa đó có tiếng chân người đi rất nhẹ. Thoáng một cái, chàng Câm đã tới cửa rồi. Tuy vóc người cao lớn vạm vỡ, nhưng chàng Câm đi rất nhẹ nhàng, không một tiếng động. Như vậy đủ thấy thuật khinh công của chàng tới mức cao siêu.
An đại nương đứng dậy chỉ chỏ ra hiệu, trò chuyện với chàng Câm lúc lâu. Chàng gật đầu tỏ vẽ bằng lòng, Thừa Chí liền hỏi:
- Thôi thúc thúc đã khỏi chưa?
An đại nương trả lời:
- Thôi thúc thúc vô sự rồi, cháu cứ yên tâm. Từ khi cháu tới đây, thím rất thương cháu, coi cháu như con đẻ vậy. Hôm nay cháu lại hăng hái cứu em Tiểu Tuệ nó. Thím không bao giờ quên ơn cháu. Tối hôm nay thím phải đi nơi xa, còn cháu thì theo chú Câm đi.
- Không, cháu đi theo thím cơ!
An đại nương mỉm cười:
- Thím cũng không nỡ xa cháu. Nhưng thím đã nhờ chú Câm đưa cháu đến chỗ sư phụ ký danh của Thôi thúc thúc. Cháu xem, Thôi thúc thúc chỉ học với cụ ấy mấy tháng mà võ nghệ đã xuất sắc đến thế rồi. Cụ ấy võ công thiên hạ vô song, thím muốn cháu theo cụ ấy học võ. Từ xưa tới giờ, cụ ta mới nhận có hai người đồ đệ thôi. Có thể bây giờ cụ ta không muốn nhận đồ đệ nữa, nhưng thấy cháu thông minh và tính nết lương thiện, thím chắc thế nào cụ ấy cũng thương cháu. Chú Câm là người hầu của cụ ta, cho nên thím mới nhờ chú ấy đưa cháu đi và nói giúp hộ cháu. Nếu cụ ta không nhận thì chú Câm sẽ đưa cháu về ở với thím.
Thừa Chí gật đầu bằng lòng. Nàng lại dặn dò thêm:
- Tánh cụ ta lạ lắm. Nếu cháu không nghe lời, tất nhiên cụ ta không nhận, nhưng nếu cháu ngoan ngoãn quá cụ ta sẽ bảo cháu không có cốt khí và cũng không nhận nốt. Vậy phải chờ xem cháu sẽ được may mắn hay không?
Nói đoạn nàng tháo chiếc vòng vàng ở cổ tay ra đeo vào cánh tay Thừa Chí. Cái vòng nọ hơi to, nàng phải bóp nhỏ lại mới đeo vừa. Rồi nàng vừa cười vừa nói:
- Chờ đến khi học thành tài, trở nên người lớn, cháu đừng có quên thím và em nó nhé! Nếu trường hợp cháu được lão tiền bối chịu dạy bảo thì khi nào thím được rảnh, đưa em Tuệ đến thăm cháu nhé!
An đại nương tuy cố gắng giữ cho giọt lệ khỏi rơi, nhưng mắt nàng cũng đã đỏ ngầu rồi. Nàng gượng nói:
- Được rồi! Lúc nào thím cũng nhớ đến cháu, thương cháu!
Nói đoạn, nàng viết thơ cho chàng Câm, rồi một tay sách hai bọc áo một tay dắt Tiểu Tuệ ra đi. Chàng Câm và Thừa Chí theo sau. Ra tới ngoài cửa, mẹ con Tiểu Tuệ đimột ngả, còn chàng Câm và Thừa Chí đi một ngả. Trước khi chia tay mẹ con Tiểu Tuệ và Thừa Chí đều quyến luyến không muốn từ biệt.
Thấy Thừa Chí bị thương và mất máu khá nhiều chắc không thể đi nhanh được, nên chàng Câm cõng cậu lên, thẳng tiến trên con đường núi. Ngày đi tối nghỉ, hai người đi ròng rã mười mấy hôm. Đêm nào cũng không dám vào khách điếm ngủ trọ, chàng Câm và Thừa Chí chỉ vào đền, miếu đổ nát hoặc các hang động nghỉ ngơi thôi.
Ngày nào Thừa Chí cũng ra hiệu hỏi chàng Câm đã tới đích chưa, thì chàng kia lại chỉ về phía trước. Lại đi ba ngày nữa, đường đi bắt đầu đã thấy hiểm trở. Tới một núi nọ, chàng Câm phải dùng cẳng chân để bò lên leo trên đỉnh núi cao chót vót. Vết thương của Thừa Chí đã khỏi hẳn, duy có lông mày bên trái thành một vết sẹo thâm quầng.
Cậu phải ôm chặt cổ chàng Câm. Vì đường núi giốc quá làm một trong hai người trượt chân hoặc buông tay ra là té xuống hố sâu, tan xương nát thịt, chết ngay tức thì, nên hai người càng phải hết sức cẩn thận. Khi bò tới đỉnh núi cao nhất, Thừa Chí trông thấy một miếng đấy rộng và bằng phẳng. Xung quanh có những cây thông cao bao phủ.
Xuyên qua rừng thông, cậu thấy có năm, sáu căn nhà bằng đá, chàng Câm có vẻ hân hoan, tựa như chàng đi xa lâu ngày mới trở về nhà cũ vậy. Chàng dẫn Thừa Chí vào trong Thạch ốc, lấy chổi quét dọn sạch sẽ đâu đấy rồi mới xuống bếp thổi cơm. Ở tới ngày thứ ba, Thừa Chí nóng lòng ra hiệu hỏi chàng Câm, sư phụ ở đâu? Thấy chàng Câm chỉ tay xuống núi, Thừa Chí đòi xuống nhưng chàng Câm lại xua tay lắc đầu. Bất đắc dĩ, cậu đành phải chịu nhẫn nại chờ đợi.
Không trò chuyện được với chàng Câm, cậu bực mình buồn bực vô cùng.
Một đêm nọ, Thừa Chí đang ngủ ngon giấc, bỗng thấy trước mắt sáng choang, vội vàng ngồi dậy. Cậu thấy một ông cụ, tay cầm cây nến đứng cạnh giường, vẻ mặt tươi cười. Thừa Chí, phúc chí tâm linh, vội nhảy xuống đất quỳ lạy ông cụ bốn lạy, và thưa rằng:
- Bạch sư phụ mới về, đệ tử Viên Thừa Chí xin kính lạy ra mắt sư phụ.
Ông cụ nọ cả cười, nói:
- Thằng nhỏ này, ai đã nhận dạy mà mà dám gọi ta sư phụ? Tại sao mầy đoán được thế nào tao cũng nhận mày làm đồ đệ?
Nghe giọng nói, Thừa Chí biết ông ta đã bằng lòng rồi, liền vui vẻ đáp:
- Dạ, bạch sư phụ, thím Anh chỉ bảo dùm con đấy ạ.
- Nàng chỉ hay làm phiền ta. Thôi được, ta nể người cha đã khuất của con, mà nhận con làm đồ đệ vậy!
Thừa Chí định sụp xuống lạy, nhưng ông cụ vội cản lại:
- Thôi đủ rồi, ngày mai sẽ nói chuyện.
Sáng sớm ngày hôm sau, mặt trời chưa mọc, Thừa Chí đã dậy rồi. Chàng Câm hình như đoán biết ông cụ đã chấp nhận Thừa Chí làm đồ đệ cho nên chàng mừng quá, bồng Thừa Chí ném lên trên không rồi lại đỡ lấy vừa ném vừa đỡ như vậy đến bốn, năm lần. Nghe thấy tiếng cười đùa của Thừa Chí, ông cụ ở trong nhà bước ra, vừa cười vừa nói:
- Được lắm, con mới có bấy nhiêu tuổi đầu, mà đã biết hành hiệp trượng nghĩa, cứu đàn bà trẻ con. Con có bản lĩnh gì, hãy giở ra cho ta coi nào.
Thấy ông cụ nói như vậy, Thừa Chí xấu hổ, mặt mũi đỏ gay. Ông cụ nói tiếp:
- Con không trổ tài cho ta xem, thì ta biết thế nào mà dạy con bây giờ!
Thừa Chí biết sư phụ không nói đùa với mình, liền dỡ thế võ "Phục Hổ chưởng" của Thôi Thu Sơn truyền cho. Từng đường, tường miếng một đánh từ đầu tới cuối. Ông cụ vừa xem vừa mỉm cười chờ cậu đánh xong, mới nói:
- Thu Sơn cứ khen con thông minh, lúc đầu ta còn chưa tin, nay mới thấy rõ, hẳn chỉ dạy con có mấy ngày, mà đã thành tựu như vậy, quả thật là khá lắm!
Thấy nói đến Thôi Thu Sơn, Thừa Chí chờ ông cụ nói xong, liền tiếp lời hỏi ngay:
- Bẩm sư phụ, Thôi thúc thúc hiện giờ ở đâu? Và đã mạnh chưa ạ?
- Hắn đã hoàn toàn vô sự. Và trở về nơi Lý tướng quân tiếp tục chiến đấu rồi.
Thừa Chí thấy thầy nói như vậy, hớn hở vô cùng. Lúc ấy, chàng Câm đã bày xong hương án. Ông cụ lấy ra một bức tranh có vẽ hình một vị nho sinh rồi thắp hương nến cung kính quỳ lạy, đoạn nói với Thừa Chí rằng:
- Đây là Từ tổ sư Khai Sơn của phái Hoa Sơn chúng ta, con lại đây quỳ lạy đi.
Thừa Chí nghe lời, sụp xuống quỳ lạy, nhưng cậu không biết lạy bao nhiêu cái mới phải, trong lòng nghĩ thầm: "Chắc càng lạy nhiều càng hay," rồi cậu cứ lạy lia lịa.
Ông cụ phải phì cười bảo thôi. Ông cụ vừa dứt tiếng cười, đang định nói thì Thừa Chí vội quay lại, lạy ông cụ mấy lạy, coi như đã là chánh thức bái sư. Ông cụ mỉm cười nhận lễ:
- Từ nay con là đệ tử chính thức của phái Hoa Sơn chúng ta rồi. Từ trước tới giờ ta mới thu nhận chỉ hai đồ đệ. Đã mười mấy năm nay, vì chưa gặp đứa trò nào thông minh, chịu khó, nên ta chẳng nhận thêm ai cả. Con là đệ tử thứ ba của thầy và cũng là đồ đệ chót, vậy con phải chăm chỉ học tập đừng để cho người ta chê cười mỉa mai.
Thừa Chí cúi đầu xin vâng. Ông cụ lại nói tiếp:
- Ta họ Mộc, các bạn giang hồ gọi ta là Bát Thủ Tiên Viên (Vượn tiên tám tay). Con phải ghi nhớ, kẻo có người ta hỏi đến tên thầy, con lại ú ớ không biết trả lời ra sao.
Thừa Chí không nhịn được phải phì cười. Cậu ta nghĩ thầm: "An đại nương bảo tánh nết ông ta rất kỳ lạ, mình cứ nơm nớp lo sợ mãi. Ngờ đâu thầy ta dễ dãi, ưa khôi hài đến thế!"
Võ nghệ của Bát Thủ Tiên Viên cao siêu vô cùng. Trong 20 năm nay, ông tung hoành trên chốn giang hồ và chưa hề gặp người địch thủ. Vì ông ta không hay can thiệp vào việc người nên ít người biết tới tên tuổi. Thật tình tánh nết ông ta rất kỳ lạ và khó khăn lắm. Lần này, chỉ vì thương hại Thừa Chí côi cút tội nghiệp và thêm điều tôn kính cha cậu là một vị trung thần hết lòng vì nước lại chết oan, nên ông ta mới đoái hoài tới, rồi thấy Thừa Chí là người thông minh hoạt bát nên ông ta mới trò chuyện vui vẻ như thế. Mục Nhân Thanh lại nói:
- Hai sư huynh của con hơn con những 20, 30 tuổi, ngay như đồ đệ của họ cũng còn lớn hơn con nữa là khác. Có lẽ họ sẽ trách móc ta tới giờ phút này còn nhận thêm đứa con nít làm đồ đệ. Hà! Hà! Nếu con không chịu khó luyện tập, sau này bị thua cả đồ đệ, đồ tôn của chúng, thì họ càng có lý do bảo thầy là già nua lẩm cẩm đấy!
- Con xin hết sức chăm chỉ luyện tập. à, thưa sư phụ, Thôi thúc thúc có phải là sư huynh của con không?
- Nó đi theo Lý tướng quân luôn luôn bận việc binh đao không có thì giờ học tập nên ta chỉ dạy cho có một thế võ "Phục Hổ chưởng" thôi chớ nó không phải là đồ đệ chính thức của ta.
Nói đoạn Mục Nhân Thanh chỉ vào chàng Câm đoạn nói tiếp:
- Như chàng Câm kia chẳng hạn, hằng ngày xem ta dạy võ, nó cũng võ vẽ vài miếng. Nhưng nếu đem so sánh với hai sư huynh con thì thật một trời một vực, nó còn kém lắm.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Chàng Câm hai lần ra tay ném bọn công sai, thân thủ lanh lẹ vô cùng. Nhưng sư phụ bảo hai vị sư huynh còn giỏi hơn y không biết bao nhiêu lần. Vậy nếu ta chịu khó học tập, dù không bằng hai vị sư huynh, nhưng bằng được chàng Câm, ta cũng sung sướng và an ủi lắm rồi."
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Phái Hoa Sơn chúng ta có rất nhiều giới điều chẳng hạn như: giới dâm, giới sĩ (ra làm quan), giới bảo tiêu, vân vân. Bây giờ dù có nói ra, con cũng không thể nào nhớ hết được. Ta chỉ cần dặn con hai câu này: Thứ nhất phải nghe lời sư phụ. Thứ hai đừng có làm bậy. Con hiểu không?
- Con xin vâng lời thầy, không bao giờ dám làm bậy.
- Thôi được, bây giờ chúng ta bắt đầu luyện võ. Vì thời gian gấp rút, Thôi thúc thúc đã dạy con hết thế võ Phục Hổ chưởng nhưng thế Chưởng pháp đó thần diệu khôn lường. Tuổi con còn nhỏ dù có học hiểu hết cũng không thể sử dụng như ý muốn được. Nay ta hãy dạy con thế "Trường quyền Thập Đoạn Cầm" trước đã.
- Thưa thầy, thế võ này Ngụy thúc thúc đã dạy con rồi ạ.
- Thế võ con học của Ngụy thúc thúc vừa múa cho thấy xem còn nhiều chỗ sai lầm lắm. Nếu con thật hiểu hết sự tinh vi của thế "Trường quyền Thập Đoạn Cầm" thì trên chốn giang hồ sẽ ít có người địch nổi con.
Nghe lời sư phụ dạy bảo, Thừa Chí không dám cãi lại, chỉ vâng vâng dạ dạ thôi.
Mục Nhân Thanh đem thế võ "Thập Đoạn Cầm" ra biểu diễn cho Thừa Chí xem.
Cậu thấy các đường quyền giống hệt Ngụy Hạo dạy hồi nọ. Cậu nghĩ thầm: "Thế này thì có gì đặc biệt đâu?"
Cậu đang nghi ngờ thì Mục Nhân Thanh lại nói:
- Chắc con tưởng sư phụ nói dối phải không? Bây giờ con thử lại đây xem con có thể nắm được áo của ta không? Con chỉ cần đụn vào vạt áo của ta, ta cũng cho con là tài ba lắm rồi.
Thừa Chí tưởng phải đối địch với sư phụ nê không dám, cứ đứng yên, nhe răng cười. Mục Nhân Thanh liền thúc giục:
- Con cứ lại đi! Như thế cũng như ta dạy con luyện võ đấy mà!
Thấy nói là dạy võ, Thừa Chí liền xông ngay lại, giơ tay định nắm lấy tà áo của Nhân Thanh. Nhưng tay cậu vừa sắp trờ tới thì tà áo đó bỗng rụt lạ, chỉ cách xa đầu ngón tay Thừa Chí độ hai, ba tấc thôi. Thấy vậy, cậy tiến lên một bước đủ vừa nắm lấytà áo. Ngờ đâu, cậu chẳng thấy sư phụ đâu nữa, chỉ thấy có tay người vỗ sau gáy cậu một cái, và có tiếng gọi: "Ta ở đây mà!"
Thừa Chí quay mình định hai tay ôm choàng lấy sư phụ ngờ đâu ông ta đã biến mất. Cậu vội quay lại thấy sư phụ đứng cách xa tới hai, ba trượng. Tính hiếu thắng của trẻ con thúc đẩy, cậu nghĩ thầm: "Thế nào ta cũng phải bắt cho được mới thôi!"
Nghĩ đoạn, cậu nhảy xổ lại nắm lấy tay áo của sư phụ. Mục Nhân Thanh chỉ phẩy ta áo một cái, ông ta nhảy ra tận đằng xa rồi, Thừa Chí vừa cười vừa đuổi theo. Đang lúc đó cậu thấy chàng Câm chỉ tay ra hiệu, bảo cậu nên chú ý. Thừa Chí sực nghĩ: "Quả nhiên sư phụ dùng thân pháp trong thế võ Thập Đoạn Cầm thôi, nhưng tại sao ông ta lại nhanh nhẹn đến thế?"
Nghĩ đoạn, cậu vừa đuổi vừa ghi nhớ lối sử dụng thân pháp của sư phụ. Cậu vốn dĩ đã thuần thục thế võ "Thập Đoạn Cầm" nhưng vì Mục Nhân Thanh tiến thoái lẩn tránh nhanh nhẹnh quá và trong lúc vận dụng thế võ, lại khôn khéo vô cùng. Thừa Chí thông minh lạ thường, một mặt đuổi bắt, một mặt nhớ kỹ thân phá của sư phụ. Sau cùng, cậu vừa đuổi vừa vận dụng thân pháp một cách khôn khéo, quả nhiên thấy nhanh nhẹn gấp trước mấy lần. Mục Nhân Thanh thầm gật đầu khen thầm: "Thằng bé này thông minh đấy!"
Lúc ấy Thừa Chí đuổi càng nhanh bao nhiêu, Mục Nhân Thanh càng tránh lẹ bấy nhiêu. Hai người chạy đuổi càng ngày càng nhanh, đến nỗi chỉ thấy có hai cái bóng người bay múa đó đây.
Bỗng thấy Mục Nhân Thanh cất tiếng cười ồ, rồi ôm lấy Thừa Chí, vừa cười vừa nói:
- Đồ đệ tài giỏi, đứa trẻ ngoan ngoãn đáng yêu của thầy!
Thừa Chí thấy trong "Thập Đoạn Cầm" có nhiều miếng huyền ảo như vậy trong lòng hớn hở vô cùng.
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Thôi bấy nhiêu cũng đủ cho con tập luyện rồi.
Nói xong, ông ta đặt Thừa Chí xuống đất dặn tiểu đồ đệ hãy ở lại luyện tập thêm vài lần nữa rồi đi vào gia trang.
Thừa Chí luyện tập từ đầu chí cuối, lại tập thêm hơn mười lần nữa. Ngoài những thân pháp của sư phụ mà cậu học được, cậu còn biến chế thêm vài mánh lới riêng biệt nữa.
Tối hôm đó, cậu sung sướng quá, chỉ gãi đầu gãi tai, trằn trọc suốt đêm không sao ngủ được. Đến khi mệt quá thiếp đi cậu vẫn nghĩ tới sự luyện võ trong giấc mơ.
Vừa tảng sáng, sợ quên những miếng võ hôm qua đã học được cậu vội ra ngay sân ôn luyện lại, càng tập càng thêm hăng hái. Bỗng nghe phía sau có tiếng ho, cậu quay lại, trông thấy sư phụ miệng mỉm cười đang đứng tại đó. Cậu vội cúi đầu chào:
- Đệ tử kính chào sư phụ.
- Mấy miếng võ của con vừa chế biến ra kể cũng khá đấy. Ngay như miếng con vừa đánh xong cũng đã nhanh lắm, nhưng hạ bộ vẫn còn nhiều chỗ sơ hở. Nếu kẻ địch là người giỏi võ, họ chỉ giơ chân ra móc một cái là con bị nguy hiểm ngay. Cho nên con phải đánh như thế này.
Nói đoạn, Mục Nhân Thanh liền đứng vào địa vị kẻ địch, vừa tấn công vừa chỉ dẫn vào những yếu điểm. Chỉ dặn qua một lần, Thừa Chí đã hiểu ngay. Ngày hôm đó, cậu lại học thêm được vài miếng võ tuyệt xảo.
Ở trên Hoa Sơn luyện tập, thấm thoát đã ba năm. Năm đó Thừa Chí được 12 tuổi.
Vì luyện võ từ thuở nhỏ nên thân thể cậu chóng nở nang hơn người. Thỉnh thoảng Mục Nhân Thanh có việc phải xuống núi. Hễ đi cỡ hai, ba tháng ông ta mới về. Trước khi đi, thế nào ông ta cũng dạy Thừa Chí một vài quyền pháp, để khi về, bảo cậu luyện lại cho ông xem. Lần nào cậu cũng thành thạo những quyền pháp mới học được.
Tết Đoan Ngọ năm nọ, sau khi uống rượu Hồng Hoàng xong, bỗng nhiên Mục Nhân Thanh đem bức họa của sư gia ra treo. Ông ta quỳ lạy xong, gọi Thừa Chí lạy, rồi nói với cậu rằng:
- Con có biết tại sao hôm nay thầy bảo con lạy Tổ sư gia không?
- Thưa thầy con không biết ạ.
Mục Nhân Thanh vào gian trong bưng một hộp gỗ hình dài ra đặt hương án, rồi mở nắp ra, chỉ thấy ánh sáng loè mắt, một bảo kiếm dài ba thước nằm trong đó. Thừa Chí trống ngực đập thình thịch, miệng run run hỏi:
- Sư phụ dạy con học kiếm phải không?
Mục Nhân Thanh gật đầu, lấy thanh bảo kiếm ra, vẻ mặt nghiêm trang, bảo Thừa Chí:
- Con quỳ xuống, nghe lời thầy dạy!
Thừa Chí vội vàng quỳ xuống. Ông ta nói tiếp:
- Kiếm là tổ của trăm thứ khí giới, rất khó học. Con thông minh lại hiểu biết chóng, thế nào cũng học được thành tài. Nhưng kiếm pháp của phái Hoa Sơn chúng ta, từ các đời tổ sư truyền xuống, ai nấy đều nhờ ở trí tuệ thông minh của mình mà sáng kiến thêm, nên mỗi đời mỗi tinh xảo hơn. Các phái võ công khác, sư phụ họ thường hay giữ lại một vài miếng bí quyết để hộ thân, không dạy hết cho đồ đệ, nên các phái đó một đời một tàn lụinhư vậy, để tránh điều đó nên lúc chọn đồ đệ để truyền dạy võ nghệ rất là nghiêm ngặt. Khi đã tuyển chọn xong rồi là sư phụ phải dốc túi dạy hết. Vì vậy, môn kiếm pháp này, đời nào trò cũng giỏi hơn thầy. Kiếm pháp của ta khó học vô cùng và cũng ác hiểm hơn các kiếm pháp khác. Nếu con chịu khó luyện tập thành tài, sẽ trở nên một kiếm sĩ thiên hạ vô địch thủ ngay. Trước khi dạy con kiếm pháp, thầy buộc con phải thề độc không được tàn sát một người oan uổng cả.
Thừa Chí nhanh miệng thề luôn.
- Được rồi con đứng lên đi!
Thừa Chí đứng dậy, ông ta lại nói tiếp:
- Thầy biết con tâm địa nhân từ, chắc không bao giờ con giết bừa những người hiền lành đâu. Nhưng giữa những thị phi, cũng có khi khó phân biệt phải trái. Quý hồ con đặt lòng từ thiện trên hết, thì không bao giờ giết nhầm đâu. Điều này con nên nhớ kỹ!
Thừa Chí gật đầu vâng lời. Mục Nhân Thanh tay trái nắm kiếm quyết, tay phải giơ bảo kiếm lên. Thật là "Đường kiếm như Rồng bay Phụng múa, lóe hào quang tựa ánh sáng mặt Trời."
Một kiếm pháp thiên hạ vô song bắt đầu phát động.

Hồi 4

Dưới ánh mặt trời, trường kiếm lại càng lóng lánh chói lọi. Trong lúc múa kiếm, chỉ thấy luồng bạch khí lăn đi lộn lại. Thừa Chí theo sư phụ học kiếm trong ba năm liền tài ba đã khác xưa nhiều. Nhưng mỗi khi Mục Nhân Thanh múa kiếm tới lúc thật nhanh, cậu vẫn không sao nhận rõ bộ pháp và thân pháp của sư phụ như thế nào, chỉ thấy một luồng gió hoặc như một tòa núi vậy thôi.
Múa tới miếng sau cùng bỗng nghe thấy Nhân Thanh hét lên một tiếng thanh kiếm rời khỏi tay như một tia chớp đã cắm ngập hai phần ba vào thân một cây cổ thụ cách đó hơn trượng, thấy sức lực của sư phụ mạnh lạ lùng, Thừa Chí kinh ngạc, há hốc mồm và ngẩn người ra. Bỗng nhiên nghe thấy sau lưng có tiếng người la lớn: "Giỏi lắm," cậu ngạc nhiên vì ở trên núi mấy năm nay, ngoài tiếng của sư phụ ra, không bao giờ họ nghe thấy tiếng nói của người thứ hai. Cậu quay đầu lại, thấy một đạo nhân đang vuốt râu, mỉm cười.
Đạo nhân đó mặc áo đạo bào màu vàng, sắc mặt hồng hào, tóc nhắm như sợi bạc.
- Mười mấy năm nay không thấy chú dùng kiếm, không ngờ bây giờ chú lại tiến bộ đến thế.
Nhân Thanh cả cười, trả lời:
- Kìa, Mộc Tang đạo huynh! Không hiểu cơn gió nào đã thổi đạo huynh tới nơi đây thế! Thừa Chí, con mau ra lạy chào đạo trưởng đi.
Nghe lời thầy, Thừa Chí chạy nhanh lại quỳ xuống lạy. Mộc Tăng đại nhân cười nói:
- Thôi không dám.
Rồi đưa tay đỡ Thừa Chí dậy. Phàm người học võ, hễ gặp ngoại lực áp bức, tự nhiên phản công lại ngay. Thấy Mộc Tang đạo nhân kéo mình mạnh quá, dĩ nhiên Thừa Chí phải dùng hai tay bị nắm kéo dằn lại. Chỉ có thế, Mộc Tang đạo nhân đã thử được tài nghệ cậu ta ra sao rồi. Thử xong, đạo nhân vừa cười vừa nói với Mục Nhân Thanh:
- Lão Mộc đã mấy năm nay không gặp chú, tưởng chú đi chu du tận đâu đâu, thì ra chú ẩn nấp ở đây lén lút dạy võ cho đồ đệ. Kể ra số của chú cũng may mắn lắm đấy! Sắp chết đến nơi mà còn kiếm được một nhân tài như vậy!
Hai người vẫn thường nói bông đùa nhau quen rồi, nay thấy bạn khen đồ đệ mình, Mục Nhân Thanh có vẻ khoái chí, tự đắc lắm.
Mộc Tang đạo nhân lại nói:
- Ối chà! Hôm nay bác không sẵn tiền để tặng "lì xì" cho cháu. Nhưng bây giờ đã trót nhận mấy cái vái của cháu rồi, biết làm thế nào bây giờ?
Nghe thấy đạo nhân nói vậy, Mục Nhân Thanh xúc động linh cơ nghĩ thầm: "Lão quỷ đạo nhân này tài ba độc đáo, chốn giang hồ phải tặng anh ta biệt hiệu là Quỷ Ảnh Tử (cái bóng ma). Nếu y bằng lòng dạy cho Thừa Chí một vài đường, kể cũng hân hạnh cho nó lắm rồi. Nhưng vốn dĩ y không chịu thâu nhận đồ đệ, ta phải nghĩ cách nói khích thì y mới chịu dạy."
Nghĩ đoạn, Nhân Thanh nói liền:
- Thừa Chí, đạo trưởng đã nhận lời chỉ bảo cho con, vậy con mau mau quỳ lạy tạ ơn đi!
Thừa Chí thông minh vô cùng, thấy sư phụ vừa nói dứt lời liền quỳ xuống vái lạy.
Mộc Tang đạo nhân lớn tiếng cười ha hả:
- Thôi! Thôi! Thôi! Ta chịu thầy trò ngươi rồi. Thầy nào trò nấy có khác! Sư phụ không biết xấu hổ, mà đồ đệ cũng chả ra cái quái gì! Này, bé con, cháu hãy nghe ta nói, cháu nên làm người chân chánh thì hơn, đừng học cái trò mặt dày như sư phụ cháu. Chưa biết ta định cho cháu cái gì, sư phụ cháu đã đòi ta dạy võ cho cháu ngay! Thôi được, ta đã nhận lời thì đây, ta cho cháu cái này vậy.
Nói xong, Mộc Tang đạo nhân móc túi vải đeo sau lưng, lấy ra một chiếc áo cánh đen thui thủi và nặng chình chịch đưa cho Thừa Chí.
- "Áo đó không phải bằng tơ hay lụa, không hiểu làm bằng cái quái gì nhỉ?"
Cậu đang ngẫm nghĩ thì Mục Nhân Thanh đã nói ngay:
- Đạo huynh đừng đùa giỡn trẻ con nữa! Vật quý báu như thế, cho nó sao được!
Thấy sư phụ nói như vậy, Thừa Chí mới biết cái áo cánh đó là một bảo vật kỳ lạ, liền trao trả cho Mộc Tang đạo nhân. Lão đạo sĩ xua tay nói:
- Ta có hạ tiện như sư phụ cháu đâu. Ta đã cho là cho, cháu cứ ngoan ngoãn nhận lấy mà dùng.
Thừa Chí chưa dám nhận, nhìn sư phụ như thầm hỏi ý kiến. Mục Nhân Thanh liền nghiêm trang nói:
- Nếu vậy con tạ ơn đạo trưởng đi!
Thừa Chí được lệnh của sư phụ, liền nói mấy lời cảm tạ lão sư. Mục Nhân Thanh lại nói tiếp:
- Cái áo này đạo trưởng đã tốn biết bao tâm huyết và phải thập tử nhất sinh mới lấy được báu vật ấy để hộ thân, vậy con mặc luôn áo vào đi.
Cậu nghe lời, mặc ngay cái áo cánh đó vào người. Mục Nhân Thanh nhảy tới cạnh cây cổ thụ, dùng hai ngón tay khẽ gắp thanh kiếm ngập sâu ở thân cây ra, rồi nói tiếp:
- Cái áo này đan bằng sợi bạch kim lẫn với tóc và lông của con vượn lông vàng. Bất cứ khí giới nào, dù sắc bén đến đâu, cũng không thể đâm thủng nó được.
Vừa nói dứt lời, ông ta đâm ngay một mũi kiếm vào vai đồ đệ. Nhát kiếm đó nhanh như chớp nhoáng, Thừa Chí không sao tránh kịp, vừa giật mình thì mũi kiếm đã trúng ngay vào vai cậu.
Nhưng nhờ có chiếc áo đó che chở, thanh kiếm bị bật trở lại và cậu không hề bị thương mảy may. Mừng quá, cậu quỳ ngay xuống vái lạy Mộc Tang đạo nhân.
Đạo nhân vừa cười vừa nói:
- Lúc đầu, nhìn thấy cái áo xấu xí, dù cháu có cảm ơn ta, nhưng trong lòng chắc không ưng tí nào cả. Đến bây giờ cháu mới bằng lòng thật sự phải không?
Thừa Chí xấu hổ, đến nỗi đỏ mặt tía tai. Mộc Tang đạo nhân lại nói:
- Cái áo này đã cứu bác mấy lần khỏi chết. Nhưng bây giờ, nếu sư phụ cháu không làm khó dễ bác, thì cũng không cần phải mặc cái của quý này làm gì nữa. Vì xét trong thiên hạ hiện nay chưa thấy ai có thể đánh nổi bác bị thương được.
Nói xong, đạo nhân lớn tiếng cười ha hả, có vẻ tự phụ.
Mục Nhân Thanh vừa cười vừa nói:
- Lão đạo sĩ, ở trước mặt tiểu bối đừng nên nói khoác nói lác nhé! Võ nghệ của tôi có được bằng lão huynh đâu? Vả lại đời này thiếu gì người giỏi! Phải biết, ngoài từng trời này lại có từng trời khác, mình giỏi có người giỏi hơn...
Mộc Tang mỉm cười trả lời:
- Lại đây! Lại đây! Anh em ta không tiện giở dao giở kiếm ra đối địch, chi bằng...
- Chi bằng phân thắng bại trên bàn cờ phải không?
- Đúng lắm! Đúng lắm! Chú là con sâu nằm trong bụng tôi có khác!
- Nếu lão huynh chưa phải lúc lên cơn nghiện đánh cờ chắc cũng chưa thèm đến nơi thâm sơn này kiếm đệ phải không. Thế cái trò cúng cơm ấy lão huynh có đem theo không?
Mộc Tang đạo nhân hớn hở, móc túi vải lấy đủ bộ, cả bàn lẫn quân cờ ra. Chàng Câm vội khiêng bàn ghế ra vườn. Hai đạo sĩ cùng ngồi dưới bóng cây phân tài cao hạ.
Vì Thừa Chí không hiểu chơi cờ ra sao cả, nên vừa đánh, Mộc Tang vừa dạy cậu, đồng thời, ông ta muốn khoe khoang nước cờ của mình cao hơn Mục Nhân Thanh. Mặc cho Mộc Tang nói dóc, Nhân Thanh cứ lẳng lặng nghĩ nước đi. Cờ hai vị đang chơi là cờ vây, dễ biết đi mà khó tinh xảo, chỉ xem một ván là Thừa Chí biết đi ngay. Quả nhiên, ván đầu Mộc Tang thắng hai quân cờ. Hai người đánh cho tới mặt trời lặn mới xong ba ván. Rút cuộc Mộc Tang thắng hai thua một mà vẫn đòi đánh nữa, nhưng Nhân Thanh từ chối vì mỏi mệt, nên ông ta mới chịu thôi. Tuy vậy trong lòng ông ta vẫn còn luyến tiếc.
Trong ba ngày liền, Mộc Tang đạo nhân cứ níu lấy Nhân Thanh đòi đánh cờ. Sáng sớm ngày thứ tư, Mục Nhân Thanh phải nói trước rằng:
- Ngày hôm nay, xin tạm nghỉ đánh cờ, để đệ còn phải dạy kiếm pháp cho đồ đệ.
Thấy là công việc chánh đáng, nên Mộc Tang không tiện phản đối. Ngồi chờ mãi sốt ruột vừa mới thấy Nhân Thanh truyền kiếm pháp cho Thừa Chí xong, ông ta chạy ngay lại vừa kéo Nhân Thanh vừa nói:
- Nào, lại đây! Chúng ta đánh ba ván.
Dạy kiếm ngót nửa ngày, Mục Nhân Thanh đã cảm thấy mỏi mệt rồi. Nhưng biết Mộc Tang nghiện cờ lắm, nếu ông ta không nhận lời đánh vài ván thì Mộc Tang ngủ không yên. Vì miễn cưỡng ngồi đánh, nước cờ của Nhân Thanh càng thấp kém vô cùng. Đi được mười nước, giàn trận chưa xong, quân cờ của ông ta đã bị bao vây tứ phía rồi. Nước cờ đã lâm và ngõ bí, ông ta phải miễn cưỡng đặt quân cờ của mình làm mắt để mong gỡ thoát, nhưng tứ phía yếu điểm đều sắp bị đối phưong chiếm cả. Ông ta tay cầm quân cờ, ngẫm nghĩ mãi vẫn do dự, chưa dám đặt xuống. Thừa Chí đứng cạnh xem, nhịn không nổi liền mách nước:
- Sư phụ đặt quân cờ ấy xuống đây, thế nào sư bá cũng tìm nước gỡ rồi sư phụ lại đặt nốt quân kia ở chỗ này, phải sẽ thoát khỏi vòng vây không?
Nước cờ Thừa Chí vừa mách quả thật thần diệu vô cùng. Nhân Thanh vốn không có tánh tự phụ như Mộc Tang, thấy đồ đệ nói phải nghe liền. Quả nhiên bên quân đen xông ra khỏi vòng vây và trái lại còn hãm chết một số quân cờ trắng. Đáng lẽ ván cờđó Nhân Thanh phải đại bại, nhưng nhờ có Thừa Chí mách nước, kết cuộc có thua ba quân cờ thôi.
Mộc Tang khen ngợi Thừa Chí thông minh và khôn ngoan, rồi chấp sáu quân, ép cậu ta ngồi đánh một ván. Hình như Thừa Chí có thiên tài về đánh cờ vậy. Tánh cậu lại hiếu thắng chớ không nhường nhịn như Nhân Thanh. Vì vậy ván cờ đó, tuy Mộc Tang thắng nhưng không dễ dàng như đạo nhân tưởng. Ngày hôm sau mới tảng sáng, Mộc Tang đã bắt Thừa Chí đánh cờ, nhưng không ngờ cậu bé thắng hai ván liền. Thế rồi từ chấp 6 quân cờ rút xuống chấp 5 và chưa đầy 10 ngày, nước cờ của Thừa Chí đã cao lắm. Mộc Tang chỉ dám chấp một quân, hai bên mới có thắng bại.
Thừa Chí để tâm trí vào cờ dần dần xao lãng học tập võ nghệ. Vì nể Mộc Tang nên lúc đầu Nhân Thanh không nói gì cả. Sau thấy một già một trẻ, suốt ngày quên ăn quên ngủ cứ mải mê đánh cờ, nên ông phải dặn ngầm Thừa Chí mỗi ngày chỉ được phép đánh một ván cờ với Mộc Tang thôi, còn thời giờ phải dành cho việc luyện tập võ nghệ. Thấy sư phụ nhắc nhở, Thừa Chí cũng bỏ phí mất mười mấy ngày không tập tành gì cả, nên cậu cũng tự xấu hổ vô cùng. Sau đó hai ngày liền, hễ Mộc Tang gọi đánh cờ thì Thừa Chí thoái thác còn bận việc tập luyện kiếm thuật, không có thời giờ rỗi rãi.
Mộc Tang nói:
- Cháu cứ đánh cờ với bác đi! Đánh xong, bác sẽ dạy cháu một thế võ này, thế nào sư phụ cháu cũng hài lòng.
- Vâng, xin phép bác cho cháu hỏi qua sư phụ cháu đã.
- Được, cháu cứ đi hỏi đi.
Thừa Chí liền chạy ra hỏi ý kiến sư phụ, Nhân Thanh mừng lắm, vì hiểu rõ Mộc Tang đạo nhân, được mệnh danh là "Quỷ Ảnh Tử", võ nghệ biệt lập một phái, nhưng tánh nết rất cổ quái, không chịu thu nhận đồ đệ, nay ông ta bằng lòng dạy võ cho Thừa Chí, chắc cũng vì sự nghiệp cờ quá mà nên, Nhân Thanh liền dẫn cậu tới trước mặt Mộc Tang, cúi chào và nói rằng:
- Đại huynh đã vui lòng đã giúp cho tiểu đồ thành tài, đệ xin cám ơn trước.
Nói đoạn, ông ta gọi Thừa Chí cúi lạy Mộc Tang, làm lễ bái sư. Thấy vậy, Mộc Tang nhảy lên hai tay xua lia lịa và nói rằng:
- Tôi không nhận đồ đệ đâu. Nếu cháu nó muốn tôi dạy nó thì phải thử tài xem nó có hạ tôi được không đã.
- Đại huynh nói nó hạ thì hạ về môn gì cơ chứ?
- Quyền pháp và kiếm pháp của chú trong thiên hạ đã khét tiếng là một không hai rồi, ngay như lão đây cũng xin bái phục. Thằng bé này tuy chỉ học được hai, ba phần của chú, nhưng ở chốn giang hồ cũng khó gặp người địch thủ rồi, nhưng nói tới ám khí và khinh công thì phải nhường cho lão đạo này đôi chút.
- Vâng, ai mà chẳng biết bản lãnh xuất quỷ nhập thần của Quỷ Ành Tử, cái đó không cần huynh phải tự khen nữa.
- Chú cứ tưởng đã là môn phái tôn sư thì cái gì cũng cần phải quang minh chính đại, còn khinh công và ám khí thì không cần để ý tới! Nếu vậy chú cứ để cho cháu nó mỗi ngày đánh với tôi hai ván cờ. Nếu tôi thắng nó thì thôi, nhược bằng nó thắng tôi một ván, tôi sẽ dạy nó một món khinh công. Nó được tôi liền hai ván, thì ngoài mónkhinh công, tôi còn dạy thêm nó một môn ám khí nữa. Chú xem như vậy có công bằng không?
Nhân Thanh nghĩ thầm: "Lão đạo sĩ này cũng ưa châm biếm hài hước thật! Nhưng cứ biết, y đã nói thì không khi nào thay đổi/"
Nghĩ đoạn, Nhân Thanh nói:
- Được. Xin cứ theo những lời huynh mà thi hành. Chính ra tôi không sợ Thừa Chí mải đánh cờ mà lỡ hết sự tập luyện võ nghệ. Nhưng bây giờ đã có dịp như vậy thì mỗi ngày huynh muốn đánh mười ván hay tám ván cũng mặc.
Mộc Tang và Thừa Chí nghe nói đều hớn hở vô cùng. Tiếp theo đó, hai người lại ngồi vào đánh cờ. Ngày hôm đó Mộc Tang một thắng một bại. Đánh cờ xong, ông liền bảo Thừa Chí rằng:
- Hôm nay bác dạy cháu một kiểu khinh công. Tuy chỉ là một kiểu, nhưng nếu cháu chịu khó luyện tập, cũng đủ cho cháu dùng suốt đời. Đây cháu hãy nhìn kỹ xem!
Vừa nói xong, mới thấy ông ta nhún mình một cái đã ngồi vắt vẻo trên ngọn cây rồi và lộn ngược một vòng ông ta đã đứng trước mặt Thừa Chí. Cậu bé ngẩn người há hốc miệng vỗ tay khen giỏi. Mộc Tang đem kiểu khinh công "Phân Vân Thừa Long" (vịn mây cỡi rồng) dạy cho cậu. Tuy chỉ là một kiểu nhưng sức mạnh của lưng và đùi bộ pháp và thân pháp, đều rất tinh xảo ủy diệu.
Ngày thứ hai, Thừa Chí thua liền hai ván, hôm đó cậu không được học một môn võ nào cả.
Ngày thứ ba, cậu phải xuất kỳ binh bố hết biên giới chiếm hết phúc địa ở trung ương quả nhiên thắng liền hai ván. Mộc Tang không chịu phục đòi đánh hai ván nữa, kết cuộc một thắng một bại, thế là hôm đó Mộc Tang phải dạy cho Thừa Chí ba miếng.
Sau đã dạy xong hai kiểu khinh công, Mộc Tang hỏi:
- Cháu có biết, khi đánh với kẻ địch, bác dùng binh khí gì không?
Thừa Chí lắc đầu, Mộc Tang vừa cười vừa cầm bàn cờ lên, nói rằng:
- Tức là cái này.
Thừa Chí cũng biết bàn cờ đó làm bằng thép, nhưng không ngờ lại là khí giới hộ thân của ông ta. Mộc Tang vốc một nắm quân cờ vừa cười vừa nói:
- Đây là ám khí của ta.
Thuận tay, ông ta tung lên một cái, mấy chục quân cờ đều bay lên trời.
Mộc Tang đạo nhân đưa bàn cờ ra hứng, chỉ nghe thấy "coong" một tiếng thật lớn, mấy chục quân cờ đều rơi xuống giữa bàn cờ. Thừa Chí chịu phục, đều nổi lè lưỡi ra hồi lâu mà không sao nói được nửa lời. Thì ra mấy chục quân cờ ném lên trên không, lúc xuống thì nào cũng quân trước quân sau, và tiếng động phải là "kinh kinh coong coong" loạn xạ một hồi, chớ không như vừa rồi mấy chục quân cùng rơi xuống một lúc vào đúng giữa bàn cờ. Như vậy đủ thấy ném lên, sức quân bình của bàn tay phải cân đối lắm mới được, và như thế, làm gì Thừa Chí chẳng phục sát đất. Còn sự lạ hơn nữa là những quân cờ rơi xuống bàn cờ không thấy bắn tung ra, chỉ thấy Mộc Tang đạo nhân khẽ hạ thấp cánh tay để dùng giảm sức giáng xuống của các quân cờ, thế là quân nào quân nấy như có bàn tay xếp xuống bàn cờ vậy. Mộc Tang cười nói:
- Ném ám khí thì phải luyện sức trước đã rồi mới luyện trúng đích sau. Khi ném ra, ta có thể muốn nặng muốn nhẹ tùy ý, rồi sau mới luyện tới việc ngắm ném trúng đích.
Nói đoạn, ông ta đem tâm pháp dùng sức lấy gân ném quân cờ lại cho Thừa Chí luyện tập.
Mộc Tang đạo nhân ở chơi trên núi Hoa Sơn thắm thoát cả nửa năm, chiều chiều đánh cờ, sung sướng quá nên quên cả ngày về. Những môn khinh công và ném quân cờ, tuyệt kỹ, ông ta đều tận tâm dạy hết cho Thừa Chí không giấu diếm nửa miếng võ nào. Lúc đó đang là mùa hè nóng nực, buổi sáng Thừa Chí tập luyện kiếm và quyền thuật, buổi chiều đánh cờ với Mộc Tang đạo nhân ở dưới bóng cây. Cờ của cậu cao hơn sư bá một nước, nhưng Mộc Tang đạo nhân vốn tánh hiếu thắng, lần nào cũng lấy quân trắng nhường cho Thừa Chí quân đen đi trước. Như vậy ông ta được càng ít, thua càng nhiều.
Một hôm, Mộc Tang tiếp tục dạy Thừa Chí môn ném ám khí thủ pháp "Mãn Thiên Hoa Vũ" (mưa, hoa đầy trời) một lúc ném ra mười mấy quân cờ, nhưng quân công thượng thặng này không phải một sớm một chiều có thể học nên. Với môn này, Thừa Chí đã khổ tâm luyện tập bốn tháng trời nay, nhưng một lúc ném ra 3, 4 quân cờ chỉ có thể trúng một, hai quân thôi. Mộc Tang đại nhân phải đóng một tấm bảng gỗ trên có vẽ một hình nhân, gọi chàng Câm cầm lấy tấm gỗ ấy chạy, rồi ông ta ra hiệu:
- Thiên Tôn, Kim Tinh, Ngọc Trẫm!
Thừa Chí liền ném luôn ba quân cờ vào hình nhân trên bảng gỗ. Cậu chỉ ném trúng Thiên Tôn và Ngọc Trẫm hai huyệt, còn huyệt Kim Tinh thì hơi chệch một ít.
Mộc Tang lại ra hiệu:
- Quan Nguyên, Thần Phong, Đại Hách!
Chàng Câm một mặt chạy, một mặt làm rung động tấm bảng gỗ, Thừa Chí giở khinh công ra đuổi theo, tay phẩy một cái, nhưng Mộc Tang đã la lớn:
- Huyệt Quan Nguyên không trúng.
Ông ta đang định la nữa bỗng thấy Thừa Chí thất kinh, thét lên một tiếng, và nhanh tay kéo chàng Câm trở lại. Chàng Câm không hiểu gì cả, ngơ ngác quay đầu nhìn phía trước, mới thấy một con đười ươi đang định vồ mình. Chàng vội giơ bảng gỗ lên nhắm trúng đầu con thú đập xuống, nhưng chàng Câm bỗng thấy một sức mạnh đỡ lấy tay mình, thì ra đã bị Mộc Tang kéo trở lại. Rồi đạo nhân lên tiếng bảo:
- Thừa Chí, cháu đối phó với con chó này đi!
Cậu hiểu sư bá muốn thử bản lãnh của mình, xem đã tiến bộ tới đâu. Cậu vâng lời, giơ hai tay, khẽ nhảy tới trước mặt con đười ươi, con thú thấy bóng người quay mình xuống chạy. Thừa Chí lấy sức tạt vào lưng con vật một cái thật mạnh. Con đười ươi đau quá kêu rống lên, đoạn quay trở lại vươn hai tay dài ra để cào. Thấy chỗ hở của con thú để đánh. Bỗng nghe sau lưng có tiếng gió hình như có kẻ địch đánh tập kích, cậu không kịp quay đầu lại xem, vội nhún chân trái nhảy lên không. Người chưa rơi xuống đất, cậu đã thấy rõ kẻ đánh trộm phía sau mình là một con đười ươi khác lớn hơn. Lên núi Hoa Sơn học võ mấy năm trường, Thừa Chí chưa hề đối địch thực sự với ai cả. Hai con đười ươi tuy hung ác thật, nhưng cậu không thấy sợ hãi chúng tí nào. Cậu liền giơ ngay "Phục Hổ chưởng" đấu hai con thú nọ.
Nghe thấy tiếng hò hét, Mục Nhân Thanh ở trong nhà chạy ra thấy Thừa Chí đang ra sức đấu với hai con đười ươi. Hễ bàn tay cậu đụng tới mình con thú nào là con ấy bị đau, kêu la om sòm, thấy đồ đệ tiến nhanh như vậy, ông ta rất mừng, nghĩ thầm rằng: "Nó được tiến bộ như thế cũng không uổng công trình đã dạy nó bấy lâu nay."
Hai con đười ươi bị đánh nhiều quá không dám đến gần Thừa Chí như lúc đầu nữa. Nhân Thanh hiểu biết võ nghệ của Thừa Chí cũng thừa sức thắng hai con ác thú nhưng hiềm một nỗi cậu chưa đủ công lực nên một cái tát nào cũng vậy, chỉ có thể đánh chúng đau thôi, chớ không đánh chúng bị thương được, vì sức mạnh của bàn tay cần phải luyện tập lâu năm mới được.
Nghĩ đoạn, ông ta vào lấy kiếm ra, ném cho Thừa Chí và gọi:
- Tiếp nhanh thanh kiếm!
Thừa Chí nhảy lên, giơ tay phải ra bắt thanh kiếm. Kiếm đã vào tay cậu như hổ thêm cánh. Chưa xuống tới mặt đất, cậu đã sử dụng ngay miếng "Xuyên Trẫm Dẫn Tuyết", đâm tránh. Thanh kiếm của cậu múa lên, hơi lạnh thấu người. Tức thời hai con thú bị bao vây trong vòng tỏa ánh sáng kiếm của cậu.
Mộc Tang đạo nhân nói:
- Thừa Chí vâng lời. Đường kiếm càng múa càng chặt chẽ, nếu lúc này cậu muốn giết chết cả hai con đười ươi rất dễ như trở bàn tay, thì trong nháy mắt, cánh tay, vai, ngực, chân và đầu của hai con thú đều bị trúng thương liền liền.
Nhưng Thừa Chí không muốn hạ độc thủ, chỉ đâm cho chúng bị thương nhẹ thôi.
Hai con ác thú cũng có chút linh tánh lúc đầu chúng còn định kiếm đường tẩu thoát, nhưng sau thấy hễ định nhảy ra khỏi vòng vây là luồng kiếm đã đâm tới, chúng đành phải ngừng bước và thấy đối phương không tấn công nữa. Biết rằng kẻ địch không định giết chết chúng, cả hai con đười ươi đồng thanh hét lên một tiếng, rồi cùng quỳ xuống đất, hai tay ôm đầu, đôi mắt long lanh nhìn vào Thừa Chí tỏ vẻ van lơn.
Chàng Câm thấy Thừa Chí thâu phục được hai con đười ươi mừng quá vỗ tay dậm chân rồi chạy vào bên trong lấy cuộn dây thừng ra trói lại. Lúc đầu, chúng còn kêu gào kháng cự, nhưng sức chàng Câm khỏe quá, chỉ bóp một cái, chúng đã bị đau thấu xương thấu cốt, không dám phản kháng nữa và ngoan ngoãn để yên cho chàng trói buộc. Mộc Tang và Nhân Thanh bước tới gần khen ngợi và khuyến khích Thừa Chí mấy lời. Cậu mừng lắm, đi hái luôn hoa quả đem về cho con đười ươi ăn.
Nuôi được bảy, tám hôm, hai con thú đã chịu thuần phục dần dần, dù có cởi dây thả lỏng, chúng cũng không dám bỏ chạy. Cậu hớn hở đặt tên cho con đực là Đại Oai và con cái là Tiểu Quái. Thấy cậu đặt tên tiểu xảo cho hai con thú to lớn và lông lá xù xì như vậy, Mộc Tang và Nhân Thanh không nhịn được cười. Càng nuôi lâu càng ngày thấy Đại Oai và Tiểu Quái rất khôn. Hễ Thừa Chí ra lịnh là chúng nghe lời làm ngay.
Một hôm, duyên may trời đem lại, hai con đười ươi bỗng cao hứng trèo lên đỉnh núi thật cao hái quả ăn. Trong khi leo lên vách đá dựng đứng như một bức tường, Tiểu Quái trượt tay từ trên cây ngã lăn xuống. Từ chỗ đó xuống tới khe núi cao chừng bốn chục trượng, nếu không may tất vị tan xương nát thịt.
Nhìn thấy Tiểu Quái ngã lăn xuống vực thẳm, Đại Oai mất cả hồn vía, yên trí con thú thế nào cũng chết chẳng chơi. Nhưng lúc nó leo xuống tới lưng chừng vách núi đá, thấy con Tiểu Quái đang vịn tay vào một cái hang đá, vì lâu ngày không có người tới, đã bị đất cát phủ lấp gần kín. Trong khi ngã, Tiểu Quái cứ cào lung tung vào vách đá, hòng vớ được vật gì để khỏi ngã chết. May mắn làm sao, nó quào trúng được miệng hang nên nó mới thoát chết. Nhưng ác hại thay, hang đó lại lưng chừng núi, lên không được mà xuống cũng không xong, nó ngơ ngơ, ngác ngác, không biết làm cách nào để thoát hiểm.
Đại Oai cũng vậy, không làm sao xuống được, tới cửa hang để cứu con nọ. Vô kế khả thi, nó liền chạy xuống núi tìm kiếm Thừa Chí. Lúc đó cậu đang luyện tập kiếm pháp thấy Đại Oai mình mẩy dính đầy gai góc, và máu tươi, vẻ mặt phờ phệch, miệng kêu chí cha chí chít, cậu đoán chắc con Tiểu Quái đang bị lâm nguy gì đây! Cậu vội chạy đi kiếm chàng Câm rồi cả hai cùng theo con Đại Oai đi dẫn lộ. Cách đó không xa, Đại Oai chỉ lên vách đá vừa nhảy vừa kêu. Thừa Chí và chàng Câm ngẩng đầu trông lên thấy con Tiểu Quái đang treo lơ lửng trên lưng chừng vách đá. Cậu nghĩ ngay được một kế, vội chạy về thạch thất lấy cuộn dây thừng ra, rồi cùng chàng Câm và Đại Oai leo lối bên lên tận trên ngọn vách, thả thòng lòng sợi dây xuống. Lúc này Tiểu Quái đã mỏi mệt lắm rồi, bỗng thấy sợi dây thòng xuống cạnh tay, nó liền nắm chặt lấy. Chàng Câm và Thừa Chí liền kéo nó lên tới đỉnh vách đá.
Mình mẩy Tiểu Quái bị xây sát vài chỗ, may vết thương không nặng lắm, nhưng nó vẫn kêu la om sòm và giơ hai ám khí dị hình. Cậu muốn gỡ ám khí ấy ra nhưng rút mãi không được. Con Tiểu Quái đau quá vừa kêu vừa nhảy nhót, lúc ấy cậu mới biết đầu ám khí có gai ngược, liền giựt mình nghĩ thầm: "Có lẽ địch đã lẻn vào núi Hoa Sơn này chăng?"
Cậu ra hiệu hỏi Tiểu Quái, xem ám khí này ai ném tới chăng? Con thú chỉ trỏ ra hiệu, là kho thò tay vào miệng hang đã bị nó cắn phải. Cậu cảm thấy lạ quá, nghĩ thầm: "Hang núi ở tận lưng chừng vách đá, xưa nay chưa hề lộ hình. Vả lại, hang đá cách xa mặt đất như thế, làm sao lại có ám khí dấu trong đó?"
Càng nghĩ, cậu càng không hiểu, vội đưa chàng Câm và hai con đười ươi trở về thưa với sư phụ và Mộc Tang đạo nhân.
Nghe thấy Thừa Chí kể lại câu chuyện xong, hai đạo sĩ cầm ám khí lên xem cũng phải lấy làm lạ. Mộc Tang nói:
- Tôi là người ưa dùng ám khí nhứt và mỗi ám khí của các họ môn phái trong chốn giang hồi, tôi đều thấy cả rồi. Nhưng ám khí hình con rắn này thì quả thật tôi chưa từng trông thấy bao giờ. Lần này cả tôi cũng mơ hồ nốt.
Nhân Thanh áy náy vô cùng, liền nói với Mộc Tang:
- Đại huynh gỡ ám khí ra hộ nó đi.
Mộc Tang về phòng lấy con dao sắc bén trong túi thuốc ra, rồi phải rạch bàn tay Tiểu Quái mới moi được ám khí đó ra. Đoạn ông ta lấy thuốc rắc vào vết thương và băng bó cho con thú. Nhờ vậy, nó mới khỏi đau không kêu la nữa.
Hai chiếc ám khí đo dài hai tất tám phân, hình một con rắn ngẩng đầu lè lưỡi.
Đầu lưỡi con rắn đó lại có ba nhánh, mỗi nhánh có một cái gai ngược. Mình con rắn đen thui thủi, bên ngoài dính đầy đất và rêu. Mộc Tang cầm ám khí lên xem, lấy dao cạo hết rêu bẩn đi, càng cạo càng thấy mình con rắn sáng chói, sau cùng mới hay ám khí đó bằng vàng. Ông ta nói:
- Thảo nào nó nặng chĩu như thế, thì ra nó làm bằng vàng. Người sử dụng ám khí này sao lại hoang phí đến thế! Mỗi lần ra tay ném là mất toi mấy lượng vàng.
Mục Nhân Thanh bỗng thất kinh nói:
- Người đó là Kim Xà Lang Quân.
Mộc Tang hỏi:
- Kim Xà Lang Quân nào?
Hỏi đoạn, ông ta ngẫm nghĩ giây lát, lại hỏi tiếp:
- Có phải chú muốn nói Hạ Tuyết Nghi đấy không? Nghe nói hắn đã chết hơn mười năm nay rồi!
Vừa nói xong, ông ta lại giựt mình la lớn:
- Phải rồi, chính là hắn đấy!
Ông ta lật ngửa con rắn lên xem, quả nhiên dưới bụng nó có khắc chữ "Tuyết."
Lấy con thứ hai xem cũng có chữ như vậy. Thừa Chí liền hỏi:
- Thưa sư phụ, Kim Xà Lang Quân là ai thế?
- Để lát nữa thầy nói cho con biết. Đạo trưởng thử đoán xem, tại sao ám khí của hắn lại giấu ở trong hang núi thê?
Mộc Tang trầm ngâm không nói, ngẩn người ra nghĩ ngợi.
Thấy hai vị thầy trông thấy hai chiếc Kim Xà chủy, thái độc có vẻ nghiêm nghị nên Thừa Chí cũng không dám hỏi nhiều. Cơm chiều xong, Nhân Thanh và Mộc Tang thắp nến trò chuyện, có nhiều câu Thừa Chí không hiểu, chàng chỉ nghe những chuyện nói về "Thù sát" hay "Bảo phục" vân vân, và còn thêm những tiếng lóng vào nữa. Mộc Tang nói:
- Như vậy nghĩa la chú bảo Kim Xà Lang Quân ở nơi đây là tránh kẻ thù phải không?
Mục Nhân Thanh đáp:
- Cứ theo tài ba của ông ta thì chả cần phải từ Giang Nam chạy tới trốn hang cùng ngõ hẻm mà làm gì.
- Có lẽ người ấy chưa chết cũng nên?
- Hành tung của người đó thật kỳ bí, mọi hành động đều thần xuất quỷ mật. Anh em chúng mình lăn lộn trên chốn giang hồ bấy lâu năm chỉ nghe thấy nói đến tên hắn, chớ chưa hề gặp mặt hắn bao giờ! Có tin đồn rằng hắn đã chết rồi, nhưng chẳng ai biết rõ hắn chết hồi nào, ở đâu, và cách nào?
Mộc Tang thở dài một tiếng rồi nói:
- Người đó hành sự rất kỳ quái! Có lúc độc ác vô cùng, có khi lại hành hiệp trượng nghĩa, hắn là người tốt hay là kẻ xấu, đố ai mà quyết đoán hẳn! Đã mấy lần rồi, tôi đi kiếm hắn nhưng đều mất công chẳng thấy đâu cả!
- Nếu không biết rõ chúng ta chớ nên tán phỗng bâng quơ e có sự sai lầm, hại đến thanh danh người ta chăng! Thôi, để sáng mai chúng ta thử trèo lên hang động xem sao đã.
Sáng sớm ngày hôm sau, Mục Nhân Thanh, Mộc Tang, Viên Thừa Chí và chàng Câm, bốn người đem dây thừng và khí giới, leo lên trên đỉnh vách đá. Mộc Tang nói:
- Để tôi xuống cho.
Mục Nhân Thanh gật đầu, nói:
- Đạo trưởng nên cẩn thận một chút.
Nói đoạn, Nhân Thanh buộc dây thừng vào lưng Mộc Tang, rồi cùng chàng Câm nắm chặt đầu dây từ từ thả Mộc Tang xuống.
Tới cửa động, Mộc Tang nhìn xuống phía dưới chân, chỉ thấy sương mù và một vài đám mây lơ lửng bay qua, chớ không trông thấy đất. Xưa nay là người vẫn hay có tánh bông đùa, mà lúc này Mộc Tang cũng phải sởn tóc gáy, lo ngại thầm ngó vào trong động, đạo trưởng thấy tối đen như mực, sâu thăm thẳm. Vì cửa động quá nhỏ hẹp, Mộc Tang không chui lọt, đành phải lấy vải bọc tay, rồi khẽ thò vào trong động dò thử xem, bỗng đụng phải những vật gì hết sức bén nhọn, cắm xung quay cửa động.
Mộc Tang sờ soạng giây lát, biết ngay những cái đó là Kim Xà chủy, liền nhẹ tay rút ra, tất cả 14 chiếc mới hết. Đạo trưởng lại thò tay thật sâu nữa, tới khi mặt đã áp sát cửa động, mà vẫn không thấy gì lạ. Sợ người cầm dây ở trên mỏi tay, đạo trưởng cất tiếng gọi:
- Kéo bần đạo lên nhé.
Mục Nhân Thanh nghe thấy tiếng gọi, liền kéo dây lên. Khi lên tới cách đỉnh núi còn hơn hai trượng, Mộc Tang chân phải đạp vào mỏm đá rồi chỉ nhún mình một cái đã nhảy lên tới đỉnh núi ngay. Đạo trưởng đưa nắm Kim Xà chủy cho Nhân Thanh xem, rồi cười nói:
- Chú Mộc được bấy nhiêu vàng, anh em ta phát tài to.
Mặt Nhân Thanh càng nặng trĩu hơn trước, miệng lẩm bẩm nói:
- Không hiểu tên ma đầu đó để những thứ này ở đấy có dụng ý gì? Không biết trong động còn những thứ gì nữa? Để tôi leo xuống thử xem.
- Chú leo xuống cũng vô ích, cửa động nhỏ lắm, chú vào làm sao được?
Mục Nhân Thanh vốn trong lòng có nhiều tâm sự, cúi đầu, không nói năng gì cả.
Thừa Chí bỗng nói:
- Thưa sư bá, cháu chui lọt không?
Mộc Tang mừng lắm, liền trả lời:
- Cháu chui lọt đấy. Nhưng cao như thế cháu có dám xuống không?
- Thưa sư bá cháu dám lắm ạ. Thưa sư phụ, con xuống nhé!
Mục Nhân Thanh nghĩ thầm trong bụng: "Người giang hồ dị nhân ấy để những bảo vật phòng thân trong đó, tất phải có dụng ý gì? Nếu không do thám minh bạch, sợ có gì nguy hiểm chăng? Nếu để cho mình thằng nhỏ xuống đó mạo hiểm, kể cũng đáng lo ngại lắm đấy!"
Nghĩ đoạn, ông ta liền trả lời Thừa Chí:
- Thầy chỉ sợ trong động có sự gì nguy hiểm con ạ!
- Thưa sư phụ, con xin hết sứ thận trọng, chắc sẽ không xảy ra việc gì đâu.
Thấy Thừa Chí hăng hái sốt sắng như vậy, Mục Nhân Thanh gật đầu:
- Thôi được, con đốt bó đuốc đưa vào trước, nếu thấy đuốc tắt thì đừng có vào nhé!
Thừa Chí tay phải cầm kiếm, tay trái cầm bó đuốc, buộc dây vào lưng rồi leo xuống. Chàng nghe lời sư phụ dặn, đưa bó đuốc vào trong động thử xem. Vì con Tiểu Quái quào làm lỡ những đất bùn niêm phong cửa động, gió thổi luà vào suốt một đêm trường bay sạch hết những uế khí trong động, nên bó đuốc không bị tắt. Thừa Chí từ từ bò ào, thấy một con đường hầm nhỏ hẹp. Bò được mười mấy trượng, thấy đường hầm cao dần, cao thêm hơn trượng, cậu đã có thể đứng dậy được. Thừa Chí tiếp tục bước vào bên trong, đến chỗ rẽ ngang, cậu càng thận trọng hơn, cầm chắc thanh kiếm để đề phòng mọi sự bất trắc. Đi được hai ba trượng nữa, cậu thấy ở phía trước mặt có một cái thạch thất. Đưa đuốc vào soi, chàng hoảng sợ toát mồ hôi lạnh, vì thấy một bộ xương người ngồi xếp bằng tròn trên tảng đá. Bộ xương đó vẫn còn nguyên vẹn, hai tay đặt lên trên đầu người.
Thấy vậy, trống ngực Thừa Chí đập thật mạnh. Cậu đưa mắt nhìn xung quanh phòng thấy không có gì đáng sợ nữa, mới cầm đuốc soi xét kỹ lưỡng. Trước mặt bộ xương thấy để bừa bãi mười mấy chiếc Kim Xà chủy, và bên cạnh có cắm một thanh kiếm. Cậu không dám đụng chạm một tý gì. Nhìn lên vách đá, cậu thấy trăm bức chạm hình người khắc bằng dao. Mỗi hình người mỗi khác nhau, không kiểu nào giống kiểu nào, hoặc giơ tay đấm, hoặc phóng chơn đá, hình như đang luyện tập võ nghệ. Thấy nhiều bức hình quá, cậu ngơ ngác không hiểu ý định của tác giả đã khắc những hình đồ ấy để làm gì? Theo dõi xét tới bức ảnh cuối cùng, cậu thấy có mấy hàng chữ, cũng khắc bằng dao, cậu đứng sát gần để nhìn cho rõ, và thấy mấy hàng chữ ấy viết như sau:
"Trọng bảo bí thuật, phó dĩ hữu duyên, nhập ngã môn lai, ngộ họa mạc oán"
nghĩa là:
"Tất cả những báu vật và môn võ bí truyền đều để tặng cho người có duyên phận, nhưng khi vào cửa động của ta, lỡ gặp tai họa đừng có oán trách."
Đang định xem nữa, chợt nghe thấy Mộc Tang lớn tiếng kêu mình, Thừa Chí vội vàng đáp lời, rồi bò ngay ra ngoài cửa động.
Thì ra Mộc Tang và Mục Nhân Thanh ở trên đỉnh núi, thấy dây thừng càng lôi càng dài, chờ mãi không thấy đồ đệ ra, nóng lòng sốt ruột vô cùng, Mộc Tang định xuống xem sao, thì Thừa Chí đã giựt dây gọi rồi. Mọi người vội vàng kéo Thừa Chí lên, thấy mặt cậu dính đầy bụi với rêu và còn tỏ vẻ hoảng sợ, biết là cậu trông thấy sự gì kỳ lạ rồi. Định thần một lát, Thừa Chí mới kể lại những gì đã thấy cho mọi người nghe. Mục Nhân Thanh nói:
- Bộ xương đó nhứt định là của Hạ Tuyết Nghi rồi. Không ngờ một đời quái hiệp mà lại chết ở chốn này! Tội nghiệp thật!
Mộc Tang hỏi:
- Những chữ hắn để lại có ý nghĩa gì?
Ngẫm nghĩ giây lát, Nhân Thanh mới trả lời:
- Theo nghĩa những chữ đó thì Kim Xà Lang Quân có chôn bảo vật nào đó ở trong động, cả võ công tuyệt thế của hắn, chắc cũng dùng cách gì để lưu truyền trong ấy, chờ người hữu duyên tới nhận. Nhưng tính hắn lạ lùng lắm, hình như ai muốn được tặng những di vật đó, phải tự coi như là môn đồ của hắn. Và chưa biết chứng bị tai họa gì nữa cũng nên!
Mộc Tang nói:
- Theo nghĩa những chữ đó thì phải thế thật. Như không biết quái nhân đó còn giở trò gì kỳ lạ nữa không?
- Chúng ta cũng không ham muốn gì võ công và bảo vật của hắn. Thừa Chí, ngày mai con lại leo xuống, chôn cất di hài của vị tiền bối đó, thắp vài nén hương quỳ lạy một phen. Chúng ta đối xử như vậy chắc chắn cũng hài lòng lắm rồi!
Viên Thừa Chí xin vâng lời.
Sáng ngày hôm sau, Thừa Chí đem theo một cái cuốc, rồi cùng chàng Câm leo lên trên đỉnh núi. Vì biết trong động không có gì nguy hiểm, nên lần này Nhân Thanh và Mộc Tang không đi. Định ở lâu trong động, Thừa Chí đem ba bó đuốc đi. Bò vào trong hang, cậu cuốc một cái hố nhỏ để cắm bó đuốc, cho hai tay được rảnh còn lại làm lụng việc khác. Quay lại, trông thấy bộ xưong, cậu nghĩ thầm: "Nghiệp sư phụ nói, đống xương trắng này nguyên trước kia là một vị quái hiệp, không hiểu tại sao lại mệnh một trong núi hoang, hài cốt không người mai táng cho! Tội nghiệp thật!"
Cậu quỳ xuống trước bộ hài cốt, vái lạy một hồi, rồi lẩm nhẩm cầu khẩn:
- Đệ tử Viên Thừa Chí, không ngờ được gặp di thể của đại hiệp. Hôm nay đệ tử an táng đại hiệp, xin đại hiệp an giấc nghìn năm dưới cửu trùng!
Vừa khấn xong, một luồng gió lạnh thổi vào, khiến cậu cảm thấy rờn rợn và hơi sờn lòng đôi chút. Không dám ở lại lâu nữa, cậu vội vàng cuốc đất để chôn cất cho xong rồi trở lên ngay. Nhưng ngờ đâu, đào được một ít đất xốp trên mặt, cuốc của cậu bỗng chạm phải một vật gì rắn chắc, có lẽ một thứ kim khí thì phải, kêu đến "keng" một tiếng. Cậu đem đuốc lại coi xem, thấy chỗ vừa mới đào co một tấm sắt, lấy cuốc bới hết chỗ đất xung quanh lên, mới hay đó là một cái hộp sắt vuông, mỗi bề hai thước, cao một thước, rất nhẹ nhàng, tựa hồ bên trong không có gì cả. Mở nắp ra, thấy hộp đó trong lạ lùng, bề cao như vậy mà trong lòng chỉ có một tấc thôi, cậu cùng lấy làm ngạc nhiên. Trong hộp chỉ có một lá thơ, trên viết mấy chữ lớn: "Ai được hộp này, bóc thơ ra coi."
Thừa Chí liền lấy thơ ra đọc: "Vật báu trong hộp, để tặng cho người hữu duyên. Nhưng trước hết phải chôn hài cốt tôi thật tử tế đã."
Trong bao thơ lại có hai bao thơ khác nhỏ hơn, một cái đề: "Cách mở hộp", một cái nữa đề: "Cách chôn hài cốt của tôi."
Lúc này Thừa Chí mới hay hộp đó có hai từng, giơ hộp lên lắc thử, quả nhiên trong có đựng một vật gì. Cậu nghĩ thầm: "Ta thương hại hài cốt ông ta bị vứt bỏ nơi hoang sơn mà xuống đây chôn cất hộ chớ ta có tham vọng hưởng những bảo vật của ông ta đâu!"
Nghĩ đoạn, cậu bóc phong bì nói về cách chôn cất hài cốt ra xem, thấy một tờ giấy trắng trên đó có viết: "Nếu ông thành tâm chôn cất hài cốt của tôi, thì xin đao sâu thêm ba thước hãy mai táng, để tôi nằm sâu dưới đất, khỏi bị mối kiến nó đục hại."
Thừa Chí tự bảo thầm: "Đã làm phước thì làm phước cho trót, ta cứ theo lời dặn của ông ta mà theo đúng như vậy."
Cậu lại tiếp tục đào sâu, nhưng lần này đất cứng rắn hơn thỉnh thoảng lại có đá cục, nên tốn nhiều hơi sức lắm. Lúc này mặc dầu đã hơn trước nhiều, nhưng cũng mệtđến đổ mồ hôi ướt đẫm cả, khi cậu đào sâu tới mức sâu ba thước, lại bới ra được một hộp sắt nữa, nhưng hộp này nhỏ hơn, chỉ độ một thước bề ngang thôi. Thừa Chí lại nghĩ thầm: "Vị quái hiệp này kỳ lạ thật! Không biết trong hộp này lại đựng cái gì đây?"
Cậu mở hộp ra xem, lại thấy có một lá thơ. Đọc xong, cậu sợ hãi đến toát mồ hôi lạnh. Thì ra trong thơ có viết: "Ông thật là người nhân đức trung hậu đã chôn cất hài cốt tôi xong, tất phải được hưởng vật báu để đền bù công khó nhọc. Hộp sắt lớn là hộp giả, ai mở là bị trúng tên độc ở trong bắn ra, những sách vở và địa đồ trong đó đều giả cả, trên sách giấy lại có chất độc rất mạnh để trừng trị những kẻ tham lam bất lương. Còn những thứ thật thì ở trong hộp nhỏ này."
Không dám xem nhiều, cậu để hai cái hộp sang một bên, rồi đặt hài cốt của Kim Xà Lang Quân xuống hố, lấp đất lên vái mấy vái xong, liền ôm hộp sắt quay trở ra. Lúc này cậu mới nhận rõ cửa động xây bằng đá, chắc khi còn sống, Kim Xà Lang Quân vẫn thường lui tới động ấy nên mới cẩn thận lấy đá phong tỏa như vậy. Cậu xếp dọn những hòn đá lớn sang một bên, mở rộng cửa động, để mời sư phụ và Mộc Tang xuống xem xét.
Ra khỏi động, chàng Câm vội kéo Thừa Chí lên. Cậu bưng hộp sắt về để trình sư phụ định đoạt.
Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đang đánh cờ thấy Thừa Chí trở về, liền ngưng ngay để nghe đồ đệ kể chuyện.
Đọc qua mấy lá thơ, Mộc Tang cũng phải kinh hãi. Khi đạo trưởng bóc lá thư đề:
"Cách mở hộp" ra, thấy trong thơ viết: "Hai bên hộp đều có chốt máy, hai tay bưng hộp, đồng thời dùng sức kéo lên, là mở được nắp ngay."
Mộc Tang nhìn Nhân Thanh, lè lưỡi vài cái rồi mới nói:
- Bõ thật hú vía! Tánh mạnh của cháu Thừa Chí có thể nói là vừa mới nhặt được đem về! Nếu nó có lòng tham một chút, không chôn cất di hài cho tử tế, cứ vội vã mở ngay hộp để kiếm vật báu thì những mũi tên độc không tha thứ cho nó đâu!
Nói đoạn, Mộc Tang đạo nhân gọi chàng Câm đi kiếm một cái thùng gỗ tới, gần đáy thùng cho đục hai cái lỗ, mở nắp hộp sắt ra, rồi để vào trong thùng gỗ, lấy tấm ván đậy nắp thùng lại, thọc hai cái gậy vào hai cái lỗ rồi mới đục. Đạo nhân cầm một chiếc gậy, còn chiếc kia bảo Thừa Chí cầm, rồi cả hai cùng thọt mạnh, hai chiếc gậy cùng một lúc, bỗng nghe thấy "ket" một tiếng. Mọi người đoán cái nắp hộp bên trong đã mở rồi, theo đó có tiếng "soẹt soẹt, tung tung" liên tiếp, thùng gỗ hơi bị rung chuyển. Nghe thấy tiếng tên độc bắn ra đã ngừng rồi, Thừa Chí định mở tấm ván đậy nắp lên xem. Nhân Thanh vội cản lại quát lớn:
- Hãy chờ một lát đã!
Chưa dứt lời lại nghe thấy mấy tiếng "soẹt, soẹt." Chờ thêm một lát, không thấy có tiếng động nữa, Mục Nhân Thanh mới cho mở tấm ván ra. Quả nhiên trong thùng và cả tấm ván đậy nắp cũng đều có mấy chục mũi tên ngắn cắm sâu vào. Nhân Thanh phải dùng kềm chớ không dám lấy tay nhổ những mũi tên đó. Mộc Tang than rằng:
- Người ấy cũng thâm độc đa kế thật, sợ xếp đặt một lần ám khí bắn không chết kẻ mãnh tâm, mà phải đặt những hai lần như vậy!
Lấy hộp sắt ra, thấy nắp thứ hai đã mở, bên trong có những lò so đóng chằn chịt, chắc đó là những máy móc đặt tên độc, Mộc Tang tháo hết những lò so đó ra và cầm cuốn sách để bên dưới lên. Thấy trên bìa sách viết mấy chữ "Kim Xà bí kíp" (kíp là vũ sách làm bằng tre).
Mộc Tang đạo nhân dùng kềm mở thử mấy trang, thấy viết bằng những hàng chữ nhỏ li ty và có rất nhiều họa đồ, có trang thì vẽ hình địa đồ, có trang vẽ các thế võ, và cũng có trang vẽ khí giới máy móc. Khi mở hộp nhỏ ra xem, bên trong cũng có một cuốn sách cùng một khuôn khổ như cuốn trước và chữ viết, cách đóng, chẳng khác một tý nào, riêng có nội dung là không giống thôi.
Mục Nhân Thanh nói:
- Để đối phó với những kẻ không chôn cất thi hài ông ta cho tử tế, Kim Xà Lang Quân đã không tiếc công, mất thời giờ, viết một cuốn sách giả, rồi đặt vô số tên độc. Nhưng sự thật thì một người đã chết rồi, còn tính toán tới chuyện người ngoài đối xử với mình tốt hay xấu làm gì!
Mộc Tang nói:
- Cũng chỉ vì hắn quá hẹp lượng, nên mới có kết quả bi đát như thế!
Mục Nhân Thanh gật đầu than thở, bảo Thừa Chí cất hai hộp sắt ấy đi rồi nói:
- Hành vi của Kim Xà Lang Quân thật quái dị, dù có đọc sách của y cũng vô ích.
Thừa Chí vâng lời, sau vụ đó, cậu luyện võ càng thêm chăm chỉ.
Mộc Tang dạy tất cả các môn khinh công, ám khí cho cậu ta xong đâu đấy mới hạ sơn đi nơi khác.
Thời gian trôi chảy rất chóng, thấm thoát đã mấy năm. Lúc ấy đã là năm thứ 16 của vua Sùng Chính, Viên Thừa Chí đã 10 tuổi.
Chàng đã được Mục Nhân Thanh, trưởng môn phái Hoa Sơn, quyền kiếm thiên hạ vô song, dạy bảo mười mấy năm tất nhiên võ công phải tuyệt phi phàm. Chàng lại được thêm Mộc Tang đạo nhân chỉ bảo khinh công tới mức tuyệt đỉnh. Chống ám khí độc đáo, và cậu cũng có bản lãnh về đánh cờ. Một mình chàng học được võ công thượng thặng của hai môn phái, đã là một nhân vật hiếm có trong giới võ lâm. Nhưng trong mười mấy năm học tập, chàng chưa từng đặt chân xuống núi một bước, tất nhiên không biết thế sự là gì cả. Và khắp chốn giang hồ cũng chưa một ai biết phái Hoa Sơn đã có một tay vạn năng hảo thủ như vậy.
Hôm đó là ngày Xuân, Thừa Chí cùng Đại Oai và Tiểu Quái, hai con đười ươi luyện võ. Chàng Câm ở trong nhà bước ra giơ tay ra hiệu. Thừa Chí biết là sư phụ cho gọi, liền vào ngay trong nhà, thấy có hai đại hán đứng cạnh sư phụ. Chàng ngạc nhiên vô cùng, vì ở trên núi Hoa Sơn này, trừ Mộc Tang ra, chưa có người khách thứ hai tới thăm. Mục Nhân Thanh nói:
- Thừa Chí, con lại chào Vương đại ca và Cao đại ca đi.
Tưởng là bạn của sư phụ, chàng vái chào và miệng gọi "sư thúc," hai người nọ vội vàng quỳ xuống lạy và nói:
- Mời Viên sư thúc bình thân. Chúng cháu đâu dám nhận lễ của sư thúc.
Thấy gọi mình là sư thúc, chàng ngơ ngác không hiểu. Mục Nhân Thanh cả cười một hồi rồi mới nói:
- Thôi! Đứng dậy cả đi!
Thừa Chí vội đứng thẳng lên. Chàng thấy hai người nọ ăn mặc lối quê mùa, trông cũng có vẻ nhanh nhẹn và oai hùng, Nhân Thanh cười nói:
- Con chưa theo thầy xuống núi bao giờ nên không biết vai vế của con ra sao? Thôi đừng khách sáo nữa, và ai cũng đừng gọi ai là sư thúc gì cả. Cứ căn cứ vào tuổi hơn kém mà gọi nhau là huynh đệ thì hơn.
Thì ra hai sư huynh đệ họ Vương và họ Cao kia, theo vai vế thì sư phụ của họ phải gọi Mục Nhân Thanh là sư thúc. Họ tuy lớn tuổi, nhưng phải gọi Thừa Chí là sư thúc mới phải. Mục Nhân Thanh lại nói:
- Hai vị sư huynh này thừa lịnh Lý Tự Thành tướng quân ở tỉnh Sơn Tây tới, muốn mời thầy xuống bàn tán một việc quan trọng, vậy ngày mai thầy phải xuống núi.
Thừa Chí nói:
- Thưa sư phụ, lần này sư phụ cho phép con đi theo để thăm Thôi thúc thúc.
Chàng ở trên núi mãi cũng thấy buồn, mấy lần muốn theo sư phụ hạ sơn đều không được phép. Lần này chàng lại xin thì Nhân Thanh mỉm cười. Hai người kia biết thầy trò chàng có chuyện muốn bàn tán liền cáo lui ra bên ngoài.
* * *
Mục Nhân Thanh nói:
- Hiện giờ thân thế nghĩa quân đang bành trướng rất mạn. Hai tỉnh Tân, Tấn sắp vào tay quân ta. Đây cũng là dịp may con báo thù cha. Bấy lâu nay con cứ xin thầy cho phép con đi hành thích vua Sùng Chính, nhưng thầy nhất định không nghe, con có biết tại sao không?
Thừa Chí trả lời:
- Thưa thầy, có phải vì con chưa học thành tài không?
- Điều đó cũng là một nguyên nhân, nhưng còn một điều nữa quan trọng hơn. Con hãy ngồi xuống thầy nói cho con nghe.
Thừa Chí ngoan ngoãn ngồi xuống, Nhân Thanh nói tiếp:
- Mấy năm nay, tình thế ngoài quan ải khẩn trương lắm. Dã tâm của người Mãn Châu không lường, ngày nào cũng muốn xâm lấn vào trong quan ải. Mặc dầu vua Sùng Chính hay đa nghi và thiếu ý chí cương quyết, nhưng còn sáng suốt hơn các vua trước, như vua Gia Tinh, vua Thiên Khải nhiều. Nếu cho phép con vào trong cung hành thích Sùng Chính để trả tư thù sẽ có hại, vì Thái tử còn nhỏ nếu lên nối ngôi, quyền hành thế nào cũng lọt vào tay bọn gian thần quan hoạn. Thầy chỉ sợ chúng sẽ làm mất giang sơn của người Hán mình ngay. Như vậy, có phải con là một người có tội với thiên hạ không? Thân phụ con suốt đời phản kháng quân Mãn, quyết chí thu phục đất Liêu Đông, nay thấy con bất trung bất hiếu như vậy, thì ông ta dù ở thế giới bên kia cũng không được yên tâm chút nào!
Thấy sư phụ nói như vậy, Thừa Chí toát mồ hôi.
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Quốc sự là một việc lớn, tư thù là việc nhỏ, dĩ thầy không cho con đi báo thù vì lẽ đó. Nhưng tình hình bây giờ lại khác hẳn. Sấm Vương Lý Tự Thành đã chiếm Tân, Tấn hai tỉnh, và chỉ trong một hai năm là có thể tiến tới Bắc Kinh. Lúc ấy đã có ông ta chủ trì đại cuộc, toàn quốc trên dưới một lòng, thì còn sợ gì Liêu Đông, Mãn Châu vào xâm chiếm nữa.
Càng nghe, Thừa Chí càng thấy phấn khởi. Nhân Thanh lại nói tiếp:
- Võ nghệ của con bây giờ đã có căn cơ. Tuy võ học không có bờ bến, nhưng tài năng của ta đã truyền lại hết cả cho con. Sau này, con chỉ chăm chỉ học tập lấy đủ được rồi, mai thầy xuống núi, con cứ ở lại chờ một tháng sau, con hãy hạ sơn, đến tỉnh Sơn Tây vào trại quân đội Sấm Vương kiếm thầy.
Thấy thầy cho phép xuống núi, Thừa Chí hớn hở vô cùng. Lúc thường Mục Nhân Thanh đã dạy cho chàng biết các điều cấm kỵ và các luật lệ của các môn phái trên chốn giang hồ rồi. Lúc này, ông ta nhắc lại những điều quan trọng cho chàng nghe.
Sau cùng lại dặn rằng:
- Con là người cẩn thận chánh trực, ta yên trí lắm. Nhưng còn chữ "sắc", con đặc biệt đề phòng. Có rất nhiều đại anh hùng, đại hào kiệt đã sa ngã bởi chữ sắc đó, đến rồi tiêu tan sự nghiệp, trở nên thân tàn ma dại. Con phải nhớ kỹ lời nói đó của thầy.
Ngày hôm sau, trời chưa sáng tỏ, Thừa Chí đã thức dậy giúp chàng Câm đun nước, thổi cơm, xong đâu đấy, mới vào phòng sư phụ thỉnh an. Không ngờ Mục Nhân Thanh và hai người khách lạ kia đã hạ sơn từ lúc nửa đêm rồi. Ngẩn người giây lát, Thừa Chí nghĩ tới việc mình sắp hạ sơn đến nơi rồi, liền chỉ chõ ra hiệu cho chàng Câm hay. Chàng Câm có vẻ không vui, quay mình đi ra. Hai người ăn ở với nhau hơn mười năm trời, tình thân hơn anh em ruột thịt, nên chàng biết chàng Câm không nỡ chia tay với mình.
Thấm thoát đã qua được bảy tám ngày, Thừa Chí vẫn luyện tập như thường. Nghĩ tới sắp phải rời khỏi nơi đây, chàng bắt đầu luyến tiếc từng cánh cây, cái cỏ. Hôm đó, ăn cơm tối xong, chàng lấy sách sư phục ra đọc một thời gian khá lâu. Đang định tắt đèn đi ngủ, bỗng thấy chàng Câm vào chỉ chỏ ra hiệu cho chàng ra để xem xét, nhưng chàng Câm níu lại, và cho hay rằng, đã khám xét rồi, không thấy tung tích người nào cả. Thừa Chí vẫn không yên tâm lắm, dắt hai con đười ươi đi khám xét lại phía trước lẫn phía sau núi. Quả nhiên, không thấy có điều gì khả nghi cả, chàng mới trở về phòng ngủ.
Ngủ tới nửa đêm, chàng nghe thấy Đại Oai và Tiểu Quái ở phòng ngoài kêu la ầm ĩ. Chàng ngồi dậy lắng tai nghe, bỗng có mùi thơm xông lên mũi, vội nín hơi thở ra, ngờ đâu hai chân mềm nhũn, loạng choạng suýt ngã. Lúc ấy, cửa phòng bỗng mở toang, một cái bóng đen nhảy vào, và giơ đao chém ngay vào đầu chàng. Tuy cảm thấy đầu nặng chĩu, nhưng chàng rất tinh thông võ nghệ, có thể cố gượng được, vội né sang bên trái, rồi tay phải, đánh ngược một chưởng.
Người nọ muốn chém vào tay Thừa Chí nhưng gặp phải cường địch, khi nào lại chịu để cho đối phương có thể giơ tay. Trong bóng tối, chỉ có cách nghe hơi gió để nhận đính mọi cử động của địch thủ, Thừa Chí tiến lên một bước, dùng bàn tay trái chặt vào vai người đó. Chưởng đó chàng đã dùng cả mười phần sức lực. Người nọkhông ngờ chàng đã bị thuốc mê rồi mà còn có công lực như vậy. Vai bị đau, người nọ bị đánh tung ra cửa. Bên ngoài, có một người bèn đỡ lấy người nọ và nói:
- Cái điểm móng cứng lắm! (đây là tiếng lóng của người giang hồ. Cái điểm là tên kia, móng là tài nghệ, cứng lắm là giỏi lắm.)
Thừa Chí định nhảy ra, bỗng thấy đầu choáng váng rồi mê man bất tỉnh. Cách không biết bao nhiêu lâu, chàng mới tỉnh dậy, thấy tay chơn và mình mẩy đều mỏi mệt. Vừa cựa quậy tay chơn, chàng hoảng sợ vì thấy mình mẩy đã bị trói chặt bằng dây thừng. Trong phòng đèn đuốc sáng choang, hai người lạ mặt đang lục lợi hòm siểng khắp nơi.
Chàng đã biết bị người hãm hại, tự trách mình là kẻ vô dụng, sư phụ vừa hạ sơn được vài ngày mà mình đã bị người ta lên tận núi bắt trói. Như vậy, còn mong mỏi gì đặt chân vào chốn giang hồ và báo thù cho cha nữa. Chàng giả tảng chưa hồi tỉnh, hé mắt nhìn trộm, thấy một người gầy gò, trạc độ ngoài 50, mặt khô khan. Còn một người nữa là hòa thượng, vừa to vừa béo xem thân hình đúng là người vừa đánh nhau với mình.
Chàng nghĩ thầm: "Lạ quá! Trên núi, có cái gì quý báu đâu mất công đến tận đây trộm cướp? Tiền của thì chỉ độc có 50 lạng bạc sư phục để lại cho để làm lộ phí thôi! Nhưng họ nhất định không phải là giặc cướp thường. Tên hòa thượng này võ công khá lắm, và người gầy gò kia cũng không phải là tay xoàng xĩnh. Nếu bảo họ tới đây để báo thù, tại sao lại không giết mình mà cứ đi lục lọi khám xét đồ đạc thế kia."
Vừa nghĩ ngợi, chàng vừa vận nội công để làm đứt dây thừng đang trói chặt người chàng.
Nào ngờ đâu kẻ địch lại là những tay lão luyện, biết chàng giỏi võ nên lúc trói họ cắm một mẩu tre vào giữa hai tay, hễ chàng lấy sức là mẩu tre vỡ trước, và gây ra tiếng động tức thì. Khi chàng vừa lấy sức định bứt sợi dây thì phát giác ngay mưu kế đó, nên ngừng ngay lại và không cựa quậy nữa. Trong lúc chàng đang nghĩ kế thoát thân, thì nghe thấy tên hòa thượng mừng rỡ kêu lên:
- Đây rồi!
Hòa thượng kéo chiếc hộp sắt dưới gầm giường ra, đó là cái hộp của Kim Xà Lang Quân.
Người gầy gò tỏ vẻ hân hoan, cùng hòa thượng ngồi cạnh bàn mở hộp sắt, lấy cuốn Kim Xà bí kíp ra xem. Hòa thượng cả cười nói:
- Quả nhiên nó ở đây rồi. Sư huynh này, bây giờ mới bõ công tìm kiếm 15 năm của anh em mình!
Mở cuốn bí kíp ra xem, thấy bên trong có vẽ rất nhiều họa đồ, và những hàng chữ nhỏ, y khoái trí gãi đầu, xoa tay mừng rỡ vô cùng.
Người gầy gò bỗng nói:
- Kìa, tên kia đã tẩu thoát.
Vừa nói, y vừa chỉ về phía Thừa Chí. Hòa thượng quay đầu xem có thật không.
Nhanh như chớp, tên gầy gò đâm luôn một nhát dao găm vào giữa sống lưng hòa thượng, sâu ngập tới cán rồi y nhảy cách xa vài thước, rút trường kiếm ra đề phòng sự phản ứng. Hòa thượng ngạc nhiên, bỗng phá ra cười một cách chua chát rồi nói:
- Anh em mình cố gắng tìm kiếm suốt 15 năm trời, ngày nay mới tìm thấy vật báu. Không ngờ anh lại muốn chiếm lấy một mình mà hạ độc thủ như vậy... hà, hà!... hà... hà...
Trong đêm khuya tĩnh mịch, tiếng cười của y lại càng bi đát rùng rợn thêm đến nỗi Thừa Chí nghe thấy cũng phải sờn lòng. Y định đưa tay về phía sau rút thanh đao ra, nhưng không được. Bỗng y thét lên một tiếng, ngã gục xuống, giãy giụa rồi tắt thở liền.
Người gầy gò sợ hòa thượng chưa chết, hắn liền tiến lên đâm bồi thêm mấy nhát kiếm nữa. Thấy y tàn sát sư đệ như vậy, Thừa Chí cũng phải rùng mình ghê gớm. Tên ấy "hừ" một tiếng rồi nói:
- Ta không giết ngươi thì ngươi cũng sẽ hại ta!
Nói xong, y còn đá vào xác hòa thượng mấy cái.


Hồi 5

Người gầy gò, vì chưa được rõ Thừa Chí tỉnh dậy, khoái chí cười khinh vài tiếng, búng tàn nến cho ngọn lửa sáng tỏ rồi giở cuốn bí kíp ra đọc. Càng đọc, càng cao hứng, y đắc ý rung đùi, có vẻ sung sướng lắm. Đọc tới chỗ có mấy trang dính chặt với nhau, y lấy ngón tay trỏ chấm nước miếng để cho dễ giở hơn. Mấy lần gặp những trang dính chặt với nhau, nhờ thấm nước miếng, y đều giở được mà không rách trang nào. Thừa Chí bỗng sực nghĩ tới cuốn sách có chất độc rất mạnh, nếu tên kia cứ thấm nước bọt mãi như vậy thế nào cũng bị trúng độc. Như quên cả nguy hiểm, bỗng khẽ kêu lên một tiếng.
Nghe thấy tiếng người kêu, người gầy gò quay đầu lại, trông thấy Thừa Chí hai mắt trợn tròn xoe, đầy vẻ hãi hùng, đang nhìn thẳng vào mặt mình. Y từ từ đứng dậy, rút con dao găm ở lưng hòa thượng ra, rồi tiến gần Thừa Chí và nói rằng:
- Ta với ngươi tuy không có thù oán gì cả, nhưng ngày hôm nay ta không thể để cho ngươi sống được!
Nói xong, mắt y lộ đầy vẻ hung ác, giơ dao găm lên, cười gằn mấy tiếng, rồi lại nói tiếp:
- Bây giờ ta có giết chết ngươi, thì ngươi xuống dưới âm ti cũng không hiểu sao mà bị giết! Nói thật cho ngươi biết, ta là Trương Xuân Cửu trong phái Thạch Lương tại phủ Cừ Châu, tỉnh Triết Giang. Phái Thạch Lương chúng ta là tử thù với Kim Xà Lang Quân. Y gian dâm với sư muội chúng ta, rồi trốn nơi đây. Mười mấy năm nay chúng ta đi tìm xem y trốn nơi đâu, nay Bí kíp của y rơi vào tay ngươi. Nay ngươi có liên can với Kim Xà Lang Quân chắc ngươi cũng không phải là người lương thiện. Sau khi chết đi, trở thành một con ma rồi, nếu muốn báo thù này, thì ngươi cứ tới Cừ Châu mà kiếm ta, Trương Xuân Cửu đây... hà, hà, hà!
Cười chưa dứt tiếng, y bỗng loạng choạng suýt ngã. Thừa Chí liền vận hết sức lực lên hai cánh tay, thét lớn một tiếng, dây thừng trói quanh người liền đứt ra từng khúc.
Rồi nhanh như chớp, chàng giáng luôn vào đầu người nọ một quả đấm thôi sơn.
Nhưng tay chàng chưa chạm tới người kẻ thù, Trương Xuân Cửu bỗng ngã người nằm lăn ra đất. Thừa Chí sợ y có quỷ kế gì, liền cầm một đoạn dây thừng đứt quấn làm võ khí sử dụng cấp thời. Nhưng thấy người gầy gò đó hai chân duỗi thẳng, không còn cử động được nữa. Mắt, mũi, tai, mồm của y đều chảy máu đen, lúc ấy chàng mới hay kẻ thù đã trúng độc chết. Cúi xuống cởi luôn quãng dây thừng đang trói dưới chân ra, chàng vội chạy ra phòng ngoài. Thấy chàng Câm bị trói nằm ở đó, hai mắt y trợn tròn xoe, lộ vẻ bực tức vì không cựa quậy được, Thừa Chí liền cởi trói cho y. Lại thấy Đại Oai và Tiểu Quái như chết ngất ở dưới đất, sợ hai con đười ươi bị ngộ độc, chàng vội lấy mấy gáo nước lã đổ vào đầu, vào mặt hai con vật nọ. Một lát thật lâu, hai con thú mới hồi tỉnh dần. Thừa Chí dùng tay ra hiệu, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra cho chàng Câm hay. Chờ đến khi trời sáng tỏ, Thừa Chí và chàng Câm mới khiêng hai kẻ thù ra đằng sau núi chôn cất. Thấy cái hộp sắt lớn có chất độc hại người như vậy, Thừa Chí tiện tay quăng luôn xuống hố, chôn cùng với hai người kia.
Chôn cất xong đâu đấy, nghĩ tới chuyện hôm qua, trong lòng chàng còn bàng hoàng lo ngại khôn cùng.
Chàng nghĩ thầm: "Năm 12 tuổi, vô hình chung mình đã tìm thấy cái hộp sắt nọ rồi tám năm qua, ta đã quên hẳn câu chuyện đó. Nay thấy người gầy gò và ba vị hòa thượng đã giết lẫn nhau vi tranh giành cuốn Kim Xà bí kíp, thì chắc hẳn cuốn sách đó phải chứa đựng sự gì bí mật hoặc rất quan trọng! Nhưng không hiểu trong cuốn sách đó viết những gì?"
Nghĩ tới đó, chàng không thể nén nổi sự tò mò, liền chui vào gầm giường, lôi cái hộp nhỏ phủ đầy mạng rêu ra. Chàng mở hộp sắt, lấy cuốn Kim Xà bí kíp thật để trên bàn, rồi giở từng tờ ra đọc. Những trang đầu dạy về bí quyết luyện công và tâm pháp ném ám khí, không khác gì mấy với những phương pháp của Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân. Chàng nhận xét kỹ thì thấy thủ pháp của Kim Xà Lang Quân còn hiểm độc gấp mấy lần thủ pháp của hai thầy mình. Chàng nghĩ thầm: "Hôm qua mình suýt gặp quỷ kế đê tiện của kẻ địch. Sau này, dấn thân vào chốn giang hồ để hành hiệp, thế nào chẳng gặp phải những đối thủ cũng sử dụng những thủ pháp đê hèn đó, nhưng dù sao, biết người biết ta, và để phòng thân, thì ta cũng cần phải biết tới những mánh lới đó."
Nghĩ đoạn, chàng bắt đầu nghiên cứu các thủ pháp trong cuốn Bí kíp.
Đọc tới ngày thứ ba, chàng mới nhận thấy các đường lối võ công ghi trong Bí kíp khác hẳn những thế võ của phái Hoa Sơn và chàng cũng chưa hề nghe thấy sư phụ nói qua bao giờ. Nhất nghệ thông thì bách nghệ cũng thông, võ công của Thừa Chí đã tới mức cao siêu. Nên khi chàng học sang môn phái khác chỉ mấy chút thời giờ suy nghĩ là hiểu ngay. Theo đúng trong Bí kíp, chàng tuần tự luyện tập, hết thế võ nay sang thế võ khác. Nhưng luyện đến ngày thứ năm, chàng gặp phải những điều nan giải là trong Bí kíp có viết tỉ mỉ những bí quyết, không vẻ họa đồ về các điệu, các kiểu, thì biết căn cứ vào đâu mà phỏng theo? Vì vậy, chàng đành phải ngừng tập. Chàng lại giở sang chương sau thấy đề mục là "Kim Xà kiếm pháp." Chàng nghĩ thầm: "Kiếm pháp này do Kim Xà Lang Quân sáng tạo ra, thế nào cũng có nhiều miếng độc đáo!"
Nghĩ đoạn, chàng lấy kiếm múa thử, thoạt tiên còn dễ học, tới sau càng múa càng phức tạp, không thuận tay. Luyện đi luyện lại mấy lần, chàng vẫn thấy ngượng ngịu chướng tay. Sực nhớ tới, khi chôn cất di cốt Kim Xà Lang Quân, chàng đã trông thấy trên vách ở trong động có khắc rất nhiều họa đồ, chắc những tranh đó có liên quan đến các thế võ và kiếm pháp này.
Nghĩ tới đó, không sao nhẫn nại được nữa, Thừa Chí liền gọi chàng Câm đem dây thừng, bó đuốc, lên đỉnh núi để thòng chàng xuống dưới động. Lúc ấy chàng trở nên một thanh niên cao lớn, vạm vỡ, đáng lẽ không chui lọt cửa động, nhưng may thay hồi nọ chàng đã phá rộng hai bên cửa nên bây giờ chàng mới chui vào được. Cầm bó đuốc lên chiếu sáng các hình đồ trên vách, chàng nghiên cứu thật tỉ mỉ từng bức họa. Quả nhiên, những bức họa đồ đó là những hình vẽ giải thích các yếu quyết trong cuốn bí kíp, chàng vui mừng vô cùng. Theo đúng họa đồ để luyện tập, chỉ tốn mất độ hai tiếng đồng hồ, chàng đã in sâu những hình đồ đó vào trong óc và thuộc lòng hết mọi miếng võ trong cuốn Bí kíp. Chàng quỳ xuống trước mộ Kim Xà Lang Quân vái hai cái ngụ ý cảm tạ ông ta đã để lại sách giáo thụ võ công cho mình. Khi sắp bước ra khỏi động, chợt nhìn lên vách đá thấy treo thanh bảo kiếm, chàng không cần nghĩ ngợi nhấc luôn khí giới báu đó xuống coi. Hình thù thanh kiếm đó lạ lùng lắm, không khác gì con rắn đang uốn mình, chỗ cán kiếm là đuôi rắn, còn chỗ mũi kiếm đó có hai cái rìa nhỏ.
Thừa Chí nhận thấy kiếm pháp rất lạ lùng cũng bởi thanh kiếm đó khác hẳn các thanh kiếm khác. Ngoài công dụng để đâm hoặc chém như mọi thanh kiếm khác, hai rìa ở đằng mũi kiếm còn dùng để móc và khóa khí giới của địch. Chợt nghĩ đến chàng Câm đứng chờ mình trên đỉnh núi, nếu lâu quá thế nào cũng lo ngại cho chàng liền cầm kiếm đi ra. Thấy gần cửa động có một viên đá lớn cản trở lối đi, chàng thuận tay múa kiếm phạt ngang một nhát. Ngờ đâu đá vụn bay tứ tung, viên đá ấy đã đứt làm đôi.
Không dè lưỡi kiếm đâm thẳng một nhát, chàng đã cắm ngập thanh kiếm vào trong tảng đá.
Thừa Chí mừng quá, vội bò ra. Vừa về tới nhà, đứng giữa một cái sân rộng, chàng múa Kim Xà kiếm, theo kiếm pháp Hoa Sơn. Múa một hồi, chàng thấy sử dụng thanh kiếm đó thuận tay lắm, đến khi múa kiếm pháp Thanh Sà lại còn thuận tay hơn. Trong một thời gian mười mấy ngày, Thừa Chí đã học hiểu nhiều miếng kiếm ghi lại trong Bí kíp, nhứt là việc sử dụng ám khí Kim Xà chủy lại càng tinh xảo vô cùng, chàng đã học được hết mọi bí quyết thủ pháp của môn đó. Chàng so sánh và nhận thấy tâm pháp ám khí của Mộc Tang đạo nhân và ám khí Kim Xà chủy tinh xảo ngang nhau. Mặc dầu Kim Xà Lang Quân không đi theo con đường chánh, nhưng vì ông ta có một bản lãnh kinh người nên Thừa Chí cũng phải khâm phục vô cùng.
Tới khi nghiên cứu đến ba trang cuối cùng trong cuốn Bí kíp, chàng phải rùng mình kinh hãi. Ba trang đó viết chi chít những khẩu quyết biến hóa thật kỳ ảo, xuất quỷ nhập thần, nhưng một phần khó hiểu quá, chàng không sao lĩnh hội nổi. Nghiên cứu trong hai ngày liền, chàng vẫn cảm thấy trong đó có nhiều chỗ mâu thuẫn, chắc thế nào cũng có sự bí ẩn gì đây.
Chàng xem kỹ lại lời dặn trong cuốn Bí kíp và mô tả lại các hình vẽ trên vách đá, nhưng cũng vẫn không thấu hiểu được. Vì vậy, đêm ấy nằm trằn trọc chàng không thể nào nhắm mắt. Thấy ánh sáng trăng rọi vào, chàng đếm đốt ngón tay tính nhẩm sư phụ xuống núi tới nay đã 28 ngày rồi chỉ còn hai ngày nữa là tới ngày mình phải hạ sơn.
Chàng nghĩ thầm: "Sư phụ có nói là Kim Xà Lang Quân là người rất kỳ dị, 3 trang cuối này có thể là ý gì khác chăng, chứ không phải là võ công gì."
Nghĩ như vậy chàng bèn không nghiên cứu thêm nữa, rồi chàng lại nghĩ, những võ học trong quyển sách này ác độc lắm lỡ nhỡ đẻ lọt vào tay bọn tà ma tàn ác thì hậu quả không thể lường được, thôi thì mình đã học thuộc hết rồi thì hủy nó đi, chàng bèn kéo ngọn nến lại gần châm vào cuốn sách, mấy tờ lụa mỏng bắt lửa cháy rất nhanh nhưng còng cái bìa không biết làm bằng thứ gì mà không chịu cháy, chàng bèn cầm lên định xé nhỏ nó ra rồi đốt luôn, nhưng mặc cho chàng đã dùng hết sức tới mấy trăm cân lực mà mảnh bìa chỉ hơi giãn ra chứ không rách. Ngạc nhiên vô cùng, chàng bèn xem xét thật kỹ thì thấy nó được làm từ một thứ tơ gì đó rất mịn và hình như là gồm hai lớp dán vào nhau, chàng bèn tìm cách tách nó ra, loay hay một lúc bỗng hai mảnh bìa rời ra và từ trong đó rớt xuống hai mảnh giấy.
Chàng nhặt lên xem chợt mừng rú lên, thì ra trong một mảnh giấy có chi chít những chữ nhỏ ly ti chỉ dẫn những điều khó hiểu ở 3 trang cuối của cuốn bí kíp, còn tờ giấy kia là một bản đồ chằng chịt có ghi chú tỉ mỉ, xem kỹ thì ra một bản đồ bảo tàng gì đó, chàng thở phào tự nhủ: "May mà cuốn sách này lọt vào tay mình chứ lọt vô tay người bình thường không chịu bõ công nghiên cứu tới cùng thì không sao được hướng bản đồ chôn giấu của báu ấy."
Nghĩ đoạn, chàng cất hai tờ giấy đó vào trong túi áo.
Hai ngày hôm sau, Thừa Chí thu xếp hành trang từ biệt chàng Câm để xuống núi.
Chàng Câm dắt hai con đười ươi tiễn ra tận lưng chừng núi. Thừa Chí ăn ở trên núi hơn mười năm trời, nay bỗng nhiên phải xa cách trong lòng rất áy náy khó chịu. Đại Oai và Tiểu Quái là những con vật rất thông minh, linh tính sẽ phải xa cách Tiểu chủ, nên chúng nắm tay chàng kêu chít chít, không chịu cho chàng lên đường. Thấy vậy, Thừa Chí không nỡ chia tay với hai con vật có nghĩa, liền quyết định cho chúng đi theo, và dùng tay ra hiệu cho chàng Câm biết rõ ý muốn của mình.
Lần đầu tiên xuống núi, Thừa Chí thấy cái gì cũng mới lạ cả. Vài hôm sau, đi tới tỉnh Sơn Tây, chàng thấy đâu đâu cũng có binh mã điều động và các cửa ả khám xét rất nghiêm ngặt. Các nghĩa quân nghe nói chàng tới kiếm Sấm Vương đều không dám cản trở và còn cho người đưa đường dẫn chàng tới trung quân của Lý Tự Thành. Thấy người hầu cận vào báo tin có đồ đệ của Mục Nhân Thanh xin vào ra mắt.
Sấm Vương dù đang bận việc quân cơ cũng phải thân hành ra đón tiếp. Cũng vì Mục Nhân Thanh khen đồ đệ của mình tài giỏi trước mặt mọi người, nên Sấm Vươngmới trọng dụng Thừa Chí như vậy. Nghe giọng nói của Lý Tự Thành, có vẻ ông ta muốn chiêu nạp Thừa Chí. Thấy Lý Tự Thành tuy ăn mặc mộc mạc, nhưng dáng điệu oai nghi, vẻ mặt hào hùng, Thừa Chí cũng phải phục thầm. Chàng được Lý tướng quân cho biết hiện giờ sư phục của chàng không có mặt tại đây vì ông ta có việc phải xuống Giang Nam. Chàng mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, nhờ có sư phụ nuôi nấng dạy bảo cho tới ngày nay, nên khi nghe thấy nói sư phụ vắng mặt, chàng có vẻ không vui. Chàng lại hỏi đến người bạn chi giao là Thôi Thu Sơn hiện có ở đây không?
Sấm Vương cho hay Thu Sơn đã theo Mục Nhân Thanh xuống Giang Nam quyên tiền để tiếp tế cho nghĩa quân rồi. Chàng trả lời là phải xuống miền Nam bẩm với sư phục trước, rồi mới dám trở lên phụ lực được. Sấm Vương không nài ép nữa, sai Tể tướng quân Lý Nham tiếp chàng dùng cơm.
Khi chàng lên đường xuống Giang Nam, Sấm Vương còn tặng cho mười lạng kim làm lộ phí. Chàng từ chối không được, đành phải nhận lấy. Thấy chàng chưa có kinh nghiệm sự đời, ăn mặc kỳ dị, lưng đeo quái kiếm, lại dắt hai con đười ươi theo, Lý Nham mới khuyên chàng gởi lại hai con đười ươi và cây kiếm Kim Xà để người đời khỏi dị nghị. Thấy Lý Nham có lòng tối khuyên bảo như vậy, chàng nghe lời, liền mặc trang phục nho sinh, giả dạng một vị tú tài, rồi mới cáo từ ra đi.
Hôm đó, chàng đi tới Ngọc Sơn thuộc tỉnh Giang Tây. Cơm nước xong, chàng mướn thuyền đi đường thủy. Ra tới bờ sông, thấy một chiếc thuyền lớn đậu tại đó, chàng lại hỏi mướn. Chủ thuyền cho hay, phú ông nọ đã thuê bao cả thuyền để xuống phủ Kim Hoa tỉnh Triết Giang chở hàng. Chàng xin đi nhờ và bằng lòng trả giá cao.
Chủ thuyền liền vào khoang hỏi ý kiến phú thương Long Đức Lân. Thấy Thừa Chí là tú tài, ăn nói nho nhã, Long Đức Lân bằng lòng ngay. Chủ thuyền đang nhổ neo khởi hành thì có một thiếu niên hấp tấp chạy tới, và lớn miệng kêu gọi:
- Ông chủ thuyền ơi! Tôi có việc gấp phải tới Cừ Châu, ông làm phúc cho tôi đi nhờ với.
Nghe thấy giọng nói thánh thót êm tai, Thừa Chí ngẩng đầu lên nhìn mặt người nọ. Chàng phải ngạc nhiên mà nghĩ thầm: "Trên thế gian này, sao lại có người đẹp trai đến thế?"
Người đó trạc độ 19 tuổi, lưng đeo một thanh trường kiếm.
Chủ thuyền liền đáp:
- Thuyền này đã có người thuê bao rồi, để tôi hỏi qua xem họ có bằng lòng không?
Chưa nói xong đã thấy chàng thanh niên nhún chân nhảy xuống thuyền, nhẹ nhàng như không, long đức lân thấy chàng ta dễ thương và mặt mày vui tươi nên cũng vui lòng đồng ý ngay.
Thuyền tách bến đi được một lát thì mọi người làm quen với nhau, chàng trai giới thiệu mình tên là Ôn Thanh, lúc đó mội người đang ngồi ở ngoài mui nói chuyện phiếm, bỗng dưng có bốn chiếc thuyền nhỏ xuôi dòng rất nhanh tản ra xung quanh thuyền rồi dừng lại và từ từ bám theo chiếc thuyền của mọi người, Thừa Chí lúc đó đang ngồi đối diện với chàng trai chợt thấy nét mặt chàng trai biến đi hiện lên một vẻ hung ác, tàn độc. Thừa Chí giật mình nghĩ: "Bộ mặt thanh tú thế kia, sao lại có nét mặt hung dữ đến thế?"
Hình như Ôn Thanh đã nhận thấy vẻ mặt ngạc nhiên của Thừa Chí, liền đổi sắc mặt, miệng tủm tỉm cười, đầy vẻ nhu mì khả ái. Mới bước chân vào đời, Thừa Chí đâu đã hiểu biết mọi bí ẩn của giang hồ. Thấy thái độ của Ôn Thanh và hành động của bốn chiếc thuyền nhỏ có vẻ khác thường, chàng tuy biết sắp có chuyện gì xảy ra nhưng không sao đoán nổi là chuyện gì!
Đến chiều tối, thuyền ngừng ở cạnh một thị trấn nọ, Thừa Chí muốn lên bờ dạo chơi, liền rủ hai người cùng đi cho vui. Vì bận trông coi hàng hóa, Đức Lân từ chối, còn Ôn Thanh thì tỏ vẻ khinh miệt:
- Nơi hoang vu này, có thắng cảnh gì đâu mà dạo chơi?
Giọng nói có vẻ chế nhạo Thừa Chí hãy còn ngây thơ. Mặc dầu Ôn Thanh có thái độ kiêu ngạo, khinh người quá mức, nhưng Thừa Chí vốn là người trung hậu thành cẩn, không vì thế mà tức giận, chàng chỉ mỉm cười, rồi một mình lên bờ vào trong phố tiêukhiển. Uống vài ly rượu, mua chút quà bánh, trái cây, chàng lại trở về thuyền. Thấy Đức Lân và Ôn Thanh ngủ rồi, chàng cởi áo đi nghỉ.
Khoảng nửa đêm, Thừa Chí bỗng nghe thấy tiếng còi ở đằng xa vọng lại. Chàng rất thính tai, vừa nghe tiếng động là tỉnh dậy liền. Chàng vừa mặc áo xong, đã nghe thấy tiếng bơi chèo từ miền hạ du tới. Lúc ấy Ôn Thanh đột nhiên ngồi dậy, thì ra hắn ngủ vẫn mặc cả áo ngoài, rút thanh kiếm dài ở trong chăn ra rồi nhảy ra đằng mũi thuyền. Thừa Chí giật mình, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ người thiếu niên tuấn tú kia lại là bọn tay sai của thủy tặc? Hắn lên thuyền làm nội ứng để cướp tiền bạc và hàng hóa của nhà buôn nọ? Nay ta đã gặp không thể nào khoanh tay không cứu giúp."
Vì Kim Xà kiếm hình thù quái dị mà chàng phải gởi lại trong quân trại của Sấm Vương, nên hiện trong lưng chàng chỉ có một con dao găm và mấy chục quân cờ cây.
Cầm dao găm ngồi dậy, chàng nghe thấy tiếng bơi chèo của chiếc thuyền nhỏ ở phía trước mặt càng ngày càng gần, rồi đột nhiên có tiếng nói thô lỗ phát ra từ đầu thuyền nhỏ nọ:
- Tên họ Ôn kia, ngươi có biết thế nào là nghĩa khí giang hồ không?
Ôn Thanh hét lớn:
- Biết thì sao? Và không biết thì sao?
Tên nọ đáp:
- Chúng ta đã tốn bao nhiêu công khó nhọc, theo dõi từ đây! Còn ngươi thì khôn ngoan lắm, giữa đường nhảy ra, định ăn cướp cơm chim phải không?
Lúc đó Long Đức Lân đã tỉnh dậy, nghe thấy tiếng nói ồn ào, vội ngó đầu ra coi.
Thấy bốn chiếc thuyền nhỏ, lửa đốt sáng choang, đầu thuyền chiếc nào cũng đứng đầy người cầm võ khí, hắn hoảng sợ đến nỗi run lẩy bẩy. Nghe hai bên đối đáp, Thừa Chí đã hiểu rõ sự thế, liền an ủi Đức Lân rằng:
- Không việc gì đến ông, ông đừng sợ!
Giọng nói run run, Đức Lân khẽ hỏi:
- Họ... họ... có phải chúng định đến cướp hàng hóa của tôi không?
Lại nghe thấy Ôn Thanh quát tháo:
- Tiền tài của thiên hạ, ai cũng có quyền hưởng. Chẳng lẽ số vàng cũng của các ngươi chắc?
Tên nọ trả lời:
- Ngươi đem hai nghìn lạng vàng đó ra đây, chúng ta chia đôi. Như vậy, chúng ta đã nể ngươi lắm rồi.
- Thôi! Câm đi! Các ngươi đừng có mơ tưởng hão huyền.
Hai tên đại hán đứng trên hai chiếc thuyền nhỏ khác liền nổi giận:
- Sa đại ca, hà tất phải phí lời nói với quân ngang ngược ấy làm gì?
Nói đoạn, cả hai tay cầm khí giới, nhảy sang chiếc thuyền lớn.
Nghe họ cãi vã, Long Đức Lân đã run sợ mất mật rồi, nay lại thấy hai người nhảy sang thuyền mình, Ông ta sợ quá lắp bắp, giọng run run:
- Viên... Viên tướng công ơi! Quân cướp... chúng sang tới... tới đây cướp...
Thừa Chí kéo hắn ẩn núp sau lưng vừa an ủi:
- Có tôi đây ông khỏi sợ!
Lúc ấy chỉ thấy Ôn Thanh hơi né mình phi luôn chân trái lên "Bõm!" một tiếng, chàng đã đá ngã người bên trái xuống sông. Chàng múa kiếm đỡ con dao của người bên phải chém tới. Chỉ nghe thấy "keng!" "phật!" hai tiếng, dao và bả vai của tên nọ đều bị chặt đứt. Rồi y ngã nằm chết ngất trên mũi thuyền. Ôn Thanh cười nhạt một tiếng, rồi gọi vọng sang thuyền bên kia:
- Bớ Sa lão đại! Từ nay ngươi đừng để cho những đồ chuột lắt ấy ra đối chọi với đời, toi mạng một cách vô ích nhé!
Tên đại hán phía trước mặt "hừ!" một tiếng, rồi dõng dạc bảo các bộ hạ:
- Chúng bay sang khiêng lão Lý về đây.
Hai tên ở thuyền nhỏ nhảy sang khiêng tên bị cụt tay về. Không bao lâu tên bị đá ngã xuống sông cũng lóp ngóp bò lên thuyền nhỏ, mình mẩy ướt như chuột lột.
Sa lão đại lại lên tiếng:
- Bang "Long Du" ta với phái "Thạch Lương" nhà ngươi vốn xưa nay không có thù hằn gì. Ông chủ chúng ta chỉ nể mặt ông Tổ thứ năm ngươi đó thôi, chớ ngươi đừng có tưởng lầm ta hèn nhát đâu nhé.
Nghe thấy nói tới phái Thạch Lương, Thừa Chí giựt mình kinh ngạc, nghĩ thầm: "Bữa nọ, tên Trương Xuân Cửu lẻn lên núi Hoa Sơn ăn trộm kiếm pháp, chả phải là người của phái Thạch Lương là gì?"
Chàng lại nghe thấy Ôn Thanh nói:
- Ngươi nói thế để lấy lòng ta, tại các ngươi không địch nổi ta chớ gì?
Sa lão đại nổi giận:
- Chẳng hay ngươi có chịu tuân theo luật lệ của giới giang hồ không?
- Ta muốn sao làm vậy, ngươi không được phép lý với ta.
- Này, ta "tiên lễ hậu binh" trước. Sau này Ngũ tổ nhà ngươi không còn trách cứ ta cậy nhiều người bắt nạt một người bé bỏng thế cô nữa nhé!
Nghe lời nói của Sa lão đại, Thừa Chí hiểu ngay tên tướng cướp này có vẻ kính nể sợ oai Ngũ tổ nào đó của Ôn Thanh. Cười nhạt một tiếng, Ôn Thanh trả lời:
- Cậy có miếng võ quèn của nhà ngươi, mà cũng đòi bắt nạt ta ư?
Thấy hai bên càng nói càng găng, Thừa Chí biết trận xung đột tất không sao tránh khỏi. Chàng nghĩ thầm: "Nếu theo lời của chúng, thì có lẽ Bang "Long Du" muốn cướp số vàng kết sù nào đó, nhưng Ôn Thanh bỗng giữa đường phỗng tay trên nên Bang nọ không chịu phục liền đuổi theo và đòi chia đôi tang vật. Vì thế, lúc Ôn Thanh xuống thuyền mang trong người hai nghìn lạng vàng, mới nặng trĩu như vậy. Xét ra cả hai đều không phải chánh nhân quân tử, ta cứ giả dạng không biết võ nghệ chỉ khoanh tay đứng xem chớ không giúp ai cả."
Chàng đang nghĩ ngợi thì hai bên bắt đầu đánh nhau.
Sau một tiếng thét lớn, Sa lão đại và hơn mười tên đại hán ở bốn chiếc thuyền lớn.
Sa lão đại, tay cầm đại hoàn đao, đứng trước mặt mọi người, chắp tay vái chào, rồi nói với Ôn Thanh:
- Ta biết bọn đàn em của ta không địch nổi nhà ngươi, nên Sa lão đại này muốn tiếp vài hiệp kiếm thuật Ngũ Phượng phái Thạch Lương nhà ngươi, mà võ công đã từng khét tiếng là có một không hai ở miền Giang Nam.
Ôn Thanh trả lời:
- Ngươi muốn một mình đối địch với ta hay là cả bọn cùng ùa vào đánh?
Sa lão đại ngửng đầu, cười ha hả:
- Nhà ngươi khinh người quá! Trong thuyền này còn có quý bạn nào xin ra làm chứng hộ cho, kẻo sau này các bạn giang hồ lại bảo rằng ta không biết xấu hổ là gì.
Lão quay vào trong thuyền rồi lớn tiếng gọi:
- Mời hai bạn ngồi trong kia ra đây!
Hai tên đại hán liền bước vào trong khoang nói với Thừa Chí và Long Đức Lân:
- Đại ca chúng tôi xin mời hai ông ra ngoài chứng kiến cuộc đấu.
Thấy Đức Lân run lẩy bẩy, không dám lên tiếng, Thừa Chí liền bảo:
- Họ chỉ mời chúng ta ra làm chứng thôi, chắc không có việc gì quan trọng đâu. Thôi! Chúng ta ra ngay đi.
Nói đoạn, chàng kéo tay Đức Lân, cùng ra ngoài mũi thuyền.
Ôn Thanh có vẻ lo ngại, cười nhạt nói:
- Nếu nhà ngươi muốn có người coi để tự bêu xấu mình thì đừng có trách ta ra tay quá mạnh nhé! Hãy coi chừng.
Sở Lão Đại chưa kịp nói năng gì, thì Ôn Thanh đã đâm luôn hai nhát kiếm vào bả vai và mạng mỡ bên trái của hắn rồi. Mặc dầu thân hình lớn quá cỡ, Sa lão đại vẫn lanh lẹ vô cùng. Hắn quay ngược sống đao đỡ hai nhát kiếm rồi dùng miếng "Thiết Ngưu Đỉnh Cảnh" bổ thẳng vào đầu Ôn Thanh.
Vừa tránh mấy miếng kiếm của địch, vừa múa đao tấn công luôn, lão Đại quả tài nghệ phi thường. Hắn có vị nể phần nào, mới dùng sống đao, chớ không tấn công bằng lưỡi đao rất sắc bén.
Ôn Thanh quát lớn:
- Ngươi có tài ba gì cứ việc giở hết ra, chớ ta không thèm cám ơn tấm lòng tốt giả dối ấy đâu!
Chàng vừa nói vừa tấn công rất ráo riết. Chỉ hớ hênh có một chút, Sa lão đại đã bị đâm trúng một nhát kiếm vào vai. Nhưng cũng may mũi kiếm chỉ rách một mảnh áo thôi chớ không gây thương tích nào cả. Tuy vậy, Lão Đại cũng hoảng hồn và phải cẩn thận khi đánh chớ không dám chểnh mảng khinh thường như trước nữa. Tuy nhiên võ công của Lão Đại cũng hiểm độc vô cùng, nhưng vẫn địch không nổi kiếm pháp lanh lẹ của Ôn Thanh. Chẳng bao lâu, Lão Đại đã bị luồng ánh sáng kiếm bao vây kín mít dù gió cũng không lọt nổi.
Thừa Chí đã nhận thấy võ nghệ của Ôn Thanh trên Sa lão đại nhiều. Càng đánh, lão Đại càng thấy thở mạnh và mồ hôi ướt đầm áo ngoài. Bỗng nhiên Ôn Thanh thét lên một tiếng, chàng đã đâm trúng một mũi kiếm vào đùi lão Đại. Biến sắc mặt, lùi lại một bước, lão Đại vung tay ném luôn một lúc ba cái Thấu Cốt đinh. Ôn Thanh dùng kiếm gạt rơi hai cái, còn một cái thì chàng phải né mình mới tránh khỏi. Một trong hai cái đinh bị chàng gạt ra bắn thẳng vào ngực Thừa Chí.
Thấy lỡ tay hại nhầm người khác, Ôn Thanh kinh hãi, rú lên một tiếng. Chàng mục kích rõ rệt mũi đinh ấy phóng thẳng vào ngực Thừa Chí mà chàng ta vẫn đứng yên, không biết né tránh hoặc đón đỡ gì cả. Như vậy ám khí đó thế nào chẳng xuyên thủng ngực chàng ta rồi!
Vừa rú xong, Ôn Thanh định nhảy lại cứu giúp, ngờ đâu mũi đinh ấy đã chạm vào người Thừa Chí và rơi xuống dưới ván thuyền rồi. Bị trúng ám khí mà Thừa Chí vẫn thản nhiên, hình như không hay biết gì cả. Mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau không hiểu tại sao một viên tú tài trông tầm thường như thế mà nội công lại cao siêu đến mức đao thương chém không nổi? Nhưng bọn họ có biết đâu, sở dĩ mũi đinh không xuyên qua được ngực Thừa Chí là vì chàng mặc chiếc áo cánh hộ thân do Mộc Tang đạo nhân tặng cho.
Thấy Ôn Thanh đang ngơ ngác nhìn Thừa Chí, không chút đề phòng, Sa lão đại liền phóng luôn ba cái Thấu Cốt đinh nữa. Nghe thấy tiếng động Ôn Thanh quay lại, trông thấy ám khí đã tới gần liền cúi đầu để tránh. Nhưng chỉ tránh được mũi đinh bắn phía trên, còn hai mũi đinh phía dưới thì tránh không kịp. Chàng đã yên trí phen này bị chết oan tại nơi đây, nhưng lạ thay, bỗng có một mũi đinh ở bên cạnh bắn tới, trúng ngay mũi đinh thứ hai, rồi mũi thứ hai lại đụng phải mũi thứ ba, thế là ba mũi đinh cùng rơi cả xuống, không mũi nào trúng vào người chàng cả.
Đưa mắt nhìn ngang, chàng biết ngay người ném mũi đinh để cứu mình chính là Thừa Chí. Thì ra, Thừa Chí thấy Sa lão đại dùng thủ đoạn đê hèn chực hãm hại Ôn Thanh, chàng mới nhặt mũi đinh rơi trước mặt và phóng ra cứu chàng thanh niên nọ thoát chết.
Ôn Thanh khẽ gật đầu tỏ vẻ cảm tạ rồi múa kiếm nhắm lão Đại đâm tới.
Thấy lão Đại đê hèn vô sỉ, phen này Ôn Thanh không chút nể nang, đánh miếng kiếm nào cũng hiểm độc vô cùng. Mới được vài hiệp, lão Đại đã bị đâm trúng một mũi kiếm vào hông bên phải, rồi "keng" một tiếng, thanh đao đã rơi xuống ván thuyền.
Chàng tiến lên một bước, bồi thêm một nhát vào đùi bên phải kẻ địch. Sa lão đại thét lên một tiếng ngã ra chết ngất. Mấy tên thủ hạ của hắn quên cả sợ hãi bảo nhau chạy lại cứu chủ. Nhưng Ôn Thanh khi nào chịu để cho chúng thi hành theo ý muốn, chỉ vài lần vung kiếm lên chàng đã giết chết tới bảy tám mạng rồi.
Thấy giết chết nhiều người quá, Thừa Chí không thể làm ngơ, liền lên tiếng khuyên ngăn:
- Thôi! Ôn đại ca. Tha chết cho chúng!
Ôn Thanh không chịu ngừng tay, lại giết thêm hai tên nữa. Các đại hán khác thấy chàng hung dữ quá liền nhảy xuống sông tẩu thoát. Thuận tay, chàng ném một nhát, chặt đầu Sa lão đại, rồi giơ chân trái, đá luôn thi hài kẻ địch xuống sông. Thấy Ôn Thanh tàn nhẫn quá, Thừa Chí trong dạ không vui, nghĩ thầm: "Người đã đắc thắng, hà tất phải tàn nhẫn đến thế!"
Chàng quay lại nhìn Đức Lân, thấy hắn sợ hãi đến nỗi nằm yên, không dám cựa quậy. Bọn thủ hạ của phái Long Du bơi thoát tới giữa sông, leo lên thuyền nhỏ rồi chèo thuyền chạy như bay về miền hạ du.
Thừa Chí thấy bọn chúng đã đi xa rồi, liền bảo với Ôn Thanh:
- Chúng định cướp vàng bạc của đại ca nhưng không cướp nổi thì thôi, tha cho chúng hà tất đại ca phải tàn sát nhiều sanh mạng như thế?
Ôn Thanh trợn mắt lườm:
- Thế đại huynh không thấy chúng vừa giở thủ đoạn ác độc hay sao? Nếu tôi thua chúng có lẽ còn bị thảm khốc hơn thế này nữa. Đừng tưởng có ơn cứu sống tôi mà huynh đã vội lên mặt là thầy dạy đời ngay, tôi không thích nghe đâu nhé.
Thấy Ôn Thanh cãi bướng như vậy, Thừa Chí không dám nói nữa. Lau chùi máu trên kiếm xong, Ôn Thanh tra kiếm vào bao rồi cúi chào Thừa Chí, miệng cười tươi như đóa hoa:
- Viên đại ca, vừa rồi đại ca đã cứu tôi, tôi rất cám ơn.
Thừa Chí mặt đỏ bừng, cúi đầu đáp lễ nhưng không nói được nửa lời. Chàng chỉ cảm thấy chàng thanh niên nọ, lúc thì nhu mì như một thiếu nữ, lúc lại hung ác hơn cả sói lang và không sao hiểu thấu nổi cái tánh của y ra sao?
Ôn Thanh gọi lái đò rửa sạch những vết máu còn dính trên ván thuyền và cho nhổ neo ngay. Tên lái đò không dám trái lời liền nhổ neo, dương buồm, cho thuyền đi ngay lúc đêm khuya. Ôn Thanh gọi chủ thuyền dọn thức ăn và rượu ra đầu thuyền để cùng Thừa Chí thưởng nguyệt ngắm cảnh. Chàng không nhắc nhở đến chuyện ác chiến vừa rồi, và cũng không đàm luận võ công với Thừa Chí. Sau khi uống cạn vài chén, chàng lên tiếng nói:
- Ngày mai kia bao giờ sẽ tới? Nâng ly này ta hỏi ông Xanh. Nhưng ông Xanh chỉ làm thinh, chắc không thể nào giải đáp nổi!
Bỗng nhiên thấy Ôn Thanh giở văn chương ra, Thừa Chí chỉ ừ ừ à à để ứng đáp thôi, vì hồi nhỏ, tuy chàng có theo học Ứng Tòng vài năm, nhưng từ khi lên núi Hoa Sơn theo Mục Nhân Thanh học võ đến giờ, đêm tối, thỉnh thoảng cũng có giở sách ra coi lại, nhưng không phải là môn học chánh, cho nên sức học của chàng cũng thường thường vậy thôi, Ôn Thanh lại hỏi:
- Viên huynh, trăng thanh gió mát, đêm đẹp thế này, anh em ta cùng nhau làm thơ nhé?
- Quả thật, đệ không biết một tí gì về văn thơ cả.
Ôn Thanh mỉm cười không nói nữa. Hai người lại tiếp tục rót rượu ra uống bỗng thấy phía trước mặt có một chiếc thuyền nhỏ đang rẽ sóng bơi tới. Tuy nước chảy ngược mà thuyền đó vẫn đi nhanh vô cùng. Biến sắc mặt, cười nhạt vài tiếng, Ôn Thanh lại tiếp tục rót rượu ra uống.
Thuyền của Thừa Chí thuận buồm xuôi gió, cũng đi nhanh vô cùng, chỉ trong chớp mắt, đã tới cạnh thuyền nhỏ, Ôn Thanh vứt chén rượu xuống, bỗng nhảy phắt lên, hai chân chỉ khẽ đụng mui thuyền một cái, đã nhảy tới phía đuôi thuyền rồi. Chàng dằng lấy chiếc bơi chèo của tên lái đò, và chỉ chèo một cái, chiếc thuyền đã sang phía trái, đâm thẳng vào chiếc thuyền nhỏ kia. Thuyền nhỏ muốn tránh nhưng đã muộn rồi "sầm" một tiếng, chiếc thuyền nhỏ lật ngược, đáy thuyền chổng lên mặt nước. Thấy vậy, Thừa Chí vội kêu lên:
- Nguy to!
Ba người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ đã nhảy sang mũi chiếc thuyền lớn trước khi thuyền của họ bị đắm. Thân pháp nhanh nhẹn của họ đã chứng tỏ cả ba đều có võ công thượng thặng. Trước khi chiếc thuyền nhỏ tới gần, Thừa Chí thấy trên thuyền có tất cả năm người, nay chỉ thấy có ba người nhảy sang được bên này, còn người bơi chèo và người cầm lái có lẽ võ nghệ kém hơn, nên học đã bị ngụp theo thuyền. Vì nước chảy mạnh quá, cả hai chỉ nhô lên kêu được mấy tiếng: "Cứu tôi với!" rồi cùng bị chìm lỉm xuống đáy sông ngay. Chắc hai người đó rủi nhiều hơn may nên đều bị sóng nước lôi cuốn đi mất.
Thừa Chí đang rủa thầm Ôn Thanh quá ác độc nhưng trong lúc đó chàng lại thấy hai nạn nhân nhô lên một lần nữa. Không để lỡ dịp, chàng giựt đứt dây thừng buộc buồm, miệng ngậm đầu dây, hai chân nhún một cái, nhảy thẳng xuống sông chỗ hai người đang lâm nạn. Chỉ trong nháy mắt, mỗi tay nắm tóc một người, chàng mượn sức dây thừng cột buồm đang cắn chặt trong mồm, văng mạnh một cái, đã xách được hai người kia trở về thuyền lớn. Thân pháp của chàng xảo diệu tuyệt luân khiến mọi người phải vỗ tay khen ngợi. Lúc đó Ôn Thanh đã trở về mũi thuyền. Thừa Chí đặt hai người ở ván thuyền rồi ung dung ngồi xuống ghế, người không bị ướt một tí nào. Dưới ánh sáng trăng, chàng thấy ba người kia là một ông cụ già gầy gò tuổi ngoài năm mươi, để râu xồm nhưng rất thưa, một người là đại hán tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình vạm vỡ, còn một người nữa là một đàn bà tuổi trạc ba mươi. Ông già nọ tủm tỉm cười và hỏi:
- Tài ba của lão đệ cao siêu lắm, xin hỏi quí tánh đại danh là gì, tôn sư là vị nào?
Thừa Chí rất cung kính đứng dậy vái chào và đáp:
- Tiểu bối họ Viên, vì thấy hai vị này rớt xuống nước trông rất tội nghiệp nên tiểu bối mới xuống lôi họ lên, chứ không dám biểu diễn võ công trước mặt lão Tiền bối. Xin lão Tiền bối lượng thứ cho.
Ông già nọ thấy Thừa Chí lễ phép như vậy, ngạc nhiên vô cùng, cười nhạt một tiếng, rồi quay lại nói Ôn Thanh rằng:
- Thảo nào thằng nhỏ này càng ngày càng táo gan, thì ra mi đã có người giúp sức, y có phải là bồ của mi không?
Ôn Thanh mặt đỏ bừng, lớn tiếng đáp:
- Tôi đã tôn ông làm bề trên, mà ông lại ăn nói chả lễ phép tí nào.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Bọn người này, chắc không phải là chính nhân quân tử đâu, ta hà tất phải dây dưa vào làm chi?"
Nghĩ đoạn, chàng liền lớn tiếng nói tiếp:
- Tại hạ với Ôn huynh đây mới quen biết nhau thôi, chưa thể nói là bạn chí thân được. Tôi xin khuyên quí vị một câu, có việc gì cứ nói trắng ra để thương lượng với nhau khỏi mất hòa khí.
Ông già chưa kịp đáp, Ôn Thanh đã trợn trừng mắt lên nhìn chàng giận dữ nói:
- Nếu bạn sợ, thì bạn cứ việc lên bờ mà đi đi, đừng có can thiệp vào việc của tôi nữa.
Thấy Ôn Thanh bướng bỉnh như vậy, Thừa Chí lại nghĩ thầm: "Sao thiên hạ lại có người bướng bỉnh như thế này?"
Nghĩ xong, chàng không nói năng gì hết, cứ đứng yên ở đó. Nghe giọng nói của Thừa Chí, ông già mới hay chàng không phải là người cùng bọn với Ôn Thanh, trong lòng mừng thầm, rồi nói tiếp:
- Bạn họ Viên không phải là người cùng phe với người họ Ôn đây thì hay lắm, chờ việc của lão xong, lão sẽ cùng bạn chuyện trò và kết giao với nhau một phen.
Nghe giọng nói của ông ta thì hình như ông ta có ý muốn làm bạn với Thừa Chí.
Thừa Chí không trả lời, chỉ vái chào một cái, rồi lui bước, đứng ở phía sau Ôn Thanh.
Ông già nọ quay lại hỏi Ôn Thanh rằng:
- Mi ít tuổi như vậy mà sao tâm địa lại ác độc đến thế? Sa lão đại đã bị mi đánh bại rồi thì thôi chứ, sao mi lại còn muốn giết chết y?
Ôn Thanh đáp:
- Tôi chỉ có một thân một mình, bên các người có bấy nhiêu đại hán cùng xông lên một lúc, tôi không ra tay ác độc như thế nào được. Thế mà ông còn nói, ông không sợ người khác cười ông thị lớn bắt nạt nhỏ thị nhiều hà hiếp ít hay sao? Y tài ba gì mà lại cướp số vàng của tôi đã lượm được. Thật không biết xấu hổ chút nào.
Thừa Chí nghe giọng chàng ta rất thanh thót và thao thao bất tuyệt, nói cho ông già không còn cãi vào đâu được.
Người đàn bà trong bọn ba người đột nhiên trợn ngược đôi lông mày lên mắng chửi:
- Thằng nhỏ kia, người được bề trên nuông chiều hóa vô lễ phép như vậy, để ta thử đi hỏi ông ngươi và mẹ ngươi xem, ai đã dạy ngươi hỗn láo như vậy.
Ôn Thanh không chịu lép vế chút nào liền trả đũa ngay:
- Người bề trên phải biết làm bề trên thì người dưới mới tôn kính chứ cứ thị kẻ cả mà cướp của người ta đã kiếm sẵn như vậy, thì người nào cũng không thể chịu nhịn được.
Ông già cả giận giơ tay lên đập mạnh vào cái bàn ở trên mũi thuyền. Khi ông ta rút tay lại, thì mặt bàn đó đã bị lõm vào một miếng. Và tay của ông ta đã cầm miếng gỗ thủng trên mặt bàn rồi, đủ thấy tay của ông ta cứng rắn không kém gì gang sắt. Tiếp theo đó, ông già bóp mạnh một cái, miếng gỗ ấy vụn như cám ngay.
Ôn Thanh lại nói tiếp:
- Võ công của huynh lão gia cao siêu như thế nào, tiểu bối được biết đã lâu, hà tất phải biểu diễn lại ở trước mặt tiểu bối như thế, nếu lão gia muốn biểu diễn võ công, thì biểu diễn cho các ông tôi xem có hơn không?
Ông già cả giận đáp:
- Mi đừng có đem mấy ông của mi ra dọa nạt người, các ông của mi thì làm gì được ai, nếu các ông ấy có tài ba thật sự thì con gái đâu đến nỗi bị người ta dầy vò mà đẻ ra mi, đứa con hoang như vậy.
Ôn Thanh không sao nhịn được nữa, mặt biến sắc, đôi mắt như đổ lửa. Trái lại, đại hán nọ với người đàn bà kia thì cười ha hả đắc chí vô cùng.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh nước mắt nhỏ giọt xuống hai bên má, trông rất tội nghiệp, chàng liền nghĩ thầm: "Người này hành sự lão luyện hơn ta, sao hở tí lạ khóc lóc như thế. Lời nói của ông già kia vừa nói, thì hình như mẹ của chàng ta bị người cưỡng dâm mới sinh ra chàng ta."
Chàng thấy Ôn Thanh bị người hà hiếp lại nổi lòng hào hiệp, chỉ muốn ra tay trợ giúp luôn.
Ông già âm thầm nói tiếp:
- Khóc làm gì, có mau đưa số vàng cho ta không? Không phải chúng ta thèm số vàng ấy đâu, ta chỉ muốn đưa số vàng đó cho quả phụ họ Sa làm tiền tử tuất thôi.
Ôn Thanh tức giận đến chân tay mình mẩy run lẩy bẩy, vừa khóc vừa đáp:
- Các ngươi muốn giết ta thì giết đi, ta không đưa số vàng ấy đấy!
Đại hán nọ kêu hừ một tiếng, y thấy chiếc thuyền lớn tuy đã hạ buồm rồi mà vẫn theo nước trôi xuống miền xuôi, liền cầm cái neo bằng sắt thật lớn để đằng mũi giơ lên múa một vòng và ném luôn vào trong bờ. Cái neo bằng sắt cả xích nặng hơn hai trăm cân, mà y cầm lên múa tít lại còn ném xa được như vậy đủ thấy y khoẻ biết bao. Cái neo đó rớt xuống mặt đất liền cắm sâu vào, nhờ vậy chiếc thuyền ngừng ngay lại không trôi nữa.
Đại hán nọ lại lớn tiếng hỏi tiếp:
- Thế nào mi có đưa số vàng đó ra không?
Ôn Thanh giơ tay trái lên lau chùi nước mắt và đáp:
- Được, ta đưa số vàng đó cho các ngươi.
Nói xong, chàng chạy vào trong khoang ôm một cái bọc áo ra, bọc ấy có vẻ nặng trĩu.
Đại hán nọ đang định giơ tay ra đỡ thì chàng quát bảo lại ngay:
- Hừ, làm gì có chuyện dễ thế.
Nói xong, chàng ném ngay bọc áo ấy xuống dưới lòng sông kêu đến bõm một tiếng rồi chàng la lớn:
- Các ngươi có giỏi thì giết chết ta đi! Chứ muốn lấy số vàng đó thì đừng có hòng.
Đại hán nọ tức giận vô cùng múa đao xông lại chém Ôn Thanh ngay.
Ôn Thanh vứt xong bọc áo đã rút kiếm ra cầm sẵn nơi tay và không đợi chờ đại hán chém mình, đã múa kiếm đâm hai thế trước.
Ông già nọ liền lớn tiếng quát bảo:
- Hãy ngừng tay lại!
Đại hán nhảy sang bên hai bước để tránh né, ông già nọ đưa mắt liếc nhìn Ôn Thanh rồi cười nhạt nói tiếp:
- Quả thật rồng đẻ ra rồng, phượng sinh ra phượng, có người cha như vậy mới có người con như thế này, nếu ngày hôm nay lão để cho mi vô lễ như vậy, lão không còn là họ Vinh nữa.
Không thấy y nhún vai gì cả mà đã đột nhiên nhảy tới trước mặt Ôn Thanh liền.
Thấy Ôn Thanh múa kiếm đâm tới, ông già không sợ hãi chút nào, tay không xông vào tấn công luôn. Chưởng lực của y khá lợi hại thật, tuy Ôn Thanh có kiếm ở trong tay nhưng vẫn bị y đẩy lui mấy bước.
Thấy ông già vừa ra tay một cái, Thừa Chí đã biết Ôn Thanh địch không nổi rồi.
Quả nhiên hai người mới đấu được mười mấy hiệp, hổ khẩu tay phải của Ôn Thanh đã bị ông già điểm trúng, nên chàng thấy tay mình xuội lơ và trường kiếm của chàng cũng bị rớt ngay xuống kêu leng keng mấy tiếng!
Ông già vội dùng đầu ngón chân khẽ hất một cái, thanh kiếm Ôn Thanh lại bay tung lên, rồi ông ta giơ tay trái ra chộp lấy cán kiếm và tay phải thì nắm mũi kiếm và bẻ luôn thanh kiếm đó gãy làm đôi tức thì.
Ôn Thanh thấy vậy giật mình kinh hãi, ông già nọ lại quát lớn:
- Không ghi dấu hiệu ở trên người mi thì chắc mi lại quên tài ba của lão phu lợi hại như thế nào.
Nói xong, ông ta cầm thanh kiếm gãy đưa vào mặt Ôn Thanh rạch luôn.
Ôn Thanh hoảng sợ la lớn một tiếng. Thừa Chí thấy vậy nghĩ thầm: "Nếu ta không ra tay cứu giúp thì bộ mặt đẹp của chàng sẽ bị hủy ngay..."
Chàng vừa nghĩ vừa móc túi lấy ra một quân cờ ra nhằm cán kiếm của ông già đang cầm ném luôn!
Ông già đang mừng thầm, yên chí phen này mình thế nào cũng rạch được mặt của thằng nhỏ kia. Ngờ đâu, bỗng có tiếng kêu "coong" y thấy tay bị rung động rất mạnh và cán kiếm y đang cầm đã bị một ám khí ném trúng. Tuy ám khí đó rất nhỏ nhưng sức ném mạnh khôn tả, nên y không sao cầm vững được thanh kiếm nữa, và hổ khẩu tay đau nhức vô cùng. Thế là thanh kiếm gãy đó liền rớt ngay xuống boong thuyền.
Ôn Thanh đang hãi sợ đến mất hết sắc mặt, thấy vậy đã mừng rỡ hô lớn lên được và nhảy ngay tới phía sau Thừa Chí nắm cánh tay chàng, hình như muốn nhờ chàng bảo vệ cho vậy.
Ông già nọ họ Vinh tên là Thái là Bang chủ của Long Du bang, xưa nay vẫn xưng hùng xưng bá ở vùng Triết Nam này (miền nam tỉnh Triết Giang) ngoài Ngũ tổ của phái Thạch Lương ra, thì miền này không ai địch nổi y nữa.
Xưa nay y đấu với người không bao giờ dùng khí giới cả, vì y đã luyện thành công môn Đại Lực Ưng Trảo công, mười ngón tay của y còn lợi hại hơn cả dao kiếm.
Ngờ đâu bây giờ, Thừa Chí chỉ ném có mũi ám khí nhỏ nhỏ mà đã đánh rớt được thanh kiếm của y đang cầm, nên y cho việc này là việc nhục nhã nhất trong đời. Lúc ấy y hổ thẹn đến mặt đỏ bừng, đồng thời trong lòng cũng kinh hãi và nghĩ thầm: "Sao kình lực của thằng nhỏ này lại mạnh đến thế."
Đại hán nọ với người đàn bà kia thấy Thừa Chí có bản lãnh kinh người như vậy cũng nghĩ thầm: "Đằng nào thằng nhỏ nọ đã vứt số vàng xuống dưới sông rồi, hôm nay có một tay tài ba như vậy đỡ đầu cho y thì dù sao chúng ta cũng không làm gì nổi y đâu. Chi bằng nói vài câu lấy lại sĩ diện rồi rút lui ngay có hơn không?"
Nghĩ xong, người đàn bà liền lớn tiếng nói:
- Lão gia chúng ta đi thôi, ngày hôm nay nể mặt bọn họ Viên kia, chúng ta tha chết cho thằng nhãi một phen vậy.
Ôn Thanh vội đỡ lời:
- Thấy người ta tài giỏi thì muốn rút lui ngay, chuyên môn bắt nạt người yếu, sợ người giỏi như vậy, thật không biết xấu hổ chút nào.
Thừa Chí nghe thấy chàng ta nói như vậy, cau mày lại nghĩ thầm: "Chàng này lẹ thật, vừa mới thoát hiểm mà đã giở những lời mỉa mai như thế ra rồi, thật không còn biết nể nang ai cả."
Người đàn bà nọ hổ thẹn vô cùng, ra tay đấu sợ địch không nổi Thừa Chí, mà không ra tay đấu thì biết mất hết sĩ diện nhưng Vinh Thái một tay lão luyện nên y vừa mỉm cười vừa hỏi Thừa Chí rằng:
- Lão đệ võ công cao siêu thật, lão này nhân lúc gió mát trăng thanh này cùng lão đệ đấu chơi vài hiệp quyền chưởng, chẳng hay lão đệ có vui lòng tiếp tay lão phu không?
Y yên chí dùng Đại Lực Ưng Trảo công mà y đã tu luyện ngót hai mươi năm, dù Thừa Chí có giỏi đến đâu cũng không thắng nổi môn võ công ấy của y.
Thừa Chí thấy đối phưong thách đố như vậy, liền nghĩ thầm: "Ra tay đấu với y chưa chắc ta đã thua đâu, nhưng đấu như vậy tức là đi vào cùng phe với Ôn Thanh rồi, thanh niên này hẹp lượng, giảo hoạt và điêu ngoa như thế chưa chắc là bạn tốt, như vậy ta hà vì y mà kết thù kết oán với ông già họ Vinh kia làm chi."
Nghĩ đoạn, chàng liền chắp tay chào đáp:
- Tiểu bối mới bước chân vào giang hồ không biết trời cao đất rộng gì cả, mà cũng chỉ biết đôi chút võ công mọn thì đâu dám đối địch với lão tiền bối như thế.
Vinh Thái mỉm cười nghĩ thầm: "Thiếu niên này cũng biết điều đấy."
Nghĩ như vậy, y liền đáp:
- Lão đệ khiêm tốn quá!
Nói xong, y lườm Ôn Thanh một cái, rồi nói tiếp:
- Thế nào cũng có một ngày lão phu cho mi biết tài ba lợi hại của lão phu như thế nào.
Y quay đầu lại bảo đại hán với thiếu phụ kia rằng:
- Chúng ta đi thôi!
Ôn Thanh vội nói với theo:
- Tài ba của ông lợi hại như thế nào, tôi đã biết rồi, thấy võ công của người ta giỏi không dám ra tay đấu, lại còn giả bộ nói vài câu để sĩ diện nữa.
Chàng đáo để thật, cứ muốn khiêu khích đôi bên đấu với nhau, vì chàng đã nhận thấy võ công của Thừa Chí cao siêu hơn, chắc thế nào cũng thắng nổi ông già. Vinh Thái nghe thấy Ôn Thanh nói như vậy, hổ thẹn vô cùng và cả Thừa Chí cũng bực mình nốt.
Vinh Thái giận dữ đáp:
- Bạn họ Viên tuy hãy còn trẻ nhưng là người rất biết điều, thôi được bạn lại đây, chúng ta đấu chơi vài hiệp với nhau bằng không kẻ vô tri lại bảo lão nhút nhát đấy.
Thừa Chí vội đỡ lời:
- Bạn ấy nói đùa đấy, lão tiền bối chấp nhất làm chi.
Vinh Thái nói tiếp:
- Lão đệ cứ yên tâm, lão phu không đánh thật đâu.
Ôn Thanh lạnh lùng xen lời nói:
- Còn nói là không sợ thế sao không ra tay đấu đi, chưa đấu mà đã vội lấy lòng người trước, nếu vậy, đừng đấu nữa có hơn không. Thật tôi bấy nhiêu tuổi đầu mà chưa hề thấy ai lại khéo ăn khéo nói như vậy...
Vinh Thái cả giận liền múa chưởng tấn công vào Thừa Chí luôn.
Nhưng tay y chưa đánh tới mặt đối phương đã vội thâu lại ngay, mồm thì nói lớn:
- Nào bạn họ Viên lại đây để lão thỉnh giáo những thế võ cao siêu của bạn nào.
Tới lúc này Thừa Chí không thể nào từ chối được nữa, chàng đành phải cởi áo dài ra, rồi nói:
- Lão tiền bối nương tay cho nhé!
Vinh Thái đáp:
- Lão đệ khéo ăn nói lắm, xin cứ tấn công đi.
Thừa Chí biết còn khiêm tốn nữa thì đối phương sẽ hiểu lầm mình khinh người liền, nên chàng vội giở Ngũ Hành quyền ra nhằm ngực Vinh Thái tấn công luôn.
Bọn Vinh Thái ba người tưởng Thừa Chí thế nào cũng có những thế võ độc đáo ngờ đâu vừa ra tay, chàng lại sử dụng Ngũ Hành quyền một môn võ tầm thường trong võ lâm vì vậy mà bọn Vinh Thái liền có vẻ khinh thường ngay. Cả Ôn Thanh cũng thất vọng vô cùng.
Vinh Thái mừng thầm, song chưởng tấn công như gió chỉ thoáng cái đã đánh luôn ba thế liền. Y yên chí Đại Lực Ưng Trảo công của mình độc bộ Giang Nam như vậy, thì chỉ ba bốn thế là cùng sẽ đánh tan được Ngũ Hành quyền của đối phương ngay. Ngờ đâu, Thừa Chí rất ung dung sử dụng Ngũ Hành quyền tầm thường như thế mà đều đỡ được hết những thế công như vũ bão của đối phương.
Vinh Thái kinh hãi thầm vì y thấy đối phương tuy chỉ dùng quyền thuật rất tầm thường thôi nhưng thế quyền nào của chàng ta cũng bao hàm một luồng sức mạnh, đáng lẽ Ngũ Hành quyền chuyên dùng để tấn công, trái lại Thừa Chí lại chỉ dùng nó để bảo vệ bản thân thôi, nên tha hồ Vinh Thái tấn công lợi hại thế nào cũng không sao tới gần chàng được, càng đánh y càng nóng lòng sốt ruột và nghĩ thầm: "Đối phương không chịu tấn công mình, như vậy đã thấy y đã nhường ta rồi, nếu để cho Ôn Thanh phát giác thì thế nào thằng nhãi ấy cũng lên tiếng mỉa mai ngay."
Nghĩ đoạn, y liền đổi chưởng thành chảo, năm ngón tay của y như một cái dũa sắt lợi hại vô cùng và thể thức của y càng tấn công càng nhanh hơn trước nhiều.
Thấy vậy, Thừa Chí nghĩ thầm: "Người này luyện Ưng Trảo công đến mức này, không phải là chuyện dễ, ta phải nhường y để y khỏi mất sĩ diện mới được, nhưng nhỡ Ôn Thanh biết lại nói mỉa thì sao?"
Lúc ấy, Vinh Thái vừa dùng tay phải tấn công tới, định chộp vai chàng, nhưng chàng cố ý không né tránh. Vinh Thái thấy vậy cả mừng, nhưng trong lòng y cũng không muốn đả thương Thừa Chí mà chỉ muốn cào rách áo của chàng ta là coi như đã thắng một thế thôi. Ngờ đâu, tay của y vừa chộp trúng vai của Thừa Chí thì thấy vai của chàng ta trơn tuột và người của chàng như thân của con cá lướt ngay đi liền nên y không sao chộp trúng được vai của chàng nữa.
Thừa Chí đã nhảy sang bên hai bước rồi nói:
- Tôi thua rồi!
Vinh Thái cũng chắp tay chào và đáp:
- Cám ơn lão đệ đã nương tay cho.
Ôn Thanh xen lời nói:
- Phải chính chàng ta nhường cho, ông biết thì được rồi đừng có tự phụ nữa.
Vinh Thái vênh mặt lên đang định nổi khùng thì bỗng thấy trên bờ có ánh sáng lửa lấp lóe. Tiếp theo đó có mấy chục người tay cầm đuốc đang chạy tới. Một người trong bọn la lớn:
- Vinh lão gia đã bắt được thằng nhỏ ấy chưa, chúng ta phải mổ bụng nó để trả thù cho Sa lão đại mới được.
Ôn Thanh thấy đối phương đến nhiều người như vậy, dù chàng táo gan đến đâu cũng phải kinh hoàng.
Vinh Thái lớn tiếng đáp:
- Anh em họ Lưu đấy à? Hãy cho hai người xuống dưới thuyền này.
Trên bờ, liền có hai người vâng lời tiến lên.
Thấy thuyền đậu cách bờ rất xa, chúng không thể nào nhảy tới được, nên đã phải nhảy xuống sông mà bơi đến cạnh thuyền rồi leo lên trên thuyền.
Vinh Thái lại nói với hai người đó tiếp:
- Gói đồ đó đã bị thằng nhỏ này ném xuống dưới sông rồi, hai vị lặn xuống mò đi.
Y vừa nói vừa chỉ vào chỗ lòng sông.
Anh em họ Lưu liền nhảy ngay xuống dưới sông để mò gói vàng kia.
Ôn Thanh khẽ kéo tay áo Thừa Chí và khẽ rỉ tai nói:
- Anh phải giúp tôi chống cự, chúng định giết tôi đấy.
Dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí thấy mặt của Ôn Thanh trông rất đáng thương liền gật đầu nhận lời ngay.
Ôn Thanh thấy chàng đã nhận lời, liền nắm tay chàng và nói tiếp:
- Bạn lôi cái neo sắt xuống thuyền, còn tôi thì đẩy y xuống sông.
Thừa Chí chưa kịp trả lời, thấy tay của Ôn Thanh nắm vào tay mình vừa mềm vừa nhũn như không có xương vậy. Lúc ấy, Vinh Thái đã chú ý đến hai người thì thầm nhỏ to với nhau, liền quay đầu lại nhìn. Ôn Thanh vội bóp tay Thừa Chí một cái, rồi đột nhiên cầm cái bàn giơ lên đẩy luôn vào bọn Vinh Thái ba người.
Đại hán nọ với Thiếu phụ đang mải xem anh em họ Lưu lặn xuống nước mò vàng không để ý tới, liền bị Ôn Thanh đẩy rớt xuống dưới sông, chỉ kịp thất thanh la lớn được một tiếng thôi.
Vinh Thái vội vung mình nhảy lên và dùng chưởng chộp luôn, năm ngón tay của y cắm sâu vào chân bàn bị đối phương giật mạnh một cái, chân bàn liền gãy luôn.
Vinh Thái thấy đại hán với thiếu phụ ở dưới nước khua động lung tung, biết hai người không biết bơi lội mà nơi đó lại là giữa dòng sông, nước chảy rất mạnh. Anh em họ Lưu lại bơi ra đằng xa rồi, không kịp quay trở lại cứu viện, y vội vứt cái mặt bàn đó xuống sông để cho hai người víu lấy khỏi bị chìm trước, rồi y quay người lại múa chưởng tấn công Ôn Thanh luôn.
Ôn Thanh tay cầm hai cái chân bàn múa động để bảo vệ lấy mặt mũi, mồm thì quát tháo Thừa Chí:
- Bạn mau lôi đi.
Thừa Chí cầm sợi xích sắt vận nội lực giơ lên và lôi mạnh một cái, cái neo sắt ở trên bờ đã bay tung lên bắn thẳng tới mũi thuyền. Vinh Thái với Ôn Thanh thấy vậy cả kinh, vội chạy sang hai bên tránh nó, rồi hai người cùng quay đầu lại nhìn, thấy Thừa Chí rất ung dung giơ tay lên bắt cái neo sắt đó, từ từ để xuống mũit thuyền.
Lúc ấy chiếc thuyền không còn gì ràng buộc nữa, cứ theo nước mà trôi thẳng xuống miền xuôi.
Vinh Thái thấy công lực của Thừa Chí lợi hại như vậy, không dám ở lại đối địch nữa, vội nhún chân một cái nhảy ngay lên trên bờ.
Thừa Chí biết ông già ấy không đủ sức nhảy lên bờ đâu, nên chàng cầm miếng ván cầu lên vứt theo. Chàng vứt miếng gỗ đó rất khéo, trúng ngay chỗ Vinh Thái rớt xuống.
Vinh Thái nhảy lên trên cao chưa tới bờ đã hết đà y cúi đầu nhìn thấy bên dưới nước chảy rất mạnh, hoảng sợ vô cùng, yên chí phen này thế nào cũng bị chết đuối, ngờ đâu, chân của y sắp rơi xuống tới mặt nước, thì bỗng có một tấm ván phi tới, y cả mừng dẫm chan vào tấm ván đó mượn sức nhún nhảy một cái nữa, liền lên tới bờ ngay.
Y biết tấm ván đó do Thừa Chí ném tới, nên y rất cảm động và đồng thời cũng phục công lực của chàng.
Ôn Thanh thấy vậy kêu hừ một tiếng và nói:
- Ai khiến bạn giúp y như vậy, để cho y uống vài ngụm nước đã sao nào. Lòng sông đây rất cạn, y không bị chết đuối đâu mà sợ, nhưng tôi hãy hỏi bạn định giúp tôi hay là giúp y thế?
Thừa Chí biết người này tính nết kỳ lạ lắm, nên chàng làm thinh không trả lời mà chỉ nghĩ thầm rằng: "Ta cứu y thoát chết y không cám ơn thì chớ, lại còn trách ta như vậy."
Nghĩ đoạn, chàng lẳng lặng đi vào trong khoang nằm ngủ luôn.
Trưa ngày hôm sau, thuyền đã tới Cừ Châu, Thừa Chí cám ơn Long Đức Lân và lấy một lạng bạc tặng cho người lái đò, Đức Lân nhất định trả tiền đò. Thừa Chí từ chối không được đành phải chắp tai vái để cảm tạ. Ôn Thanh nói với Đức Lân rằng:
- Tôi biết ông không chịu trả tiền đò hộ tôi đâu, cho dù ông có trả tôi cũng không thèm.
Nói xong, chàng mở bọc áo lấy một nén nàng nặng mười lạng ra ném cho người lái đò và nói rằng:
- Cho ngươi đấy!
Người lái đò trông thấy nén vàng đó, kinh hoảng đến ngẩn người ra rồi đáp:
- Tôi không có nhiều tiền bạc để thối lại cho công tử đâu.
Ôn Thanh nói tiếp:
- Ai khiến ngươi thối nào, cho cả ngươi đấy!
Người lái đò không dám tin, nói tiếp:
- Tiền đò đâu phải trả nhiều như thế.
Ôn Thanh lại mắng chửi:
- Nói lôi thôi làm gì, cầm lấy! Ta thích cho bao nhiêu thì cho bấy nhiêu, nếu ngươi chọc tức ta, ta lại đục thủng mấy lỗ để cho thuyền ngươi chìm xuống đáy sông bây giờ.
Người lái đò biết chàng độc ác lắm, nên không dám nói nữa và cũng không dám cám ơn nốt, vội nhặt nén vàng đó lên bỏ vào túi.
Ôn Thanh để gói bọc áo lên trên mặt bàn mở ra để gói lại. Mọi người trông thấy một đống vàng chói lọi làm lóe cả mắt mọi người, đống vàng ấy ít nhất có đến ba trăm nén. Chàng dùng chưởng chia đống và đó ra làm hai gói, một đống vào trong bọc và đeo lên trên vai, rồi hai tay bưng nửa đống kia đem đến trước mặt Thừa Chí và nói:
- Tặng cho bạn.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, vội nói lại:
- Làm gì thế!
Ôn Thanh vừa cười vừa đáp:
- Bạn tưởng tôi vứt bọc vàng xuống sông thật hay sao? Khi nào tôi lại ngu dại ến thế? Bọc đó ném xuống dưới sông là bọc đá đấy, tha hồ để cho chúng mò.
Nói xong, chàng cười khanh khách và nằm phục lên trên bàn, mình mẩy run lẩy bẩy.
Thừa Chí nhận thấy mình thật thà quá hóa ngu ngốc thật, và nghĩ thầm: "Người này còn nhỏ hơn mình hai ba tuổi, thế mà cả Vinh Thái một tay lão giang hồ như vậy, cũng bị y đánh lừa nốt."
Nghĩ đoạn, chàng trả lời Ôn Thanh rằng:
- Tôi không lấy đâu, bạn gói cả vào trong bọc đi, tôi giúp bạn có phải vì vàng bạc này đâu.
Ôn Thanh nói tiếp:
- Đây là của tôi tặng cho bạn chứ có phải là tự bạn đòi hỏi đâu, thôi đừng có làm trò quân tử giả hiệu ấy nữa.
Đức Lân tuy là phú thương nhưng chưa bao giờ thấy một đống vàng kếch sù như vậy, mà một người thì không lấy, một người thì cứ bắt đối phương lấy, nên y cũng phải ngạc nhiên đến ngẩn người ra.
Ôn Thanh giận dữ nói tiếp:
- Bất cứ bạn lấy hay không, số vàng này tôi đã tặng cho bạn rồi.
Nói xong, chàng ta đột nhiên phi thân nhảy ngay lên trên bờ.
Thừa Chí không ngờ, nên ngẩn người ra không biết xử trí như thế nào cho phải, nhưng chàng đã cảnh giác ngay, vội phi thân đuổi theo luôn.
Thân pháp của Thừa Chí nhanh hơn Ôn Thanh, khi chàng hạ chân xuống đất đã ở phía đằng trước của Ôn Thanh rồi, chàng giơ hai tay ra ngăn cản và nói:
- Đừng đi vội! Bạn mau đem số vàng ấy đi, tôi không lấy đâu.
Ôn Thanh tránh sang trái, chàng lại nhảy sang trái ngăn cản. Ôn Thanh tránh sang phải, chàng lại nhảy sang phải ngăn cản.
Thấy mình nhảy phía nào cũng không sao đi thoát được, Ôn Thanh nổi khùng múa chưởng tấn công vào mặt Thừa Chí luôn.
Thừa Chí khẽ giơ tay lên chống đỡ một cái, Ôn Thanh đã chịu không nổi phải lui về phía sau ba bước mới đứng vững được. Chàng biết không thể nào xông pha được liền ngồi sụp xuống đất ôm mặt khóc hu hu ngay.
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
- Có phải tôi giơ tay đỡ làm tay bạn đau đấy không?
Ôn Thanh kêu hừ một tiếng, đã nín liền và tung mình nhảy lên đi luôn.
Thừa Chí không dám đuổi theo nữa, đành đứng nhìn theo cho tới khi hút bóng của chàng ta.

Hồi 6

Thừa Chí thấy võ công của Ôn Thanh như vậy có thể liệt vào hạng nhất hào kiệt giang hồ, nhưng sao hành vi của chàng lại điêu đứng kỳ lạ đến thế, nên chàng vừa bực mình vừa tức cười lắc đầu mấy cái mới quay trở lại thuyền, gói số vàng đó lại rồi chắp tay chào Đức Lân mà lên đường.
Vào trong thành Từ Châu chàng đến phố lớn kiếm một khách sạn lớn rộng để ở.
Sau khi vào buồng rửa mặt xong, chàng nghĩ thầm: "Nếu không trả được nghìn lạng vàn này cho chàng nọ, lòng ta yên sao đành. Vì thấy chàng ta tội nghiệp như vậy ta mới ra tay trợ giúp chứ ta có định lấy thù lao gì đâu. Nếu ta nhận số tiền này sẽ mất tên tuổi của ta liền, cũng may y là người của phái Thạch Lương, phái đó lại ở ngay nơi đây ta đỡ phải đi đâu tìm kiếm nữa. Ta đem số vàng này đến tận nhà y trả dù y không nhận ta cũng bỏ đấy đi luôn. Như vậy có phải tiện không?"
Sáng ngày hôm sau chàng hỏi đường lối đi Thạch Lương rồi liền về khách điếm đem gói vàng đi trả.
Thạch Lương cách Từ Châu hơn hai mươi dặm, Thừa Chí đi tắt rất nhanh nửa tiếng đồng hồ sau đã tới liền. Thạch Lương là một thị trấn nho nhỏ ở gần núi Lan Kha, theo lời đồn thì núi đó xưa kia có một tiều phu lên hái củi. Khi người tiều phu ấy đi sâu vào trong núi liền gặp hai ông tiên ngồi đánh cờ với nhau, chàng tiều phu đứng cạnh đó xem. Xem xong ván cờ của hai ông tiên, chàng quay đầu lại nhìn thấy cán búa đã mục nát và khi chàng ta về đến nhà, người nhà và lối xóm đều khác hẳn, thì ra chàng ta vào núi xem có một ván cờ mà đã qua được mấy chục năm. Núi Lan Kha là hai ngọn núi liên kết thành hai bên đỉnh núi cách nhau mấy chục trượng, ở giữa có một cây cầu đá như là sà ngang của một căn nhà vậy. Cầu này tựa như mọc liền với đỉnh núi, sức người không thể nào mà xây được một cái cầu như vậy, cho nên các bô lão ở địa phương vẫn đồn đại cầu đó là do thần tiên dùng pháp thuật bắt lên, trông nó như một cái sà nhà nên mới có cái tên Thạch Lương như vậy. Thừa Chí đi tới đó thấy một nông phu ở đằng xa đi tới, chàng vội tiến lên hỏi thăm:
- Thưa đại ca, xin hỏi nhờ đại ca nhà họ Ôn ở đâu thế?
Nông phu đợi nghe chàng hỏi xong liền giật mình kinh hãi đáp:
- Tôi không biết, tôi không biết!
Vẻ mặt người ấy trông rất khó coi, hình như khinh bỉ Thừa Chí vậy rồi người đó quay người đi sang phía khác ngay.
Thừa Chí đi tới một tiệm bán chạp phô liền vào hỏi thăm người chưởng quầy, ngờ đầu người chưởng quầy đó lại lạnh lùng đáp:
- Lão huynh tìm nhà họ Ôn làm chi?
- Tôi muốn trao trả cho họ một vật này.
- Nếu vậy lão huynh là bạn của nhà họ Ôn rồi hà tất phải hỏi thăm mỗ làm chi.
Thừa Chí lại bị hắt hủi một lần nữa liền nghĩ thầm: "Sao dân chúng ở đây lại vô lễ đến như thế?"
Chàng lại thấy hai thằng nhỏ đang đùa giỡn ở giữa đường liền móc túi lấy mười mấy đồng tiền ra nhét vào tay một thằng nhỏ và hỏi:
- Cậu em đưa anh đến nhà họ Ôn đi.
Thằng nhỏ bỗng dưng được tiền mừng rỡ vô cùng, nhưng khi nó nghe thấy Thừa Chí nói xong liền trả lại tiền cho chàng và đáp:
- Thúc thúc muốn đến nhà họ Ôn ư? Căn nhà lớn đó chả lạ nhà của chúng là gì, chúng em không thích đi đến chỗ ma quỷ ấy.
Tới lúc đó Thừa Chí mới vỡ lẽ thì ra họ Ôn rất thất nhân tâm nên người lối xóm không ai thèm liên lạc với gia đình họ cả, chứ không phải là dân ở đây vô lễ như chàng tưởng tượng đâu.
Chàng đi đến căn nhà đồ sộ mà thằng nhỏ vừa chỉ cho, xa xa đã nghe thấy tiếng người nói ồn ào, chàng vội ráo cẳng bước lên, khi tới gần thấy mấy trăm nông dân, người cầm bừa kẻ cầm thuổng, vây chặt chiếc cửa lớn tiếng quát tháo:
- Các người đánh chết ba mạng như vậy mà không thèm nói nửa lời hay giải quyết ra sao bỏ đi về luôn. Họ Ôn kia có mau ra thường mạng không?
Trong đám nông dân có bảy tám người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi dưới đất khóc bù lu bù loa.
Thừa Chí tới gần hỏi thăm một người nông dân rằng:
- Đại ca, các vị ở đây làm gì thế?
Người nông dân ấy đáp:
- Chắc tướng công là người qua đường nên không biết chuyện, người nhà họ Ôn này hung ác bá đạo lắm, hôm qua người của chúng về làng thâu tiền tô, ông cụ nhà họ Trinh yêu cầu y cho thư thả vài ngày để thu xếp trả, thế là người nhà y đẩy mạnh ông cụ ấy té ngã, đầu đập vào tảng đá lớn chết ngay tại chỗ, con trai và cháu ông cụ ra bắt thường mạng đều bịn người của chúng đánh đến bị thương nặng. Đấy tướng công xem người nhà này thị giàu có và biết võ đánh chết người bỏ đi không thèm nói năng nửa lời, tướng công bảo chúng tôi nhịn sao nổi...
Trong khi hai người nói chuyện với nhau thì những người kia càng la rầm rộ thêm, có người lại đập cửa, có người ném đá vào bên trong như muốn phá cửa nhà họ Ôn vậy.
Đang lúc ấy cánh cửa lớn bỗng mở toang, một bóng người ở bên trong phi ra, mọi người chưa trông thấy rõ thì đã có bảy tám người nông dân bị người đó ném ra ngoài xa hai ba trượng vỡ đầu, sứt tai, máu chảy lai láng liền.
Thừa Chí thấy vậy nghĩ thầm: "Võ công của người này cũng khá cao siêu đấy."
Chàng vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn thấy người đó vừa gầy vừa cao, mặt vàng khè hai mắt xếch ngược, hai bên thái dương huyệt gồ cao, chỉ trông bề ngoài cũng đủ biết người đó là một tay có nội gia rất cao siêu rồi.
Người gầy gò ấy liền quát lớn:
- Các ngươi heo chó kia, còn đến đây ăn vạ phải không?
Bọn nông dân chưa kịp trả lời lại bị y tiến lên túm mấy người ném đi nữa.
Thừa Chí thấy người đó túm người ném đi như vậy không khác gì ném người rơm hay người giấy vậy, không tốn một chút hơi sức nào hết, chàng lại nghĩ tiếp: "Không biết người này có liên can với Ôn Thanh không, nếu bữa nọ y đi cùng với Ôn Thanh thì bọn Vinh Thái đã chịu không nổi rồi, chả cần ta phải ra tay giúp sức nữa."
Bỗng có một người trung niên và một người thanh niên ở trong bọn nông dân vội tiến lên nói:
- Các ngươi đánh chết người rồi bỏ đi luôn, coi mạng người như mạng gà vậy, chúng ta tuy nghèo nhưng chúng ta cũng là người chứ có phải súc vật đâu.
Người gầy gò và cao kia nghe thấy người nông dân nói như thế liền cười nhạt:
- Nếu không đánh cho mấy tên chết ngay tại chỗ thì các ngươi chưa biết thân.
Nói xong, y lại túm lưng người trung niên nọ thuận tay ném luôn vào góc tường ở bên kia Đông, hai thanh niên thấy vậy vừa kinh hãi vừa tức giận song song giơ cuốc lên nhắm đầu y chém luôn. Chỉ thấy y giơ tay trái lên gạt một cái, hai cái cuốc của hai thanh niên kia bị hất bắn ra xa đồng thời y lại chộp lưng của hai thanh niên đó mà ném luôn vào tảng đá lớn ở trước cửa để cắm cột cờ.
Thừa Chí thấy người nọ hà hiếp đám nông dân và đả thương người một cách vô lý như vậy trong lòng đã tức giận, nhưng chàng là người thận trọng không muốn can thiệp việc của người, chỉ muốn đợi cho việc của họ lo dàn xếp xong xuôi là mình tiến lên yêu cầu Ôn Thanh để trao trả số vàng rồi lên đường đi ngay. Ngờ đâu, người gầy gò và cao kia đã ra tay hạ sát thủ, muốn ném chết ba người nọ liền. Chàng động lòng công phẫn và hiệp nghĩa không còn suy nghĩ gì nữa liền phi thân tới giơ tay trái ra chộp vào đùi phải của người nông dây trung niên lôi trở lại và thuận tay đặt người đó đứng xuống đất. Rồi chàng lại phi thân tới nhanh như điện chớp chộp luôn lưng của hai thanh niên nông dân và khẽ đặt họ xuống dưới đất, sở dĩ chàng nhảy tới kịp để cứu hai người thanh niên này là nhờ ở nhu môn khinh công Nhạc vương Thần Tiên của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho, môn khinh công này có thể nói là nhanh nhất thiên hạ.
Đáng lẽ chàng không giở môn khinh công này ra để khoe khoang hay làm cho người khác kinh ngạc đâu, nhưng vì thấy tình thế cấp bách như vậy mới phải sử dụng tới môn khinh công này để cứu hai thanh niên kia thoát nạn. Chàng cũng biết ra tay cứu ba người này như vậy, người gầy gò và cao kia thế nào cũng hận mình nhưng chàng đã biết địa điểm của nhà họ Ôn rồi, nếu người gầy gò và cao này giận mình không cho gặp Ôn Thanh thì chàng sẽ chờ đến đêm khuya đem đến trả lại số vàng. Chàng đặt hai thanh niên nọ đứng xuống xong liền quay mình định đi. Ba người nông dân thoát chết cứ đứng đờ người ra không nói được nửa lời vậy.
Người gầy gò và cao kia thấy võ công của Thừa Chí cao siêu như vậy kinh ngạc vô cùng liền nghĩ thầm: "Ta ném ba người kia thủ pháp rất nhanh và lại ném đi hai phương hướng khác nhau, người này ra tay sau mà lại tới trước nhất cứu được người nọ, không biết y là người của môn phái nào? Sao lại có võ công lợi hại đến thế?"
Nghĩ đoạn, y vội chạy tới gần giơ tay lên định vỗ vai Thừa Chí và nói:
- Bạn kia hãy khoan đã.
Y dùng Đại Lực Thiên Cân, một nội gia rất mạnh vỗ vào vài của Thừa Chí, ngờ đâu Thừa Chí không tránh né gì hết chỉ hơi trầm vai xuống thôi đã hóa giải được sức lực của đối phương liền. Nhưng chàng không vận sức phản công lại và làm như không hay biết gì hết. Người gầy gò và cao kia thấy vậy càng kinh hãi thêm vội hỏi tiếp:
- Có phải bọn người kia mời các hạ đến đây làm khó dễ chúng tôi phải không?
Thừa Chí chắp tay chào và đáp:
- Xin lỗi bạn bởi vì tôi không muốn có án mạng phiền phức lắm cho nên mới dám đường đột ra tay đỡ họ như thế, lão huynh tài như vậy, chấp nhất bọn người nhà quê để làm gì.
Người nọ thấy Thừa Chí ăn nói khiêm tốn như vậy và còn khen ngợi y ở trước mặt mọi người như thế, nên y nguôi cơn giận liền và hỏi tiếp:
- Các hạ quý tính danh là gì? Đến tệ xá có việc gì thế?
- Tại hạ họ Viên có một người bạn họ Ôn không biết có phải ở trong quý phủ không?
- Đệ cũng họ Ôn không biết các hạ kiếm ai thế?
- Người bạn của tại hạ tuổi chừng mười tám, mười chín, mặt rất đẹp trai, mặc áo thư sinh.
Người nọ gật đầu mấy cái rồi quay lại quát bảo mấy chục nông dân hãy còn đứng đó rằng:
- Các ngươi còn đứng đấy làm chi không mau cút đi
Bọn nông dân thấy Thừa Chí lại làm quen với kẻ thù mà võ công của hai người lại rất lợi hại, nên bọn chúng không dám ở lại nữa, liền giải tán ngay.
Chờ bọn nông dân đi khỏi, người nọ liền mời Thừa Chí vào trong nhà uống nước.
Thừa Chí theo y đi vào bên trong tới một đại sảnh rộng ba gian ở giữa có treo một tấm bảng lớn trên đề "Thế Trạch Niên Trưởng."
Đại sảnh này trưng bầy rất lịch sự trông như khách sảnh của một đại thân hào vậy. Người gầy gò mời Thừa Chí ngồi và bảo người nhà bưng nước ra mời chàng uống.
Người đó hỏi thăm sự thế và xuất thân của Thừa Chí ra sao, thái độ của y tuy rất lễ phép nhưng Thừa Chí vẫn nhận thấy mặt y có vẻ hằn học, chàng vội nói sang chuyện khác và hỏi người nọ rằng:
- Lão huynh làm ơn mời hộ Ôn Thanh tướng công ra đây, đệ có một vật này cần phải trao trả cho Ôn tướng công ngay.
- Ôn Thanh là xá đệ, đệ là Ôn Chính. Xá đệ vừa đi vắng, mời Viên huynh hãy ngồi chơi trong chốc lát, y sắp về liền.
Thừa Chí không muốn kết giao với những kẻ có hành vi bất chính và hà hiếp người làng này, nhưng vì đợi chờ Ôn Thanh về nên bắt buộc chàng phải ngồi ở lại.
Chờ đến giữa trưa vẫn chưa thấy Ôn Thanh về, Thừa Chí lại không muốn trao số vàng lớn như thế này cho người khác, nên cứ phải ở lại chờ thêm.
Ôn Chính sai người nhà dọn cơm ra mời Thừa Chí ăn, thức ăn rất phong phú và ngon miệng lắm.
Chờ đến chiều mặt trời đã bắt đầu lặn, Thừa Chí nóng lòng sốt ruột nghĩ thầm: "Đằng nào nơi đây cũng là nhà của Ôn Thanh rồi, ta cứ gửi lại số vàng này cho Ôn Chính để chuyển giao hộ cũng được, việc gì mà phải đợi chờ Ôn Thanh nữa."
Nghĩ đoạn, chàng liền cởi bọc vàng đeo ở trên vai xuống để lên trên mặt bàn rồi nói với Ôn Chính rằng:
- Bọc đồ này của lệnh đệ nhất phiền Ôn huynh trao trả hộ, muộn lắm rồi đệ phải cáo từ đây.
Đang lúc ấy bên ngoài có tiếng cười khúc khích vọng tra, tiếng cười đó là tiếng cười của mấy thiếu nữ. Tiếp theo đó cửa ngoài đã hé mở, Thừa Chí đã nghe thấy có tiếng cười, tiếng nói của Ôn Thanh, trong lòng mừng thầm.
Ôn Chính liền nói:
- Xá đệ đã về đấy.
Nói xong, y liền đi ra luôn. Thừa Chí cũng vội theo ra, y cản chàng lại và nói tiếp:
- Mời Viên huynh ngồi đây đợi chờ giây lát.
Thấy hành động của Ôn Thanh có vẻ huyền bí, chàng đành phải ngừng bước, lạ thật chàng chờ mãi không thấy Ôn Thanh vào mà chỉ thấy Ôn Chính quay trở vào nói:
- Các hạ ngồi chờ thêm một lát nữa, xá đệ thay áo xong ra liền.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Ôn Thanh ỏn a ỏn ẻn, không khác gì một người đàn bà vậy, tiếp khách thôi mà cũng phải thay áo."
Một lát sau, Ôn Thanh đã thủng thẳng bước ra, vẻ mặt tươi cười và nói:
- Viên huynh đại gia giáng lâm thực hân hạnh cho đệ vô cùng.
Thừa Chí đáp:
- Ôn huynh bỏ quên gói đồ đó, đệ đem đến hộ.
Ôn Thanh vẻ hờn giận hỏi lại:
- Có phải Viên huynh khinh thường không?
- Đệ đâu dám, thôi đệ xin cáo lui đây.
Thừa Chí nói xong, đứng dậy chào Ôn Chính và Ôn Thanh định đi. Ôn Thanh đã nắm tay áo chàng và nói:
- Không cho anh đi.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, và mặt chàng hơi biến sắc, Ôn Thanh lại tiếp:
- Đệ có một việc rất cần muốn hỏi Viên đại ca hôm nay, mời đại ca ở lại đây nghỉ ngơi một hôm đã.
Thừa Chí đáp:
- Đệ ở Từ Châu đang có việc đợi chờ đệ về ở đó giải quyết, cảm ơn Ôn huynh đã có lòng tốt như vậy.
Ôn Thanh nhất định không nghe. Ôn Chính liền xen lời nói:
- Viên đại ca đã mắc bận, hiền đệ không nên giữ Viên đại ca ở lại như vậy.
Ôn Thanh nói giọng hờn giận đáp:
- Được, Viên huynh muốn đi cứ việc đi đi nhưng gói đồ này Viên huynh cũng làm ơn đem cả đi. Huynh không chịu ở lại nhà đệ thì đệ biết huynh khinh thường đệ.
Thừa Chí ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:
- Nếu Ôn huynh có hậu ý như vậy thì không dám từ chối nữa.
Ôn Thanh cả mừng liền bảo người nhà làm điểm tâm. Ôn Chính có vẻ không vui nhưng vẫn ở đấy tiếp chứ không chịu rút lui. Thừa Chí không hợp chuyện với y, chàng chỉ nói với Ôn Thanh thôi, vì thế y chỉ thỉnh thoảng đá gạ một câu thôi. Như vậy mà y vẫn chưa chịu rút lui đi vào trong nhà.
Ôn Thanh nói đến thi thơ, với môn này Thừa Chí không thạo lắm, sau nói đến binh pháp, chàng thuộc làu như cháo. Biết tánh chàng rồi, Ôn Thanh cứ đem những trận đấu xưa kia ra để đàm luận hoài. Thừa Chí rất kính phục và nghĩ thầm: "Tính nết của người này tuy kỳ lạ thực nhưng về học vấn y lại biết rộng lắm..."
Ôn Chính chỉ giỏi về võ công thôi, chứ văn học thì y không biết một tí gì nên càng nghe tỏ vẻ chán nản, nhưng vẫn ngồi lì ra đó. Thừa Chí thấy vậy ngượng vô cùng, lại phải đem võ học ra đàm luận với y vài câu. Ôn Chính đang định đáp thì Ôn Thanh đã xen lời vào nói sang chuyện khác liền. Thừa Chí thấy vậy cũng lấy làm ngạc nhiên vô cùng, Ôn Chính tuy là anh nhưng có vẻ kiêng nể Ôn Thanh lắm, thỉnh thoảng bị người em trách mắng một vài câu, y chỉ cười thôi chứ không dám giận dữ gì cả, khi nào y thấy Ôn Thanh tươi cười thì y lại tỏ vẻ khoái chí và cười theo.
Mâm rượu nhà họ Ôn khoản đãi Thừa Chí tối hôm đó rất thịnh soạn. Cơm nước xong, Thừa Chí liền nói:
- Ngày hôm nay đi đường hơi mệt mỏi một chút, đệ muốn được nghỉ ngơi sớm.
Ôn Thanh đáp:
- Tệ xá ở chốn quê nay được Viên huynh đại gia giáng lâm đang muốn chuyện trò một đêm với huynh để được học hỏi thêm, nếu huynh thấy mệt thì để ngày mai hãy nói vậy.
Thấy người em vừa nói dứt, Ôn Chính đã lên tiếng nói ngay:
- Đêm nay mời Viên huynh sang phòng để ngủ với đệ.
Ôn Thanh vội đỡ lời:
- Thôi không cần đại ca tiếp khách của đệ, tối nay Viên huynh ngủ phòng đệ thì hơn.
Ôn Chính bực mình không chào cáo từ gì hết hậm hực đứng dậy đi thẳng vào nội thất ngay. Ôn Thanh cũng nổi giận nói thêm:
- Hừ, chả biết lễ phép gì hết không sợ người ta chê cười.
Thừa Chí thấy hai anh em chàng ta cãi vã nhau như vậy trong lòng không yên liền nói:
- Đệ ở quen chốn thôn dã rồi, Ôn huynh khỏi phải bận tâm cho đệ vấn đề ăn nằm đó.
Ôn Thanh mỉm cười đáp:
- Thôi được, đệ không bận tâm nữa.
Nói xong, chàng cầm cây nến đưa Thừa Chí đi vào nội thất, đi qua hai cái sân vào tới lớp thứ ba liền lên lầu đến trước một căn phòng, Ôn Thanh vừa mở cửa phòng ra, Thừa Chí đã ngửi thấy mùi thơm xông ra và chàng thấy trong phòng đang thắp một ngọn nến dở, phòng này bày biện lịch sự lắm, màn the trướng gấm có thêu một con phượng hoàng. Trên vách có treo một bức tranh mỹ nữ đó, trên mặt bàn bày nghiên bút, ống bút có sáu bảy cây đủ các cỡ. Kỷ chè ở bên phía tây có bày một chậu thủy tiên. Trước cửa sổ có treo một cái giá, trên giá có đậu một con anh vũ trắng. Từ khi hạ sơn đến giờ, Thừa Chí chưa hề thấy một căn phòng nào lịch sự như thế này, nên chàng cứ đứng đờ người ra ngắm nghía, Ôn Thanh thấy vậy vừa cười vừa nói:
- Đây là phòng ngủ của tiểu đệ, chật hẹp và sơ sài lắm, mời huynh hãy khuất giá một đêm.
Không đợi chờ Thừa Chí có bằng lòng hay không, chàng đã quay người đi ra luôn.
Thừa Chí ở trong phòng nhìn bốn xung quanh một lượt thấy không có điều gì khác lạ mới yên tâm, chàng đang định cởi áo đi nghỉ thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa rất khẽ, chàng liền hỏi:
- Ai đó?
Một con sen tuổi trạc mười năm, mười sáu mặt mũi thanh tú và khôn ngoan lanh lợi, tay bưng một cái mâm bước vào nói:
- Mời Viên thiếu gia xơi một chút điểm tâm.
Nói xong, nàng ta để cái mâm xuống bàn. Thừa Chí thấy trong mâm để một bát tần yến. Tuy chàng là con của một Đề đốc và Thống soái, nhưng chàng ở quê trưởng thành, ở trong thôn quê chưa hề thấy bao giờ nên không biết là vật gì.
Đồng thời lần đầu tiên chàng nói chuyện với một thiếu nữa nên hổ thẹn vô cùng, hai má đỏ bừng, con tiểu hoàn ấy thấy vậy vừa cười vừa nói tiếp:
- Tên cháu là Nguyệt Hoa, thiếu gia cháu bảo cháu đến đây hầu hạ Viên thiếu gia. Viên thiếu gia có việc gì sai bảo cứ việc gọi tên cháu là được rồi.
Thừa Chí đáp:
- Không có việc gì hết.
Tiểu hoàn vái chào đi ra nhưng khi ra tới cửa nàng lại quay đầu nhìn Thừa Chí tủm tỉm cười và nói tiếp:
- Chính tay thiếu gia tôi xuống bếp làm bát yến này để Viên thiếu gia xơi.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng không biết trả lời như thế nào cho phải. Nguyệt Hoa thấy vậy lại cười một tiếng nữa rồi mới đi hẳn. Thừa Chí cởi quần áo ngoài ra trèo lên giường đi ngủ, thấy chăn màn thơm tho vô cùng khiến chàng như say như mê nên chỉ trong giây lát, chàng đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Ngủ đến giữa đêm, ngoài cửa sổ bỗng có tiếng cười khì, chàng giật mình thức tỉnh, rồi chàng lại nghe thấy có người khẽ gõ vào cánh cửa sổ hai tiếng và có tiếng người khẽ cười:
- Gió mát trăng thanh như thế này, Viên huynh là người tao nhã không ra thưởng thức thì thực uổng một phong cảnh đẹp như tranh vẽ này.
Thừa Chí đã nhận ra đó là tiếng nói của Ôn Thanh, chàng thấy ánh sáng trăng sáng rực và ngoài cửa có một người đang đu ngược, đầu dưới, chân trên treo lơ lửng ở trước cửa sổ và ngó vào trong phòng, thấy vậy Thừa Chí vội nói:
- Vâng, để tôi mặc quần áo sẽ ra ngay.
Nói xong, chàng vội vàng mặc quần áo vào và giấu con dao găm ở trong người phòng bị. Chàng vừa đẩy cánh cửa sổ ra thì có một luồng gió đưa mùi hoa thơm vào.
Bây giờ chàng mới hay bên ngoài là một cái vườn hoa.
Ôn Thanh khẽ nhảy xuống đất và rỉ tai chàng nói:
- Viên huynh theo tôi đến đằng này.
Thừa Chí thấy chàng ta tay cầm một cái rổ không hiểu chàng ta mang theo cái đó để làm gì, nhưng không dám nói. Hai người cùng vượt tường đi ra bên ngoài cùng giở khinh công tiếng thẳng về phía hậu sơn, khi sắp tới đỉnh núi lại vòng hai con đường cong quẹo liền tới một chỗ bốn xung quanh trồng hoa đang long lanh dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí thì trông thấy rõ một bên trồng hoa mai quế màu trắng và một bên trồng hoa mai quế màu vàng, liền khen ngợi rằng:
- Nơi đây là tiên cảnh chắc?
Ôn Thanh đáp:
- Những hoa này là do tay đệ trồng hết, nơi đây chỉ có má của tiểu đệ với con tiểu hoàn là được lui tới thôi.
Nói xong, chàng cầm cái rổ từ từ đi đến gần những luống hoa. Thừa Chí đi theo sau cũng cảm thấy thích thú vô cùng.
Ôn Thanh đưa Thừa Chí tới một cái đình nhỏ, chàng ta liền mời Thừa Chí ngồi ở trên tảng đá rồi mở cái rổ ra lấy một ấm rượu và hai cái chén bầy lên trên mặt đá và rót đầy hai chén rượu đó mới nói:
- Xin lỗi Viên huynh nơi đây không được ăn mặn.
Chàng lại lấy ba món ăn ở trong rổ ra rồi hai người uống rượu dưới trăng hoa.
Thừa Chí gắp những món ăn đó ăn thử mới hay ba món đó đều là món ăn chay thực, ăn nhậu một hồi, Ôn Thanh lại lấy một ống tiêu ra và nói:
- Để đệ thổi tiêu cho Viên huynh nghe nhé!
Thừa Chí gật đầu, Ôn Thanh liền thổi tiêu cho chàng nghe, chàng không biết âm luật gì cả nhưng chỉ cảm thấy mình đang sống trong cảnh tiên, chứ dưới trần tục làm gì có tình cảnh này.
Ôn Thanh thổi xong khúc tiêu rồi mới cười và hỏi:
- Viên huynh thích nghe khúc nào xin cho hay để đệ thổi cho huynh nghe.
Thừa Chí thở dài một tiếng rồi đáp:
- Ôn huynh thông minh thực và cũng biết nhiều thứ quá.
Ôn Thanh khoái chí hỏi lại:
- Có thực không?
Nói xong, chàng lại cầm ống tiêu lên thổi tiếp một khúc tiêu càng nhu mì và uyển chuyển hơn khúc tiêu trước. Khi thổi xong, Ôn Thanh đặt ống tiêu xuống và khẽ hỏi:
- Thế nào, Viên huynh có nghe được không?
- Trên thế gian này không còn ai có thể thổi được khúc tiêu hay như vậy. Trước kia đệ có nằm mơ và giấc mơ ấy cũng không thể nào bằng được cảnh thực này được.
Thấy Thừa Chí khen ngợi mình như vậy, Ôn Thanh càng khoái chí cười khúc khích. Lúc ấy hai người ngồi gần nhau, Thừa Chí ngửi thấy ngoài mùi thơm của hoa ra lại còn có cả mùi thơm của phấn son nữa, chàng liền nghĩ thầm: "Người này không có ý chí đàn ông gì cả, cũng may ta không phải là con người lẳng lơ, bằng không có phải là bị y chê cười rồi không?"
Ôn Thanh lại nói tiếp:
- Viên huynh có thích đệ thổi tiêu không?
Thừa Chí gật đầu, Ôn Thanh lại đưa tiêu lên thổi tiếp. Thừa Chí đang ngẩn người ra nghe thì đột nhiên thấy thiếng tiêu ngưng hẳn rồi Ôn Thanh bẻ luôn ống tiêu ra làm đôi. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng vội hỏi:
- Sao thế, huynh... đang thổi nhanh như vậy sao bỗng dưng lại bẻ ống tiêu đi?
Ôn Thanh cúi đầu xuống khẽ đáp:
- Từ xưa tới nay đệ không hề thổi tiêu cho ai nghe hết vì họ có biết nghe đâu, họ chỉ thích múa đao múa kiếm thôi.
- Tôi không nói dối Ôn huynh đâu, tôi thích nghe khúc tiêu của Ôn huynh thổi thực đấy mà.
- Ngày mai Viên huynh đã từ giã ra đi rồi, đệ chắc huynh đi khỏi không bao giờ quay trở lại nữa. Thử hỏi tôi biết thổi cho ai nghe?...
Ngừng giây lát, chàng lại nói tiếp:
- Tính nết của đệ rất xấu, đệ tự biết lắm nhưng khốn nỗi đệ không sao tự kìm chế nổi. Đệ biết huynh ghét đệ lắm và còn khinh khi đệ là khác.
Thừa Chí không biết trả lời như thế nào cho phải cứ ngẩn người ra nhìn chàng ta.
Một lát sau, Ôn Thanh lại nói tiếp:
- Vì vậy mà đệ chắc huynh không giờ quay trở lại nữa.
- Chắc huynh đã nhận định thấy rồi, sự thực đệ không biết gì cả, đệ là người mới ra đời và cũng không biết nói dối ai hết. Huynh bảo đệ khinh huynh, ghét huynh, nói thực lúc mới gặp đệ có cảm tưởng như thế đấy nhưng bây giờ thì khác hẳn.
- Huynh nói có thực không?
- Theo sự nhận xét của đệ thì hình như huynh có việc gì rất đau lòng cho nên mặt mày không vui mặc dù tư phong đặc biệt hơn người. Việc gì thế, huynh có thể nói cho đệ nghe không?
Ngẫm nghĩ giây lát, Ôn Thanh mới trả lời:
- Đệ có thể kể cho huynh nghe được nhưng chỉ sợ huynh khinh đệ thôi.
- Không.
- Thôi được, đệ xin kể cho huynh nghe. Hồi má đệ còn làm con gái bị một người xấu bụng hà hiếp mới sanh ra đệ, ông ngoại của đệ địch không nổi người xấu bụng đó, sau đi rủ mấy tay hảo thủ đến mới đắc thắng và đuổi người xấu bụng ấy ra khỏi nhà này. Cho nên đệ là một kẻ không cha cũng là một đứa con hoang...
Nói tới đó chàng ứa nước mắt ra. Thừa Chí vội an ủi:
- Việc này không thể trách cứ huynh và cũng không thể trách cứ bá mẫu được, chỉ tại người xấu bụng nọ.
- Nhưng người khác lại không có ý nghĩ như huynh, trước nhất đệ họ không dám nói gì nhưng cứ ở sau lưng chửi rủa với bà mẹ.
- Ai dám nói huynh như thế bảo cho đệ biết, đệ sẽ giúp huynh đánh cho tên đó một trận. Bây giờ đệ không ghét huynh đâu, nếu huynh bằng lòng kết bạn với đệ thì đệ sẽ tới đây thăm huynh luôn luôn.
Nghe thấy Thừa Chí nói như vậy, Ôn Thanh mừng rỡ nhảy bắn người lên. Thừa Chí thấy chàng ta mừng như thế liền vừa cười vừa hỏi lại:
- Đệ đến thăm huynh luôn luôn như vậy huynh có bằng lòng không?
- Bằng lòng lắm, và huynh đã hứa tới thì thế nào cũng phải tới nhé?
- Tôi không nói dối huynh đâu.
Bỗng nghe thấy phía sau có tiếng động rất khẽ. Thừa Chí biết có người tới nơi, chàng vội đứng dậy quay người lại liền nghe thấy người đó với giọng lạnh lùng hỏi:
- Đêm khuya canh vắng, hai người lén lút tới đây làm chi?
Người ấy vừa cao vừa gầy chính Ôn Chính, y vừa bước ra, mặt giận dữ hai tay chống nạnh, hỏi một cách rất thiếu lễ phép.
Ôn Thanh giật mình kinh hãi nhưng khi chàng biết người đó là Ôn Chính rồi liền nổi giận quát hỏi:
- Anh đến đây làm chi?
Ôn Chính đáp:
- Hiền đệ hãy tự hỏi mình trước.
Ôn Thanh ra vẻ rất oai nghi nói tiếp:
- Thì với Viên huynh ở đây thưởng nguyệt xem hoa, việc gì tới anh mà anh tới nào? Chốn này ngoài má tôi ra, không ai được tới cả. Ông hai đã tuyên bổ cho cả nhà rồi, chẳng lẽ đại ca đã quên lời rồi hay sao?
Ôn Chính chỉ thẳng vào mặt Thừa Chí và đáp:
- Thế sao y tới được?
- Tôi mời anh ấy tới, việc này không việc gì đến anh, anh không có quyền can thiệp vào.
Thừa Chí thấy hai anh em họ Ôn cãi nhau như vậy trong lòng không yên vội xen lời nói:
- Cuộc thưởng nguyệt hôm nay của chúng ta đã đầy đủ lắm rồi, chúng ta sẽ quay trở ra về phòng nghỉ ngơi đi.
- Tôi cứ không đi, Viên huynh cứ ngồi xuống đây.
Bất đắc dĩ Thừa Chí lại ngồi xuống. Ôn Chính đứng ngẩn người ra không nói nửa lời. Ôn Thanh thấy vậy lại càng tức giận thêm và nói tiếp:
- Những hoa này do tôi trồng, tôi cấm anh ngắm nhìn nó.
Ôn Chính đáp:
- Tôi đã nhìn rồi, cấm sao nổi tôi, tôi còn muốn nó nữa.
Nói xong, y cúi đầu xuống dí mũi vào hít mấy cái, Ôn Thanh cả giận xông lại hai tay vừa nhổ vừa vò những khóm hoa đó, chỉ trong thoáng cái chàng đã nhổ hết hai mươi mấy cụm hoa hồng và vứt bừa bãi rồi khóc lớn nói tiếp:
- Được, anh bắt nạt tôi, tôi nhổ hết những khóm hoa này đi như vậy không ai được ngắm nữa, anh đã bằng lòng thích thú chưa?
Ôn Chính tức giận vô cùng không nói nửa lời liền hậm hực đi luôn, nhưng đi vài bước lại quay đầu lại đáp:
- Người ta đối đãi với mình như vậy, trái lại mình lại đối xử với người ta như thê? Đệ thử nghe xem đệ làm như thế thì còn có lương tâm hay không?
Ôn Thanh vừa khóc vừa trả lời:
- Ai khiến anh tử tế với tôi, nếu cho tôi là cái đại chướng mắt thì anh đi nói với các ông đuổi tôi ra khỏi nơi đây đi, và anh mách cả ông tôi với Viên huynh ở đây thưởng trăng đây. Tôi không sợ gì hết.
Ôn Chính thở dài một tiếng rầu rĩ quay mình đi luôn.
Ôn Thanh quay trở vào trong đình ngồi, Thừa Chí liền hỏi:
- Y không phải anh thực của tôi, mẹ tôi họ Ôn, đây là nhà ông ngoại tôi, y là con trai người anh họ của mẹ tôi, sự thực y chỉ là người anh họ xa thôi, nếu tôi có cha và tôi có nhà khỏi phải đi ở nhờ ai hết và cũng không phải bực mình như thế này.
Nói xong chàng lại ứa nước mắt ra. Thừa Chí liền đỡ lời:
- Tôi thấy y đối với huynh tử tế lắm! Trái lại huynh đối xử với y rất hung ác.
Ôn Thanh bỗng phì cười và nói tiếp:
- Nếu tôi đối xử với y không hung ác như vậy thì y còn hỏng hơn thế này nữa.
Thừa Chí thấy chàng ta vừa khóc vừa cười, trông rất tức cười và cũng ngây thơ vô cùng. Chàng liền nghĩ đến thân thế của mình, bỗng động lòng đồng bệnh tương liên mà nói tiếp:
- Cha tôi bị người ta giết chết, lúc ấy tôi lên bẩy, ông tôi cũng mất vào năm đó.
Ôn Thanh vội hỏi:
- Thế Viên huynh đã báo thù được chưa?
- Nói ra thì hổ thẹn vô cùng, tôi thật không may.
- Khi nào Viên huynh báo thù, đệ thế nào cũng giúp huynh một tay. Bất cứ kẻ thù lợi hại đến đâu đệ cũng không sợ.
Thừa Chí nghe thấy chàng ta nói như vậy cảm động vô cùng, liền nắm lấy tay Ôn Thanh, Ôn Thanh vội rút tay lại nhưng không hiểu tại sao chàng lại để yên cho Thừa Chí nắm như trước, rồi chàng khẽ nói:
- Bản lãnh của Viên huynh giỏi gấp đệ mười lần, nhưng về kinh nghiệm giang hồ thì hình như huynh rất bỡ ngỡ nhưng huynh đừng lo vì sau này có đệ sẽ giúp huynh những vấn đề đó.
- Ôn huynh tử tế thật, tôi chưa hề có một người bạn nào tuổi xấp xỉ như tôi, bây giờ mới gặp huynh...
Ôn Thanh nghe thấy chàng ta nói như vậy, vội cúi đầu xuống đáp:
- Nhưng phải nói, tôi rất xấu tính, thế nào cũng có một ngày tôi làm cho huynh bực mình.
- Tôi đã coi huynh là bạn, biết tính nết của bạnh ra sao rồi, thì dù bạn có làm mất lòng tôi cũng không sao.
Ôn Thanh cả mừng thở dài một tiếng và nói tiếp:
- Đệ chỉ ngại có điều này thôi, bây giờ huynh đã thông cảm được như vậy, đệ thật sung sướng lắm.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh đổi hẳn tính nết, ôn nhu hòa nhã chứ không như lúc cãi vã tranh chấp với Sa lão đại trên thuyền, nên chàng đáp:
- Đệ có câu này không biết Ôn huynh có nghe không?
- Trên đời này chỉ có lời nói của ba người mà đệ nghe thôi, một là ông ngoại tôi, hai là mẹ tôi, ba là Viên huynh.
Thừa Chí nghe nói rùng mình một cái và đáp:
- Không ngờ huynh lại coi trọng đệ đến thế, sự thật thì lời nói của người khác quí hồ hợp lý là chúng ta phải nghe hết.
- Hừ, tôi không như Viên huynh, tôi không chịu nghe lời của người khác, dù đối với tôi tử tế, tôi... tôi sẽ ưa người đó và bất cứ người ấy nói như thế nào, tôi cũng nghe hết, còn người mà đã bị tôi ghét thì dù người đó có nói phải lý đến đâu, tôi cũng không thích nghe.
- Ôn huynh vẫn còn tính trẻ con thật, năm nay huynh mấy tuổi?
- Mười tám? Còn Viên huynh?
- Tôi lớn hơn huynh hai tuổi.
Ôn Thanh cúi đầu mặt đỏ bừng khẽ hỏi tiếp:
- Tôi không có anh ruột, chúng ta kết nghĩa làm anh em nhé? Chẳng hay huynh có bằng lòng không?
Thừa Chí là người rất cẩn thận, chưa biết lai lịch của Ôn Thanh ra sau, tuy chàng đã thấy Ôn Thanh rất hợp ý, nhưng nói đến kết nghĩa thì chàng không dám, nên chàng chần chừ không dám trả lời ngay.
Ôn Thanh thấy Thừa Chí không trả lời liền đứng dậy chạy thẳng về phía trước.
Thừa Chí giật mình kinh hãi vội đuổi theo ngay. Chàng thấy Ôn Thanh chạy thẳng lên trên đỉnh núi liền nghĩ thầm: "Người này tính nết nóng nảy như thế, nếu ta không nhận lời chàng ta, chưa biết chừng chàng ta cũng sẽ tự tử cũng nên."
Nghĩ đoạn, chàng liền giở khinh công của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho đuổi theo, chỉ trong nháy mắt đã qua mặt Ôn Thanh rồi chàng quay mặt lại hỏi:
- Ôn hiền đệ giận tôi đấy à?
Ôn Thanh nghe thấy Thừa Chí gọi mình là hiền đệ cả mừng, liền ngừng chân lại, ngồi xuống đất và nói:
- Huynh đã khinh đệ, sao còn gọi đệ là hiền đệ như thế?
- Có bao giờ tôi dám khinh hiền đệ đâu, thôi lại đây, chúng ta cùng kết bạn đi!
Thế rồi hai người liền quỳ xuống vái trăng và thề rằng: "Có phúc cùng hưởng, bị nạn cùng chịu..." Thề xong, cả hai cùng đứng dây.
Ôn Thanh vái chào Thừa Chí một cái:
- Đại ca!
Thừa Chí cũng đáp lễ và trả lời:
- Tôi gọi hiền đệ là nhị đệ nhé! Thôi muộn lắm rồi, chúng ta cùng xuống núi nghỉ đi.
Hai người dắt tay nhau xuống núi trở về phòng.
Thừa Chí bảo Ôn Thanh rằng:
- Khuya lắm rồi, nhị đệ đừng về phòng của bá mẫu ngủ nữa, nếu nhị đệ về ngủ thì bá mẫu cũng thức tỉnh, chi bằng hiền đệ ở lại đây ngủ chung giường với ngu huynh nhé.
Ôn Thanh mặt đỏ bừng, giằng tay ra hờn giận đáp:
- Anh... anh...
Nhưng chàng lại cười ngay và chào rằng:
- Thôi ngày mai chúng ta gặp lại nhé.
Nói xong, chàng chạy ra cửa phòng luôn. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng.
Ngày hôm sau, Thừa Chí đang ngồi trên giường luyện công thì tiểu hoàn Nguyệt Hoa đem điểm tâm tới. Thừa Chí nhảy xuống giường cám ơn Nguyệt Hoa rồi ngồi vào bàn ăn điểm tâm.
Lúc ấy, Ôn Thanh cũng bước vào trong phòng vừa cười vừa nói:
- Đại ca, bên ngoài có một người đàn bà tới, đòi lấy số vàng đó, chúng ta ra bên ngoài xem sao.
Thừa Chí đáp:
- Được lắm!
Hai người đi ra đại sảnh, đã thấy Ôn Chính đang đấu với một thiếu nữ.
Hai ông già ngồi cạnh đó xem, một ông già tay cầm quảy trượng, một ông tay không. Ôn Thanh đi đến cạnh ông cụ cầm quảy trượng, rỉ tai nói mấy câu.
Ông già ấy quay lại nhìn Thừa Chí một hồi, rồi gật đầu mấy cái. Thừa Chí trông thấy thiếu nữ nọ tuổi trạc mười chín, hai má đỏ hồng, trông rất đẹp, võ công khá cao siêu. Nàng đấu với Ôn Chính mười mấy hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại. Chàng rùng mình một cái vì càng xem chàng càng nghi.
Thiếu nữ nọ tiến lên một bước, múa kiếm nhắm vai của Ôn Chính đâm tới. Ôn Chính đưa trái tay lại chém võ khí của đối phương. Y thấy đơn đao của y sắp chém trúng bảo kiếm của thiếu nữ kia rồi. Ngờ đâu, Ôn Chính ra tay đã nhanh mà thiếu nữ kia còn nhanh hơn, chỉ thấy nàng quay trường kiếm một vòng, rồi xoay mũi kiếm đâm luôn vào cổ của Ôn Chính.
Ôn Chính kinh hãi vô cùng, vội nhảy lùi về phía sau ba bước tránh né. Thiếu nữ lại thừa thế xông lên tấn công mấy kiếm nữa, thế kiếm nào của nàng cũng nhanh vô cùng. Thừa Chí đã nhận ra võ công của nàng này quả thật là võ công của phái Hoa Sơn rồi và chàng đoán chắc nàng ta còn được các anh của bổn môn chỉ điểm cho, bằng không với công lực của nàng yếu hơn đối thủ nàng đã thua từ lâu rồi. Sở dĩ nàng đánh ngang tay với Ôn Chính như vậy là nhờ ở Kiếm thuật tinh kỳ. Tuy thế công của nàng ta vừa nhanh vừa lợi hạ, nhưng cũng chả sao bằng Ôn Chính. Ôn Thanh cũng nhận thấy thiếu nữ kia địch không nổi Ôn Chính liền nói:
- Với tài ba non kém thế này mà cũng định đến cửa đòi lại đồ được.
Hai người lại đấu thêm mấy chục hiệp nữa, quả nhiên thế công thiếu nữ đã chậm dần. Trái lại Ôn Chính càng đấu càng hăng, Thừa Chí thấy tình thế nguy cấp, vội nhảy vào giữa hai người. Hai người đang đấu hăng như vậy, làm sao mà thâu khí giới được, nên một đao một kiếm đều nhằm người Thừa Chí mà ném tới. Ôn Thanh thấy vậy, kinh hãi thất thanh la lớn một tiếng và cả hai ông già cùng đứng dậy một lúc, vì Thừa Chí nhảy ra một cách đột ngột, nên hai ông già với Ôn Thanh cũng không kịp ra tay cứu viện nữa. Ngờ đâu, Thừa Chí giơ tay phải lên khẽ đẩy cổ tay của Ôn Chính một cái, còn tay trái thì giơ ra phía sau gạt tay của thiếu nữ rồi.
Thế là khí giới của hai người đều bị chàng gạt bắn sang bên, nên chàng muốn cướp khí giới của hai người đi thì thật là dễ như trở bàn tay, nhưng chàng không muốn khoe khoang võ công của mình và lại sợ Ôn Chính xấu hổ. Cho nên, chàng chỉ đẩy tay của hai người ra thôi, hai người đó đều biết võ công của chàng cao siêu hơn họ nhiều, nên họ vừa tức giận, vừa nhảy ra phía sau.
Ôn Chính lại tưởng Thừa Chí lại nghĩ đến mối hận đêm hôm trước, nên mới ra tay đẩy khí giới của mình như vậy. Còn thiếu nữ nọ thấy chàng đi cùng Ôn Thanh ra, tất nhiên biết người của địch rồi, nàng thấy địch không nổi Thừa Chí định bỏ chạy. Thừa Chí vội kêu gọi:
- Cô nương kia, hãy khoan đã, tôi có mấy lời muốn nói với cô.
Thiếu nữ nọ giận dữ đáp:
- Tôi địch không nổi các người, sẽ có người tài ba hơn tôi đến đây đòi số vàng này.
Thừa Chí tiến lên vái chào và nói tiếp:
- Xin cô nương chớ trách cứ như vậy, xin hỏi cô nương quý tính danh là gì, lịnh sư là ai?
Thiếu nữ kia giận dữ đáp:
- Ai có thì giờ nói chuyện lôi thôi với ngươi.
Nói xong, nàng phi thân đi luôn.
Thừa Chí tung mình nhảy theo, khi hạ chân xuống đã ở phía trước thiếu nữ kia, đồng thời chàng khẽ bảo nàng nọ rằng:
- Đừng đi vội, để tôi giúp cô nương một tay.
Thiếu nữ nọ, ngạc nhiên vô cùng vội hỏi lại:
- Tướng công là ai?
Thừa Chí đáp:
- Tôi họ Viên.
Thiếu nữ nọ ngắm nhìn chàng một hồi, bỗng lên tiếng hỏi:
- Tướng công có biết An đại nương không?
Thừa Chí rùng mình vội hỏi lại:
- Tôi là Viên Thừa Chí, cô nương có phải là Tiểu Tuệ không?
Thiếu nữ nọ mừng rỡ vô cùng, quên cả lễ nghi, vội nắm hai tay chàng và nói tiếp:
- Phải rồi! Phải rồi, anh là Thừa Chí đại ca phải không?
Nhưng nàng nói xong, mới biết là mình đã thất lễ, hổ thẹn đến mặt đỏ bừng, vội buông tay Thừa Chí ra. Ôn Thanh đứng cạnh đó tỏ vẻ không vui, Ôn Chính lại lớn tiếng:
- Ta tưởng Viên huynh là ai, không ngờ là người của Lý Tự Thành sai tới đây làm gian tế.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, vội hỏi lại:
- Tôi với Sấm Vương có quen nhau một lần thật, nhưng bảo tôi là gian tế thì thật là vô lý, tôi với cô nương này là bạn với nhau từ nhỏ.
Nói xong bèn quay qua Tiểu Tuệ hỏi khẽ:
- Chuyện như thế nào vậy?
Tiểu Tuệ hậm hực trả lời:
- Em với thôi đại ca chịu trách nhiệm vận chuyển số vàng này cho Sấm Vương, ngày hôm qua đi ngang qua một tiểu trấn thì ngờ đâu người kia xấu bụng lắm, chận đường cướp luôn số vàng của chúng tôi.
Nàng vừa nói, vừa giơ tay chỉ mặt Ôn Thanh.
Thừa Chí mới vỡ lẽ, thì ra số vàng mà Ôn Thanh cướp được lại là quân phí của Sấm Vương, không những Sấm Vương đối với mình tử tế như vậy, cả sư phụ cũng vui lòng giúp Sấm Vương nữa, huống hồ, còn Thôi Thu Sơn, An đại nương, và Tiểu Tuệ ba người, chỉ riêng ba người này ta cũng nể mặt mà lấy lại cho họ rồi, huống hồ Sấm Vương không quản ngại ngàn dặm xa xôi gửi số vàng từ Thiểm Tây đến Giang Nam chắc thế nào số vàng này cũng quan trọng lắm, bộ đội của Sấm Vương là bộ đội nhân nghĩa cứu dân cứu nước, ta không ra tay giúp sao được.
Chàng nghĩ như vậy, liền nói với Ôn Thanh rằng:
- Nhị đệ nể mặt ngu huynh mà trả cho cô nương này số vàng đi!
Ôn Thanh cười nhạt đáp:
- Đại ca hãy lên gặp hai ông của tiểu đệ đã, rồi hãy nói chuyện đó sau.
Nghe nói hai ông già kia là ông ngoại của Ôn Thanh, Thừa Chí nghĩ thầm: "Ta đã kết nghĩa với Ôn Thanh, hai ông già nọ tức là trưởng bối của ta..."
Nghĩ đoạn, chàng liền tiến lên vái chào hai ông già nọ. Ông già cầm quải trượng vội nói:
- Úi chà, lão không dám, mời Viên huynh đứng dậy.
Nói xong, ông ta để quài trượng vào ghế, rồi hai tay đỡ khuỷu tay Thừa Chí lên.
Thừa Chí bỗng thấy có một luồng sức mạnh đỡ mình dậy, nếu chàng cứ để yên thì thế nào cũng bị hất bắn lên trời nên chàng vội lấy sức trầm hai cánh tay xuống và vẫn tiếp tục chào đủ bốn lạy mới đứng dậy.
Ông già nọ thấy vậy, kinh hãi thầm nghĩ: "Nội công của thiếu niên này thâm hậu thật, ta đã luyện mấy chục năm nội công mà cũng không sao nâng y lên được."
Nghĩ đoạn, ông ta cười ha hả và nói tiếp:
- Nghe Thanh nhi nói, võ công của Viên huynh cao siêu lắm, bây giờ lão mới được gặp, quả thật không sai.
Ôn Thanh vội giới thiệu:
- Đại ca đây là ông ba của đệ đấy.
Chàng lại chỉ ông già tay không giới thiệu tiếp:
- Còn ông này là ông năm của đệ.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Có lẽ hai ông già này là người trong Ngũ tổ của phái Thạch Lương đây."
Nghĩ đoạn, chàng liền chào hỏi một câu:
- Gia gia.
Thừa Chí thấy hai ông già có vẻ không vui ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm: "Cha ta là danh tướng kháng địch, làm Đốc soái ở Liêu Đông, ta kết nghĩa với cháu các ngươi như vậy chẳng lẽ các ngươi còn cho là nhục mặt hay sao?"
Nói tới đó, chàng quay đầu lại nhìn Ôn Thanh nói tiếp:
- Nhị đệ làm ơn trả số vàng cho cô bé này.
Ôn Thanh hờn giận đáp:
- Đại ca chỉ biết nói cô nương này cô nương nọ, chứ không thèm coi người ta ra gì hết.
- Nhị đệ, chúng ta con nhà võ phải nên trọng nghĩa khí trên hết, số bạc đó đã là tiền bạc của Sấm Vương rồi. Khi nhị đệ cướp không biết vàng đó là của ai nên mới taycướp như vậy, nhưng bây giờ đã biết là của ai rồi thì tiền đệ trả cho cô ta đi, còn lấy làm chi nữa.
Minh Sơn và Minh Nghĩa hai ông già đều không biết số vàng ấy liên can lớn như vậy, chỉ tưởng là của một phú thương thôi. Bây giờ nghe thấy An Tiểu Tuệ nói vàng đó là của Sấm Vương trong lòng không yên. Vì hai người biết thế lực của Sấm Vương rất lớn, các hào kiệt trên giang hồ đều ngưỡng mộ và phò trợ ông ta là khác. Nếu bây giờ không trả món vàng này cho Sấm Vương ngay thì người của ông ta sẽ đến tới tấp thì làm sao mà đối phó được?
Cho nên Minh Sơn mỉm cười trả lời Thừa Chí rằng:
- Thôi được, nể mặt Viên huynh chúng tôi xin trả hết số vàng đó.
Ôn Thanh vội xen lời nói:
- Sao Tam gia gia lại nhận lời như thế?
Thừa Chí cũng đỡ lời ngay:
- Nửa số vàng mà hiền đệ đã chia cho tôi rồi thì hiền đệ hãy đưa cho tôi số vàng đó để tôi trả cho cô nương kia trước.
- Nếu đại ca muốn lấy thì đệ xin tặng hết số vàng đó cho đại ca ngay, chứ đệ có phải là những hạng người coi tiền bạc rất to đâu, nhưng còn đại ca bảo tiểu đệ trả cho cô kia thì đệ nhất định không chịu, dù chỉ đưa có nửa phần thôi.
Tiểu Tuệ tiến liên một bước giận dữ hỏi:
- Chẳng hay bạn muốn như thế nào mới chịu trả, xin cứ nói điều kiện ra đi.
Ôn Thanh lại hỏi Thừa Chí tiếp:
- Thế nào, đại ca định giúp nàng ta hay là giúp tiểu đệ đây?
Thừa Chí chần chừ giây lát rồi đáp:
- Tôi không giúp ai cả, tôi chỉ nghe lời dạy bảo của sư phụ tôi.
- Sư phụ của anh là ai?
- Sư phụ của tôi hiện ở trong bộ đội của Sấm Vương.
- Hừa, nói đi nói lại, rốt cuộc anh vẫn giúp người chứ không giúp đệ, thôi được tất cả số vàng hiện đang ở nơi đây, tôi tốn rất nhiều mưu trí và khó nhọc mới lấy trộm được, thì bây giờ cô ta cũng phải nghĩ cách mà lấy trộm lại, tôi hẹn cho trong ba ngày nếu cô ta có đủ tài ba lấy trộm được thì cứ việc đem số vàng đó đi, nhược bằng trong ba ngày mà không lấy nổi thì đừng có trách tôi. Lúc ấy tôi sẽ có cách khác để đối phó.
Thừa Chí giật tay áo chàng ta và khẽ nói:
- Nhị đệ, hãy theo tôi lại đàng này tôi có chuyện riêng muốn nói với hiền đệ.
Hai người liền đi ra chỗ góc tường, Thừa Chí liền nói với chàng ta tiếp:
- Tối hôm qua, hiền đệ còn nói chỉ nghe lời của ngu huynh thôi chứ không nghe lời của ai cả, sao ngày hôm nay em lại giở giọng một cách đột nhiên như thế?
Ôn Thanh nói tiếp:
- Đại ca đối xử với đệ tử tế như thế tất nhiên đệ phải nghe lời của đại ca chứ?
- Nhị đệ nói rất phải, nhưng nhị đệ có thấy tôi đối xử với nhị đệ như thế nào không? Vả lại số vàng này có phải là tiền bạc cá nhân của cô ta đâu, như vậy nhị đệ còn giữ làm chi nữa.
- Nhị huynh mới gặp người bạn cũ một cái đã khinh rẻ đệ ngay rồi, dù đệ có xài hết số vàng của Sấm Vương rồi, nhiều lắm chỉ bị Sấm Vương cho người đến giết chết cả nhà đệ là cùng. Nhưng đệ có sợ bị giết chết như thế đâu? Vì đệ không còn một người nào thực lòng tử tể và thương mình nữa thì đệ cũng chả muốn sống ở trên thế gian này làm chi.
Thấy Ôn Thanh cứ khăng khăng không chịu trả, Thừa Chí tỏ vẻ không vui hỏi tiếp:
- Nhị đệ là người em kết nghĩa của ngu huynh, còn cô kia là con gái của ân nhân. Tôi coi hai người cũng như một thôi chứ không ai khinh ai trọng cả.
- Đại ca đừng nói nhiều nữa, đại ca cứ việc giúp cô ta đến đây mà lấy trộm lại số vàng đó đi, nếu đại ca lấy được đệ không còn dị nghị gì hết.
Thừa Chí còn muốn kéo tay chàng ta nói tiếp, nhưng chàng ta đã hất tay Thừa Chí chạy luôn vào trong nội thất rồi.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh bướng bỉnh như vậy đành phải cùng Tiểu Tuệ cáo lui đi luông đến ở trọ nhà một người làm, sang đó để bàn tính với nhau.
Tiểu Tuệ hỏi:
- Đại ca tính thế nào về số vàng kia?
Thừa Chí đáp:
- Chúng ta đi lấy lại số vàng đó.
- Nhưng vị hiền đệ của đại ca không bằng lòng chúng ta phải làm thế nào đây?
Thừa Chí đáp:
- Tôi đã nhất định rồi, phải lấy số vàng kia trao trả lại cho hiền mụi, còn chuyện nhị đệ sẽ tính sau.
- Chừng nào chúng ta hành động?
- Tối nay chúng ta sẽ tới đó thu số vàng kia...
Cơm dọn ra, Thừa Chí và Tiểu Tuệ ăn xong, mỗi người vào phòng nằm nghĩ ngợi...
* * *
Trời tối hẳn, Thừa Chí trong phòng đã trông thấy Tiểu Tuệ đã mặt bộ võ phục gọn gàng.
Giờ Tiểu Tuệ đã là một thiếu nữ xinh đẹp như đóa hoa xuân vừa hé nhụy, nhất là đôi mắt nàng hút hồn.
Thừa Chí chưa quan tâm tới điều đó vì chàng rất nóng nảy về chuyện số vàng của Tiểu Tuệ mà Ôn Thanh không chịu trả.
Thấy Thừa Chí tới trước cửa phòng, Tiểu Tuệ đứng lên:
- Đại ca, chúng ta đi chứ?
Thừa Chí gật đầu:
- Vâng. Chúng ta đi mau hiền mụi.
Hai người cùng bước ra ngoài nhắm ngôi nhà thẳng tới.
Chẳng bao lâu Thừa Chí và Tiểu Tuệ đã đến nơi, dừng lại ở xa xa.
Thừa Chí trỏ tay qua phía ngôi nhà nóc ngói bảo:
- Ngôi nhà đấy hiền mụi.
Tiểu Tuệ nhìn theo ngón tay của Thừa Chí:
- Ngôi nhà không thấy có đèn anh ạ!
Giọng của Thừa Chí trầm hẳn xuống:
- Đương nhiên là họ đã có chuẩn bị sẵn sàng rồi nên họ không tắt đèn để dẫn dụ một kẻ địch.
Chàng bảo:
- Chúng ta tới trước xem sao.
Hai người cùng bước tới gần ngôi nhà âm thầm dừng lại quan sát bốn phía.
Thừa Chí nhủ thầm: "Tình hình ngôi nhà như thế..."
Chàng liền khẽ dặn Tiểu Tuệ rằng:
- Thế nào họ cũng có cao thủ ẩn núp ở bóng tối, cô phải cẩn thận mới được.
Tiểu Tuệ gật đầu cau mặt lại suy nghĩ, chỉ thoáng cái nàng đã nghĩ ra được một kế liền nhảy ngay xuống bên dưới, Thừa Chí thấy nàng nhảy một mình nguy hiểm cũng vội xuống theo. Chàng thấy nàng bay chạy thẳng xuống dưới bếp lấy một ngọn lửa đem đến căn phòng chứa rơm rạ đốt luôn, không bao lâu lửa bốc lên chọc trời.
Người nhà của họ Ôn thấy ngọn lửa bốc lên đều kêu la om sòm, các tráng đinh vội lấy nước tới để dập tắt ngọn lửa. Thừa Chí với Tiểu Tuệ quay trở ra đại sảnh đèn nến ở nơi đây vẫn sáng như thường, còn bốn người nọ thì mất tích. Tiểu Tuệ cả mừng nói:
- Bọn họ đã đi cứu lửa rồi.
Nói xong, nàng chạy luôn vào trong khách sảnh. Thừa Chí cũng đi theo vào.
Hai người tới cạnh cái bàn đó đang định giơ tay ra lấy hai đống vàng thì bỗng thấy dưới chân mềm nhũn. Thừa Chí biết là mắc hỡm rồi vội tung mình nhảy lên giơ tay phải ra định túm lấy tay của Tiểu Tuệ nhưng túm không kịp. Thì ra tấm ván ở dưới chân là cái nắp cạm bẫy, chàng tung mình nhảy lên tay trái ôm lấy cột đá của khách sảnh ở đó rồi mối đang từ từ tuột chân xống biên dưới, chân chàng đứng ở trên nên đá vào cột trụ kia, nhờ vậy mới thoát khỏi nguy hiểm, lúc ấy nắp hầm đã đậy liền. Tiểu Tuệ bị giam ở bên dưới rồi, chàng cả kinh vội nhảy ra ngoài cửa sổ để tìm kiếm then chốt của máy móc của cái hầm đó mong cứu Tiểu Tuệ thoát nạn. Nhưng chàng vừa ra tới bên ngoài đã thấy có một luồng gió mạnh lấn át tới biết ngay đã có người tấn công lén. Chàng vội giơ hữu chưởng lên phản công chưởng lực của người nọ, trong khi tay của hai người va chạm nhau, chàng đã mượn sức của đối phương mà tung mình nhảy lên trên mái nhà còn người nọ thì bị chàng đẩy xuống dưới đất, nhưng thân hình của người đó rất nhanh, chân vừa đụng mặt đất y đã nhún vai một cái nhảy luôn lên trên mái nhà theo.
Vừa lên tới mái nhà và đứng yên xong, Thừa Chí đưa mắt nhìn bốn xung quanh liền toát mồ hôi lạnh tức thì. Thì ra lúc ấy bốn chung quanh lố nhố toàn là những người cao có, lùn có, béo có, gầy có, bao vây chặt lấy chàng. Tất cả những người đó đang bao chặt lấy mình, còn người mà chàng đẩy rớt xuống bên dưới lại nhảy lên chính là Ôn Chính.
Thừa Chí biết mình đã sa chân vào chốn nguy hiểm vì không biết đối phương sẽ đối xử mình ra sao, nhưng chàng vẫn đứng yên ở đó xem kẻ địch ra tay với mình như thế nào trước rồi mới nghĩ cách đối xử lại sau, nên chàng chỉ đứng yên chẳng nói chẳng rằng. Bỗng thấy trong đám đông, có năm ông già bước ra, chàng đã gặp mặt hai người rồi, còn ba người tuy chưa được gặp bao giờ nhưng chàng cũng biết ba người kia cũng là nhóm Ngũ tổ của phái Thạch Lương. Hai người mà chàng đã được gặp là Đệ tam tổ của Ôn Thanh, Ôn Minh Sơn và Đệ ngũ tổ Ôn Minh Ngô, còn ba người kia người đứng giữa rất cao lớn, cao hơn mọi người một cái đầu. Người đó bước ra cả cười ha hả, tiếng cười kêu như tiếng chuông vậy, cười xong, y mới lên tiếng nói:
- Năm anh em lão là ở chống thôn quê hoang vu này mà cũng có cao nhân của Sấm Vương giáng lâm, thật là nhà cửa rạng rỡ và tam sinh hữu hạnh, hà... hà...
Thừa Chí tiến lên vái chào và đáp:
- Tiểu bối tham kiến lão tiền bối.
Chàng thấy bốn xung quanh đều là kẻ địch chỉ sợ lúc mình cúi đầu vái chào sẽ bị đối phương ném ám khí lén. Nhưng lễ phép vẫn không sao thiếu được, nên chàng vừa bái chào vừa để ý bốn xung quanh. Ôn Thanh cũng vội tiến lên lớn tiếng giới thiệu:
- Đây là đại gia gia của tiểu đệ, còn hai vị nữa là nhị gia gia với tứ gia gia.
Thừa Chí liền chắp tay cúi đầu vái chào hai người kia.
Trong nhóm Ngũ tổ chỉ có đại ca Ôn Minh Đạt, nhị ca Ôn Minh Nghĩa và tứ ca Ôn Minh Thi là chắp tay đáp lễ thôi. Đồng thời cả ba người ngắm nhìn Thừa Chí một hồi. Minh Nghĩa là người nóng tính nhất trong bọn nên y vội lên tiếng nói trước:
- Ngươi tuổi nhỏ như thế này mà gan ngươi lại lớn đến thế dám phóng hỏa đốt nhà chúng ta.
Thừa Chí đáp:
- Đó là bạn của tiểu bối nhất thời lỗ mãng, tiểu bối cũng biết ra tay như thế thực không nên không phải nhưng cũng may chưa gây nên tai hại lớn. Ngày mai tiểu bối sẽ trở lại nơi đây xin lỗi quý vị...
Lúc ấy ngọn lửa bốc cháy căn phòng đựng rơm rạ đã bị dập tắt chưa cháy lan qua căn nhà khác. Minh Thi là người vừa gầy vừa cao và cũng chính là ông nội của Ôn Chính mặt mũi của hai ông cháu giống hệt như nhau. Y thấy Thừa Chí nói xong vội đỡ lời ngay:
- Chúng ta định cư ở nơi đây mấy chục năm chỉ có người khác tới đây vái lạy cầu thân thôi chớ không hề thấy một đứa nhỏ nào dám đến quấy nhiễu cả, sư phụ của ngươi là ai, sao ngươi lại vô lễ phép đến thế?
Thừa Chí đáp:
- Gia sư hiện ở trong quân đội của Sấm Vương, chỉ mong quý vị trao trả cho số vàng của Sấm Vương thì tiểu bối thế nào cũng về thưa gia sư rõ thì thế nào gia sư cũng sẽ viết thư tạ tội gởi tới.
Ôn Minh Đạt xen lời hỏi:
- Sư phụ của ngươi là ai?
Thừa Chí đáp:
- Sư phụ của tiểu bối không hay lộ diện ở trong giang hồ nên tiểu bối không dám nhắc nhở đến tên tuổi của ông ta.
Ôn Minh Nghĩa dùng giọng mũi kêu lên một tiếng rồi cũng xen lời nói:
- Ngươi không nói chẳng lẽ chúng ta cũng không biết người là môn hạ của ai sao?
Nói tới đó ông ta ra hiệu cho một người đứng gần đó:
- Ngươi ra tiếp anh bạn này mấy hiệp.
Một người ở trong đám bước ra trông khôi vĩ oai nghi, y là đệ tử thứ hai của Minh Nghĩa, là hảo thủ số một trong bọn người đời thứ hai của phái Thạch Lương. Y liền nhảy ra múa quyền tấn công luôn. Thừa Chí né đầu tránh và giơ tay trái ra phản công và bụng thì nghĩ thầm: "Kẻ địch nhiều người như vậy đấu từng người một với chúng như thế dù mình có đắc thắng cũng chết mệt, ta phải giải quyết cho thực nhanh chóng thì mới mong thoát thân được."
Nghĩ như vậy, chàng đợi quyền bên trái của đối phương đánh tới liền giơ hữu chưởng lên chống đỡ chưởng đó và xoay tay nắm luôn quyền của địch thủ thuận thế lôi luôn về phía sau một cái. Nam Dương không kịp đề phòng đâm bổ đầu về phía trước té ngã, chân đã dậm vỡ mấy hòn ngói, nếu không được ngũ thúc của y là Minh Ngô ra tay kéo lên lại thì y đã đâm bổ xuống dưới nhà té ngã.
Nam Dương hổ thẹn vô cùng mặt càng đỏ thêm quay người nhảy xô lại tấn công tiếp. Thừa Chí vẫn đứng yên đợi chờ đối phương nhảy xô tới bỗng xoay người một vòng nằm ngả người về phía sau giơ chân trái lên khẽ móc một cái, Nam Dương lại bị đâm bổ về phía trước té ngã luôn.
Thừa Chí dùng chân trá móc đồng thời lại giơ hữu chưởng ra. Chàng cũng biết đối phương thế nào cũng ngã sấp về phía trước nên mới giơ tay ra để chộp lưng địch thủ.
Nam Dương bị chân của đối phương móc làm cho ngã sấp, mũi sắp đụng vào mặt ngói thì bỗng bị người xách bổng lên và để đứng thẳng người xuống. Hai lần bị đánh té như vậy y đâu dám đấu với Thừa Chí nữa, nên chỉ hậm hực lườm chàng ta một cái rồi rút lui ngay.
Ôn Minh Nghĩa thấy vậy quát lớn:
- Tiểu tử này võ công cũng khá cao siêu đấy, để lão gia tiếp tay với để tử của cao nhân vài chiêu
Nói xong, y múa song chưởng và tiến lên. Ôn Thanh đột nhiên nhảy tới cạnh ông già đó rỉ tai khẽ nói: "Nhị gia gia, y là anh em kết nghĩa với cháu, xin gia gia đừng đả thương y nhé."
Minh Nghĩa quay đầu lại mắng chửi:
- Con nhãi này lắm chuyện thực.
Ôn Thanh lại kéo tay Nhị tổ và nói:
- Thế nào? Ông có nhận lời giúp cháu không?
Ôn Minh Nghĩa nói:
- Để ông xem đã!
Nói đoạn, ông cụ hất mạnh một cái, Ôn Thanh bị đẩy lui mấy bước. Minh Nghĩa chững chạc tiến lên hai bước. rồi nói:
- Cậu kia, ra tay đi!
Thừa Chí chắp tay lạy:
- Cháu không dám, xin mời cụ ra tay trước!
- Cậu không chịu nói sư phục cậu là ai, thì cậu đánh luôn ba miếng, xem ta có biết hay không?
Thấy ông cụ làm phách, Thừa Chí hơi bực mình liền nói:
- Nếu vậy, cháu xin thất lễ trước. Tài nghệ của cháu còn non nớt lắm xin cụ thương cho đừng đánh quá mạnh.
Thừa Chí hất tay áo dài lên mái ngói, đánh mạnh vào đầu Minh Nghĩa. Minh Nghĩa ngẩn người ra, cúi đầu giơ tay ra định bắt tay áo của Thừa Chí. Ngờ đâu, chưa đánh tới đích, tay áo nọ đã phất phới bay lên, và tay áo trái của Thừa Chí đã đánh tới mặt ông cụ rồi. Tay áo sau nhanh và mạnh quá, Minh Nghĩa tránh không nổi. Nhưng dù sao ông ta cũng đã có mấy chục năm công lực và bao phen vào sanh ra tử giữa chốn núi đao rừng kiếm, nên kinh nghiệm rất phong phú. Biết tránh không được, ông ta đành phải ngửa người ra phía sau để tay áo của địch khỏi đánh trúng vào mình. Thấy đối phương đã tránh được một miếng, Thừa Chí không để cho Minh Nghĩa có thì giờ trả đũa, bỗng quay lưng lại trước mặt địch thủ. Ông cụ ngạc nhiên, tưởng Thừa Chí bỏ chạy, định chìa tay phải ra bắt lại. Bỗng thấy một làn gió mạnh đẩy tới, ông cụ không ngờ hai tay của Thừa Chí đưa về phía sau, và đôi tay áo ở dưới hất lên, như hai con rắn độc chui thẳng vào nách mình. Thấy kẻ địch đánh miếng võ lạ lùng như vậy, Minh Nghĩa giơ hai tay nắm lấy tay áo của Thừa Chí nhưng đã quá muộn, lưng của ông cụ đã bị đánh trúng. Đồng thời Thừa Chí đã nhân dịp đó nhảy ra xa rồi.
Vừa tức vừa xấu hổ, Minh Nghĩa vẫn không sao biết được môn võ tay áo của phái nào. Thì ra miếng võ thứ nhất, Thừa Chí sử dụng thế "Phục Hổ chưởng" của Mục Nhân Thanh. Miếng thứ nhì chàng căn cứ ở môn khinh công của Mộc Tang mà biến hóa ra. Miếng thứ ba "Song Sư Nhập Động" là chàng tập luyện theo cuốn "Kim Xà bí kíp" của Kim Xà Lang Quân. Sợ đối thủ nhận ra miếng sau cùng, chàng phải thay đổi đôi chút, lại thêm song chưởng giấu trong tay áo, Ôn Minh Nghĩa làm sao biết được.
Bốn anh em Ôn Minh Đạt ngơ ngác nhìn nhau đều cảm thấy lạ lùng.
Xấu hổ quá mức, Minh Nghĩa mặt đỏ bừng, râu tóc dựng ngược đánh luôn một chưởng đến "vù" một cái. Dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí trông thấy đầu Minh Nghĩa bốc hơi nóng lên chân đi chậm chạp và loạng choạng, tỏ ra nội công rất cao siêu, nên chàng không dám đùa giỡn, vội né mình tránh luôn hai miếng. Vén tay áo lên, chàng giở hết những món tuyệt kỹ trong "Phục Hổ chưởng pháp" để đối địch. Thấy một tay đánh phía mặt đưa tới, Thừa Chí nhìn rõ gan bàn tay của đối thủ đỏ như máu, trong lòng chàng cũng hơi chấn động. Dưới bóng trăng, thủ chưởng đó nom càng rùng rợn hơn nữa. Thừa Chí nghĩ thầm: "Không ngờ ông già này đã luyện được Chu Sa chưởng hay Hồng Sa chưởng, sư phụ ta có nói, chưởng lực đó lợi hại vô cùng, không nên để cho nó đánh trúng vào người."
Liền đoạn chàng liền áp dụng chưởng phong của mình một cách kín đáo hơn, song chưởng cứ liên miên bất tuyệt đánh cổ tay phải hơi đen, vội nhảy ngay ra.
Cúi đầu xem kỹ, ông ta thấy cổ tay có một vết đỏ và hơi sưng lên. Thì ra ông cụ đã bị Thừa Chí dùng ngón tay rạch một cái. Tuy tức giận thật nhưng Minh Nghĩa không dám tiếp tục thử tài với Thừa Chí nữa.
Tiến lên một bước, Ôn Minh Sơn nói:
- Viên huynh đây tuổi tuy còn nhỏ nhưng chưởng pháp đã tới mức tinh diệu vô cùng. Lão huynh đây muốn lãnh giáo thử xem công phu khí giới của huynh ra sao?
Thừa Chí trả lời:
- Tiểu bối không dám mang theo khí giới vào quý trang.
Minh Sơn cười kha khả nói:
- Viên huynh giữ lễ phép kể cũng chu toàn đấy. Đó cũng có thể nói là: Người tài nghệ cao bao giờ cũng can đảm hơn người. Thôi được chúng ta tới Luyện Võ sảnh vậy.
Vẫy tay một cái, Minh Sơn nhảy phắt xuống đất, mọi người lần lượt theo sau nhảy xuống. Thừa Chí cũng đành phải theo họ vào trong nhà, Ôn Thanh vừa dịp đó lại gần chàng và khẽ rỉ tai: "Trong chiếc gậy của ông em có ám khí đấy!"
Chàng định hỏi han vài lời, thì Ôn Thanh đã quay lại nói với Ôn Chính:
- Thế nào? Thấy bản lĩnh của người ta giỏi như thế, anh đã chịu phục chưa?
Ôn Chính trả lời:
- Ông Hai cưng em nên mới nhường cho nói một vài miếng như thế có gì là lạ?
Ôn Thanh cười nhạt, không thèm nói chuyện với Ôn Chính nữa.
Mọi người vào cả trong Luyện Võ sảnh. ánh sáng chói lọi như ban ngày. Tất cả người nhà họ Ôn, từ già chí trẻ, ai ai cũng đều biết võ cả. Lúc đó, họ nghe nói cụ Ba định đấu võ với người khách, nên rủ nhau đến cả Võ Sảnh để xem, trong đó có cả đứa trẻ độ bảy, tám tuổi. Sau cùng, Thừa Chí lại trông thấy một người đàn bà rất đẹp, trạc độ bốn mươi tuổi cùng Nguyệt Hoa bước ra. Ôn Thanh chạy lại gọi: "Má!" Người đàn bà đẹp đó nét mặt ủ rũ, đưa mắt lườm Ôn Thanh có vẻ không vui.
Ôn Minh Sơn chỉ vào những giá cắm khí giới bày xung quanh rồi nói:
- Viên huynh muốn sử dụng khí giới gì cứ việc ra mà chọn lấy!
Thừa Chí tính thầm trong bụng: "Câu chuyện ngày hôm nay không thể nào kết thúc một cách êm thấm được. Tuy nhiên ta cũng không nên đánh ai bị thương để tránh sự gây thù kết oán. Vừa mới ra đời mà ta đã gặp phải vấn đề nan giải này rồi. Bây giờ không biết ứng phó thế nào cho phải đây?"
Thấy Thừa Chí cau mày có vẻ tư lự và không thấy chàng nói năng gì cả, Ôn Thanh tưởng chàng e ngại liền bảo:
- Ông ba em rất thương những người kẻ dưới. Anh cứ yên trí, ông Cụ không đánh anh bị thương đâu!
Má Ôn Thanh bực mình mắng ngay:
- Ôn Thanh! Con không được nói nhiều.
Ôn Minh Sơn đưa mắt nhìn Ôn Thanh rồi nói:
- Điều đó còn phải chờ xem tài nghệ của người ấy ra sao. Viên huynh thích dùng đao hay kiếm?
Thừa Chí đưa mắt nhìn xung quanh bỗng thấy Nguyệt Hoa dắt một đứa trẻ độ sáu, bảy tuổi đứng cạnh đó. Chàng đoán có lẽ thằng nhỏ đó là cháu của Ôn Thanh. Thấy tay nó đang cầm một thanh kiếm bằng gỗ, sơn màu lòe loẹt, loại đồ chơi trẻ con, Thừa Chí liền đi tới cạnh thằng bé và bảo nó rằng:
- Cậu em, cho anh mượn thanh kiếm này nhé!
Thằng nhỏ nhoẻn miệng cười đưa ngay thanh kiếm gỗ cho chàng. Cầm thanh kiếm lên, chàng nói với Minh Sơn:
- Tiểu bối không dám động tới đao kiếm thật với lão tiền bối, chỉ xin dùng tạm thanh kiếm gỗ này để thọ giáo vài hiệp.
Hồi 7

Nghe mấy lời của Thừa Chí có vẻ khinh thị, Ôn Minh Sơn giận đến nỗi giở mặt ngay, nhưng nghĩ sao, ông ta ngửng mặt lên trời cười ha hả, rồi nói:
- Lão phu lăn lộn ở chốn giang hồ đã mấy chục năm trời, chưa từng gặp ai dám coi thường cây gậy thép đầu rồng của ta. Thôi được, cậu có tài thì cứ việc dùng kiếm gỗ kia mà chém gẫy cây thép này của ta đi!
Nói đoạn, ông ta quay ngang, rồi "vù" một tiếng, quạt luôn vào ngang lưng Thừa Chí. Lúc ấy chiếc gậy vụt mạnh và nhanh khiến ai ai cũng tưởng Thừa Chí đã bị đập ngãy lưng, nhưng ngay khi đó thấy chàng bắn vọt lên trên. Nhanh như chớp, Thừa Chí chưa xuống tới đất đã đâm thẳng kiếm gỗ vào mặt đối phương rồi. Quay ngược quài trượng, Ôn Minh Sơn liền dùng đầu gậy điểm huyệt trọng yếu phía sau lưng Thừa Chí. Thừa Chí nghĩ thầm: "Không ngờ quài trượng của y lại còn dùng để điểm huyệt nữa! Nếu vậy ta cần phải thận trọng mới được."
Vừa suy nghĩ, vừa né mình để tránh, rồi đột nhiên đưa kiếm gỗ vuốt dọc theo chiếc gậy thép chém ngược lên. Nếu cây kiếm đó thuộc loại kim khí thì mấy ngón tay kẻ địch tất nhiên phải bị chém đứt ngay. Thế kiếm ấy của chàng rất lợi hại. Minh Sơn tuy biết kiếm đó bằng gỗ thật nhưng nếu để cho chàng chém trúng thì tay mình thế nào cũng bị trọng thương, nên ông phải buông gậy ra cho nó rơi xuống đất để tránh khỏi tình trạng nguy ngập đó. Nhưng tay trái ông ta lại bắt luôn đuôi một cách chớp nhoáng, đồng thời hất mạnh một cái, ông đã đưa bổng chiếc gậy nặng mấy chục cân lên trời. Thấy ông lão mắt nhanh, tay nhanh và thế võ lại quá ư lợi hại, Thừa Chí cũng phải phục thầm.
Hai người càng chiến càng hăng. Quài trượng của Minh Sơn múa kêu "vù vù." Một đôi khi chiếc gậy đánh hụt trúng mặt đất, khiến gạch lát vỡ vụn ra như cám. Lẩn tránh, len lỏi giữa khe gậy, Thừa Chí tựa như con bươm bướm bay đi lượn lại. Kiếm gỗ của chàng nhẹ nhàng linh độn lúc nào cũng nhè những nơi hiểm yếu của địch mà tấn công.
Chớp mắt đã đánh được bảy, tám mươi hiệp. Trượng pháp của ông ta đột nhiên biến đổi, quét ngang điểm ngược, vây kín xung quanh kẻ địch khiếng người đứng xem chỉ thấy gió ở cây trượng phát ra càng ngày càng mạnh. Dưới ánh nến chỉ thấy bóng sáng vòng tròn của quài trượng quay tới và làm lóe mắt mọi người.
Từ khi học võ tới giờ, lần đầu tiên Thừa Chí gặp phải tay kình địch. Sức mạnh chiếc gậy thép của địch quá lớn, nên chàng không sao tới sát cạnh đối phương được, còn cây kiếm gỗ thì lại không dám va chạm với quài trượng bằng thép kia. Chàng nghĩ thầm: "Ta phải dùng tới tuyệt chiêu của sư phụ thì mới có thể thẳng nổi."
Nghĩ đoạn, chàng bỗng đứng sững người ra trong giây lát, Minh Sơn mừng quá, quét ngay một gậy tới, Thừa Chí dùng tay trái nắm luôn đầu gậy, bẻ sang một bên, còn tay phải đưa kiếm đâm thẳng vào người kẻ địch.
Giựt mình sợ hãi, Minh Sơn cảm thấy hổ khẩu tê buốt đồng thời chiếc gậy thép đã bị Thừa Chí cướp giật mất. Vì Minh Sơn là người bề trên nhà họ Ôn, nên Thừa Chí phải giữ lễ độ và không dám làm đối phưong phải mất sĩ diện. Chàng thu kiếm lại và đồng thời trả lại cây gậy thép tận tay Minh Sơn.
Vừa sợ vừa giận, Minh Sơn lại giáng luôn một gậy nữa. Thừa Chí nghĩ thầm: "Ông già này buồn cười thật! Đã thua rồi mà vẫn chưa chịu!"
Gậy thép của đối phương đã đánh tới người, không còn thời giờ để suy nghĩ nữa chàng bèn vung tay dùng một thế khéo léo hất mạnh một cái, thế là cây gậy thép to lớn đã văng tuốt lên cao chẳng qua Minh sơn chỉ muốn chữa thẹn ra oai, nhưng không ngờ chỉ nhục thêm chứ có ích lợi gì đâu?
Năm anh em Ngũ tổ trong phái Thạch Lương có Ôn Minh Thi người thứ tư là giỏi về môn ám khí nhứt. Ông ta sử dụng 24 chiếc phi đao, bách phát bách trúng. Phi đao của ông ta cũng khác hẳn những ám khí cùng loại, mỗi cái nặng nửa cân. Khi đối địch, ông ta cắm những phi đao đó vào trong bao da đeo ở sau lưng. ám khí dùng để tấn công khi kẻ địch không phòng bị, đại khái chơi trụ tiền giấu trong tay áo, tật lê giấu trong túi áo... nhưng ám khí của Minh Thi lại đeo ra ngoài áo, cán đao thì khoét lỗ, lúc phóng ra không khí luồn qua kêu o o, ông ta tự hào là đao của mình thiên hạ vô song. Tiếng kêu của cán đao báo hiệu cho đối phương. Nhưng sự thật tiếng kêu đó làm loạn tinh thần chiến đấu của địch thì đúng hơn.
Minh Thi thấy anh ba mình đột nhiên bắn ám khí ra mà đều bị Thừa Chí dùng thủ pháp khác lạ bắt mất thì nói.
- Tài đỡ ám khí của Viên huynh giỏi lắm! Bây giờ xin mời Viên huynh tiếp thử phi đao của tôi xem sao?
Nói đoạn, chàng trao kiếm gỗ trả lại cho thằng nhỏ. Người nhà họ Ôn ai cũng biết phi đao của Minh Thi lợi hại lắm. Nếu Thừa Chí bắt được cả số phi đao đó thì không sao, bằng không chàng chỉ bắt hụt một con là người đứng xem phía sau sẽ bị tai vạ liền. Bởi vậy, trừ bốn anh em trong Ngũ tổ ra, ai nấy đều phải rút lui phía ngoài cửa đứng xem để khỏi bị chết oan chết uổng.
Ôn Minh Thi gọi to:
- Coi chừng phi đao!
Vừa dứt lời, hắn chỉ phẩy tay một cái, giữa một đạo ánh sáng lạnh lập lờ, một con đao đã vù vù bay tới.
Thấy phi đao có vẻ không hiểm độc lắm, Thừa Chí nghĩ thầm: "Nếu dùng tay bắt lấy con đao này thì họ không hiểu tài ba của ta. Ta phải trổ tài thế nào để cho họ chịu phục thì họ mới chịu thả Tiểu Tuệ và trả lại số vàng."
Chàng vội móc túi lấy ra hai quân cờ, mỗi tay cầm một quân nhằm đúng phi đao mà ném. Quân cờ bên tay trái tới trước. Chỉ nghe "keng" một tiếng, phi đao đã mất tiếng vù vù như trước vì quân cờ đã đánh gãy chuôi đao rỗng ruột và có tiếng kêu như sáo diều kia. Còn quân cờ bên tay phải thì chàng ném trúng lưỡi, rồi cả hai cùng rơi xuống đất. Phi đao nặng hơn nửa cân, còn quân cờ thì bé nhỏ và nhẹ, mà khi hai thứ va chạm nhau rồi thì rơi xuống cùng một lúc.
Như vậy đủ thấy rõ tay của chàng khỏe hơn Minh Thi gấp mấy lần.
Bỗng đổi sắc mặt, Minh Thi phóng luôn hai đao một lúc, Thừa Chí cũng đồng thời tung ra bốn quân cờ đánh hai phi đao rơi xuống đất tức thì. Minh Thi "hừ" một tiếng rồi nói:
- Võ nghệ khá lắm!
Miệng nói, tay không ngừng, ông ta lại phóng ra sáu con đao cùng một lúc. Lúc này muốn ném trúng kẻ đối thủ rất khó, nên Minh Thi mới cố ý ném sáu phi đao ra làm bốn bề tám hướng và nghĩ thầm: "Chẳng lẽ ngươi còn đủ tài đánh rơi bấy nhiêu con đao của ta?"
Mọi người chỉ thấy "vù, keng, vù, keng" sáu tiếng liền. Quả nhiên sáucon đao đó bị mười hai quân cờ của Thừa Chí đánh rơi hết cả. Ôn Minh Thi tức quá, hét lên:
- Giỏi lắm!
Hai tay ông ta lại ném ra sáu phi đao một lúc và đao nào cũng nhắm chỗ yếu huyệt của Thừa Chí mà bay tới. Sáu đao vừa ném xong, ông ta lại phóng tiếp luôn sáu đao nữa. Đó là món tuyệt kỹ bình sinh của ông ta, dù đối thủ có giỏi tới đâu cũng chỉ tránh được sáu con đầu. Minh Đạt là người lão thành biết cân nhắc, ông ta hiểu rõ Thừa Chí là đệ tử của một cao nhân, nên võ công mới tuyệt tác như vậy, nay thấy em Tư mình lại dùng tới đao pháp quá lợi hại như thế, trong lòng hãi kinh, liền kêu lên rằng:
- Tứ đệ, chớ có đả thương tới tính mạnh của y.
Chưa nói dứt lời, ông ta đã thấy Thừa Chí giơ hai tay lên trên không quơ loạn xạ một hồi. Mỗi tay chàng đã bắt được sáu con dao, rồi nhằm giá khí giới ném liên tục, mọi người mới thấy rõ tất cả đao, thương, mâu, khích, cắm trên đó đã bị phi đao chém cụt mất ngọn rồi.
Ngũ lão, bỗng mắt lộ hung quang, đồng thanh hét lớn:
- Ngươi có phải là người của gian tặc Kim Xà phái đến đây không?
Thì ra miếng võ bắt đao vừa rồi của Thừa Chí đã tự học trong cuốn "Kim Xà bí kíp." Năm xưa, Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi đại chiến phái Thạch Lương, Ôn Minh Sơn đã sử dụng "Liên hoàn thập nhị phi đao" định giết đối thủ nhưng Kim Xà Lang Quân giơ hai tay lên bắt cũng sử dụng thủ pháp đó. Thừa Chí tuy không biết phái Thạch Lương có căm thù với Kim Xà Lang Quân, nhưng chàng vẫn không dám sử dụng võ công trong Kim Xà bí kíp. Nay đột nhiên gặp phải trường hợp nguy hiểm nên trong lúc nguy cấp, chàng không kịp suy tính thuận tay dùng luôn miếng "Thiên Thủ Quan Âm Thâu Vạn Báu" tuyệt kỹ ra bắt đao. Thấy thủ pháp của chàng giống hệt Hạ Tuyết Nghi, Ngũ lão đều nhảy xổ lại và đồng thanh quát tháo.
Đang định trả lời, Thừa Chí thoáng thấy phòng khách bên ngoài có ba người đi qua. Trong đó có một người là Tiểu Tuệ đang bị trói chặt khuỷu tay, do hai tên đại hán dẫn lên đây. Có lẽ nàng bị rơi xuống dưới hầm bị bắt dẫn đến đây. Thừa Chí liền dùng ngay khinh công "Nhứt Hạc Xung Thiên" nhảy thẳng ra phòng khách. Minh Đạt và Minh Nghĩa liền rút khí giới ra đuổi theo.
Không thèm để ý tới địch đuổi mình, Thừa Chí nhảy thẳng tới chỗ Tiểu Tuệ. Hai tên đại hán tay đao tay kiếm vung loạn lên chém thẳng vào người chàng.
Chỉ nghe thấy hai tiếng "coong coong" khí giới của hai tên đại hán đã rời khỏi tay bay ra. Cả hai cùng ngạc nhiên, sợ hãi, vì kẻ hạ khí giới của chúng là cụ chủ Cả và cụ chủ Hai. Đồng thời Minh Đạt và Minh Nghĩa cất tiếng mắng:
- Chúng bây đụt quá! Rõ đồ ăn hại!
Quở trách xong, nhị lão xông lại đánh Thừa Chí và Tiểu Tuệ.
Nhắc lại, vừa rồi Thừa Chí nhanh quá không thèm gạt đỡ đao kiếm của hai tên đại hán, mà luồn qua phía dưới, tới cạnh Tiểu Tuệ, giựt đứt dây thừng đang trói chặt khuỷu tay nàng. Giữa lúc ấy thì hai ông già đuổi tới nơi và bật đỡ trở ra những đao kiếm sắp chém lầm phải mình.
Tiểu Tuệ được cởi trói, mừng quá, liền reo lên:
- Thừa Chí đại ca!
Trong lúc đao kiếm của hai tên đại hán đang bị Nhị lão hất tung lên. Thừa Chí liền cầm quăng dây thừng chàng vừa cởi trói cho Tiểu Tuệ cuốn luôn vào cán thanh kiếm kéo về phía mình, rồi ném luôn cho Tiểu Tuệ và bảo:
- Cầm lấy kiếm!
Chàng buông thõng quãng dây thừng, cây kiếm bay sang phía Tiểu Tuệ nàng giơ tay bắt lấy.
Câu chuyện vừa xảy ra nhanh như chớp nhoáng, Thừa Chí vừa tung cây kiếm cho Tiểu Tuệ xong, thì hai cây kích của Minh Đạt đã đâm tới mặt chàng. Giữa lúc ấy mọi người đều nghe thấy hai tiếng kêu "ối chà!" Thì ra thấy hai tên đại hán đứng đó làm vướng chân vướng cẳng mình, Minh Nghĩa tức quá liền đá cho chúng mấy cái. Cả hai tên đại hán đều ngã bắn kêu oái. Còn Thừa Chí chàng vẫn đứng yên, chỉ ngửa người về phía sau là hai cây kích của Minh Đạt đã đâm hụt. Minh Đạt đang định tiến lên để đưa thẳng song kích vào người kẻ địch nhưng chưa kịp lấy sức để bồi thêm miếng nữa thì ông ta đã thấy song kích của mình đã bị quãng dây của Thừa Chí cuốn chặt và lôi đi.
Chợt nảy ra ý kiến định mượn sức địch để đánh lại địch, Minh Đạt liền nương sức đâm thẳng song kích vào người Thừa Chí. Né mình sang một bên để tránh, Thừa Chí liền giựt một cái, rồi buông thõng quãng dây ngay. Trong lúc xuất kỳ bất ý, Minh Đạt không kịp thu lại thế tiến loạng choạng vài bước suýt ngã về phía trước. Lợi dụng lúc ấy Thừa Chí đã kéo tay Tiểu Tuệ nhảy vào trong Luyện Võ sảnh đứng yên. Minh Đạt giận quá, mặt đầy sát khí, lấy tay dằng mạnh một cái đã giựt đứt quãng dây cuốn chặt song kích, rồi nhảy vào trong Luyện Võ sảnh và đứng sau lưng Ngũ lão.
Ôn Minh Đạt tay trái cầm song kích, tay phải chỉ vào mặt Thừa Chí, quát hỏi:
- Tên Kim Xà gian tặc hiện nay ở đâu? Nói mau!
Thừa Chí bình tĩnh trả lời:
- Xin lão tiền bối hãy khoan nổi giận, muốn hỏi chuyện gì, cháu cũng xin thưa.
Ôn Minh Nghĩa giận dữ hỏi:
- Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi là người thế nào với cậu? Hiện giờ y ở đâu? Có phải hắn sai cậu tới đây không?
- Thưa lão tiền bối. Cháu chưa hề gặp mặt ông ta bao giờ vậy làm sao mà sai cháu tới đây được.
Ôn Minh Sơn hỏi:
- Cậu nói thật không?
- Cháu nói dối các cụ làm gì? Trong khi đi thuyền, tình cờ cháu gặp được chú Ôn Thanh. Vì hợp tánh, hợp tình nên chúng cháu mới kết giao làm bạn. Quả thật, cháu có biết Kim Xà, Ngân Xà là ai đâu?
Tuy Ngũ lão hơi nguôi cơn giận nhưng vẫn còn hoài nghi, Minh Đạt lại hỏi:
- Nếu cậu không nói rõ chỗ ẩn núp của Kim Xà gian tặc thì ngày hôm nay cậu đừng có hòng ra khỏi đất Thạch Lương này.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Cậy có chút võ nghệ như các ông thì giữ sao nổi được tôi cơ chứ!"
Tuy trong bụng nghĩ như vậy, bề ngoài chàng vẫn cung kính trả lời:
- Cháu với Kim Xà Lang Quân, vô cố vô thân, thậm chí chưa hề gặp nhau bao giờ. Nhưng cháu biết chỗ ở của ông ta. Chỉ sợ ở đây không có người nào dám tới gặp ông ta thôi!
Lửa giận lại bốc lên, Ngũ lão cũng nói:
- Ai bảo không dám nào? Trong mười mấy năm nay, lúc nào chúng tôi cũng để tâm tìm kiếm hắn. Năm anh em chúng tôi dù có phải chết vì tay hắn, dù phải đi tớn tận chân trời, góc biển nào cũng mặc, nhưng quyết tâm tìm cho được hắn mới thôi. Vậy hắn ở đâu?
Thừa Chí tủm tỉm cười, trả lời:
- Các cụ muốn tìm gặp ông ta thật ư?
Minh Đạt tiến lên một bước nói:
- Phải.
Thừa Chí cười hóm hỉnh:
- Gặp ông ta chả có ích lợi gì đâu!
Ôn Minh Đại nói:
- Nầy cậu bạn nhỏ kia, ai nói đùa với cậu làm gì? Cậu nói mau đi?
- Các cụ còn tráng kiện thế này ít ra cũng phải sống thêm vài năm nữa mới gặp ông ta được. Ông ta... chết rồi!
Thừa Chí vừa dứt lời, mọi người đều ngẩn người ra, Ôn Thanh, Ôn Minh Sơn nổi giận mắng liền:
- Thật là tiền oan nghiệp chướng!
Minh Nghĩa nói với Ôn Thanh:
- Thanh Thanh, cháu đỡ má vào trong kia đi! Đừng có ở đây bêu xấu, để người ta cười cho.
Ôn Thanh khóc òa lên, trả lời:
- Bêu xấu cái gì? Má cháu nghe cha cháu đã mất, tất nhiên phải đau đớn chứ!
Thừa Chí giật mình kinh ngạc nghĩ thầm: "Người đàn bà đẹp ấy là vợ của Kim Xà Lang Quân! Vậy Ôn Thanh là con ông ta chắc?"
Minh Nghĩa thấy Ôn Thanh cãi lại mình trước mặt mọi người còn gì nhục nhã bằng, nghiến răng cồm cộp, nói với Minh Đạt:
- Đại ca, nếu anh còn nuông chìu con nhãi ranh này, em sẽ dạy bảo nó đấy!
Minh Đạt quát mắng Ôn Thanh:
- Ai là cha mầy? Có đi vào nhà trong ngay không?
Ôn Thanh đỡ mẹ, từ từ đi vào nhà trong. Lúc đó người đàn bà đã tỉnh lại dần, khẽ bảo Ôn Thanh:
- Con mời Viên tướng công tối mai đến chơi. Má muốn hỏi chuyện cậu ta.
Ôn Thanh gật đầu nói với Thừa Chí:
- Còn một ngày nữa. Tối mai anh hãy trở lại, xem anh có thể lấy trộm được số vàng đó không?
Nói xong, Ôn Thanh lườm Tiểu Tuệ với một vẻ tức tối, rồi đỡ mẹ vào nhà trong.
Thừa Chí bảo Tiểu Tuệ rằng:
- Ta đi thôi!
Hai người quay trở ra. Ôn Minh Ngô đứng giữa cửa giơ tay ra cản lại:
- Hãy khoan đã! Chúng tôi muốn hỏi cậu.
Thừa Chí chắp tay vái chào:
- Thưa cụ hôm nay muộn lắm rồi. Cụ cho phép tối mai cháu sẽ trở lại thăm các cụ.
- Tên gian tặc Kim Xà Lang Quân chết ở đâu? Có ai trông thấy hắn chết không?
Nghĩ tới cái chết thảm thương của vị hòa thượng bị Trương Xuân Cửu đâm trộm, Thừa Chí nghĩ thầm: "Chắc họ cũng muốn được hưởng các di vật của Kim Xà Lang Quân, vậy ta không thể nói rõ cho họ biết được."
Chàng liền trả lời:
- Thưa cụ, tin này do các bạn nói cho cháu biết. Hình như Kim Xà Lang Quân chết trên một hòn đảo ở tận ngoài khơi tỉnh Quảng Đông.
Năm anh em họ Ôn nhìn nhau một lúc tỏ vẻ ngạc nhiên. Thừa Chí lại bảo thầm: "Các ngươi cứ việc ra ngoài khơi tỉnh Quảng Đông tìm kiếm đi!"
Nghĩ xong, chàng chào mọi người:
- Cháu xin thất lễ.
Ôn Minh Ngô vội cản lại:
- Khoan! Vội vàng làm gì?
Minh Ngô muốn hỏi cho thật rõ mới thôi liền giơ tay ra cản nhưng Thừa Chí đã đẩy lui hai cánh tay của ông già. Minh Ngô vội vã dùng cổ tay móc lại định bắt Thừa Chí. Nhưng ý chàng không muốn đánh nữa, chỉ chờ cho Minh Ngô buông tay xuống, có chỗ trống là kéo Tiểu Tuệ đi liền.
Đột nhiên, thấy "vù" một tiếng, chàng nhảy vụt đi thẳng, không đụng chạm đến quần áo kẻ địch. Nổi giận, Minh Ngô rút luôn roi da bò ra, nhắm sau lưng Thừa Chí đánh tới. Thấy phía sau có tiếng gió, Thừa Chí vội xách Tiểu Tuệ, nhảy về phía trước tránh được ngọn roi đó. Chẳng cần quay đầu lại, cố nhảy lên bờ tường chạy thẳng. Minh Ngô luyện chiếc roi đó đã mấy chục năm trời, khi nào lại chịu để Thừa Chí đi thoát một cách dễ dãi như thế, liền vụt chiếc roi lên quấn lấy chân Tiểu Tuệ. Vì biết rõ Tiểu Tuệ võ nghệ kém hơn, tất nhiên không thể nào tránh khỏi, nên Minh Ngô định lôi cho được Tiểu Tuệ ngã xuống như vậy cũng gỡ lại được chút sĩ diện, Minh Ngô mới thi hành chính sách "tỵ thực tựu hư" (tránh kẻ mạnh, đánh kẻ yếu) là thế. Đang ở trên không, Thừa Chí nghe thấy tiếng gió, liền giơ tay trái bắt luôn ngọn roi, và dùng sức kéo mạnh một cái, thế là Minh Ngô cũng bị lôi lên trên cao. Mục kích rõ ràng khi còn đang lơ lửng trên không, chẳng nhờ đâu mượn sức được, thế mà Thừa Chí cũng kéo nổi Minh Ngô lên, các người nhà họ Ôn đều giựt mình sợ hãi và thầm phục tài chàng.
Minh Thi vội vàng ném hai chiếc phi đao lên, nhằm đúng giữa lưng Thừa Chí, mục đích cứu em Năm, chớ không định giết đối thủ. Thừa Chí phải buông roi ra, rồi kéo Tiểu Tuệ ra ngoài bờ tường, đồng thời lấy chân khẽ gạt phi đao. Bị gạt, hai chiếc phi đao quay trở lạ, rơi xuống đầu Minh Ngô lúc đó vừa bị ngã ngồi, biết không thể đứng dậy tránh kịp, liền quất luôn roi da vào hai chiếc phi đao ấy. Ngờ đâu, roi da đã bị Thừa Chí dùng nội lực dứt nhưng chưa đứt hẳn, nay đụng vào phi đao roi da đứt ra từng đoạn một, còn phi đao vẫn rơi xuống. Sợ quá Minh Ngô phải lăn sang một bên để tránh. Nhưng vì hơi chậm một chút, ông ta chỉ tránh được một con thôi, còn một con đã đâm thủng vạt áo. Khi đứng dậy, người ông ta toát đẫm mồ hôi lạnh, sợ đến nỗi không nói được nửa lời. Minh Đạt cứ lắt đầu thở dài, còn mọi người khác đều lo sợ thầm.
Minh Nghĩa nói:
- Coi thằng nhỏ tuổi chỉ độ 20 là cùng. Dù nó bắt đầu luyện từ trong bụng mẹ nó đi chăng nữa, thì nó cũng chỉ có 20 năm công lực thôi. Nhưng không hiểu sao võ nghệ và nội công của nó lại lợi hại đến thế được?
Minh Sơn nói:
- Lợi hại như Kim Xà gian tặc, mà còn thua anh em mình! Tối mai, thằng nhãi con thế nào cũng trở lại, anh em ta phải cẩn thận lắm mới được.
Thừa Chí và Tiểu Tuệ về tới nhà trọ, Tiểu Tuệ cứ khen lấy khen để tài ba xuất chúng của Thừa Chí. Nàng nói:
- Thôi sư huynh cứ khen ngợi mãi sư phụ anh ta giỏi lắm. Nhưng em dám chắc sư phụ anh ấy cũng không thể nào giỏi bằng anh được.
Thừa Chí hỏi:
- Thôi sư huynh tên là gì? Ai là sư phục của anh ta?
- Tên anh ấy là Thôi Hy Kính, biệt hiệu là Ngọc Diện Kim Cương. Sư phục anh ta là môn đồ của phái Hoa Sơn, đồ đệ của Mộc lão tổ sư. Tên là gì em không hỏi, chỉ biết hiệu của ông ta là "Đồng Bút Thiết Toán Bàn" Anh coi biệt hiệu ấy có ngộ nghĩnh buồn cười không?
Thừa Chí gật đầu, nghĩ thầm: "Không ngờ y lại là đồ đệ của đại sư huynh ta. Như vậy, y phải gọi ta là sư thúc mới phải."
Tuy nghĩ thế nhưng chàng không nói rõ cho Tiểu Tuệ biết. Sau đó, người nào trở về giường người ấy yên nghỉ.
Tối hôm đó, Thừa Chí dặn Tiểu Tuệ ở lại nhà trọ chờ đợi, Tiểu Tuệ tự biết võ nghệ của mình kém quá, có đi thì cũng chỉ thêm vướng chân vướng tay, và còn làm bận lòng Thừa Chí phải để ý đến mình luôn. Tuy không bằng lòng, nhưng nàng vẫn phải nghe lời. Chờ tới canh hai, Thừa Chí đi theo lối cũ tới thẳng nhà họ Ôn. Thấy bốn bề đen như mực, không có một chút ánh sáng đèn nến nào cả, chàng đang định phi thân vào bên trong bỗng nghe thấy ở đằng xa có ba tiếng tiêu. Một lát sau, chàng lại nghe thấy ba tiếng như thế nữa. Chàng hiểu ngay đó là ám hiệu của Ôn Thanh gọi mình. Chàng liền quay sang phía núi, nơi trồng hoa hồng mà bữa nọ Ôn Thanh đã thổi tiêu cho chàng nghe. Lên tới sườn núi, chàng đã trông thấy từ đằng xa có hai bóng người ngồi trong đình. Khi tới gần, chàng mới thấy rõ hai người ấy đều là đàn bà cả.
Một người thổi tiêu, đang khẽ thổi khúc điệu mà bữa nọ Ôn Thanh đã thổi cho chàng nghe. Ngạc nhiên vô cùng, chàng liền từ từ đi tới. Người nọ để ống tiêu xuống, chạy ra đón. Nhìn kỹ bộ mặt, chàng mới hay người thiếu nữa đó chính là Ôn Thanh, ngẩn người trong giây phút, chàng mới ú ớ nói:
- Em... em là...
Ôn Thanh mỉm cười trả lời:
- Vâng, thân em chính phận gái. Cứ giấu đại ca mãi, xin đại ca thứ lỗi cho nhé?
Nói xong, nàng chắp tay vái chào. Thừa Chí cúi đầu trả lễ. Bao nhiêu vấn đề, chàng hồ nghi trước kia đến bây giờ thấy Ôn Thanh ăn mặc nữ trang chàng mới khỏi thắc mắc. Chàng nghĩ thầm: "Trước kia ta cứ trách nàng, tánh nết và cử chỉ như con gái chẳng có chí khí trượng phu gì cả. Thì ra nàng là con gái thật sự."
Ôn Thanh nói:
- Tên thật của em là Ôn Thanh Thanh đấy ạ.
Nói xong nàng cầm khăn che miệng cười. Thấy nàng ăn mặc nữ trang sắc đẹp vô song, chàng trách mình quá hồ đồ và quá thật thà, nên mới bị nàng đánh lừa được. Vào địa vị người khác, nếu chung đụng bấy lâu tất nhiên nhận ngay ra nàng là một thiếu nữ.
Ôn Thanh Thanh lại nói:
- Má em ngồi trong đình kia, có mấy lời muốn hỏi anh đấy.
Bước vào trong đình, chàng cúi đầu chào má Thanh Thanh:
- Chào bác, cháu là Viên Thừa Chí xin bái kiến.
Người đàn bà đứng tuổi vội đứng lên đáp lễ:
- không dám mời công tử ngồi
Thấy sắc mặt sầu thảm của người đàn bà chắc trong lòng bà ta đau đớn lắm. Chàng lẳng lặng ngồi xuống, trong óc suy nghĩ: "Theo lời Thanh Thanh nói với bà ta bữa nọ thì má nàng đã bị một kẻ bất lương hãm hiếp rồi sinh ra nàng. Người bị gọi là kẻ bất lương tất nhiên chính là Kim Xà Lang Quân rồi. Xem sắc mặt của Ngũ lão thì họ có vẻ ghét Kim Xà Lang Quân thậm tệ, cho nên Thanh Thanh vừa nhắc tới chuyện cha nàng, đã bị ngay ông già Hai mắng cho một trận. Còn má nàng, nghe tin Kim Xà Lang Quân đã tạ thế liền ngã ra chết giấc. Xét bề ngoài như vậy, tất nhiên trong lòng bà ta phải yêu chồng một cách thiết tha. Vậy bên trong chắc có ẩn tình gì đây. Ta phải nghĩ cách an ủi bà ta mới được."
Má Thanh Thanh ngồi yên lặng giây lát rồi khẽ hỏi:
- Hắn... Hắn đã chết thật ư? Viên tướng công có được mục kích không?
Thấy Thừa Chí gật đầu, bà ta lại nói:
- Viên tướng công rất quý cháu Thanh Thanh, tôi biết lắm. Tôi không như các ông ngoại hoặc chú bác nó, coi cậu là kẻ thù đâu. Xin cậu hãy kể lại tình hình lúc cha cháu sắp chết cho tôi nghe.
Sau khi đọc được võ nghệ trong cuốn Kim Xà bí kíp, Thừa Chí coi Kim Xà Lang Quân như một trong các thầy dạy mình, và không còn xem thường ông ta như lúc đầu mà sư phụ chàng và Mộc Tang đạo nhân là Kim Xà Lang Quân là người đứng giữa haiphe chánh và tà. Vì thế hôm trước khi nghe thấy Ngũ lão gọi Kim Xà Lang Quân là gian tặc, chàng tức giận vô cùng. Nay thấy má Thanh Thanh hỏi, chàng nhanh nhẩu đáp:
- Cháu chưa hề được gặp Kim Xà Lang Quân, nhưng nói cho đúng ra, thì cháu cũng là đồ đệ của ông ta, vì cháu đã học được ông ấy rất nhiều miếng võ. Còn tình hình sau khi ông ta chết như thế nào, xin lỗi bác, cháu không thể cho bác biết được vì cháu sợ có kẻ manh tâm nghe lỏm được, sẽ cho đào mả ông ta.
Chưa nghe hết lời của Thừa Chí, má Thanh Thanh đã loạng choạng ngã ngửa người ra phía sau, Thanh Thanh vội ôm lấy mẹ và kêu gọi:
- Má ơi! Má tỉnh lại đi!
Một lát lâu, má Thanh Thanh dần dần hồi tỉnh, vừa khóc vừa nói:
- Tôi chịu khổ chịu nhục cũng chỉ mong chờ cha cháu về đón mẹ con tôi rời khỏi chốn này. Chờ đợi suốt mười tám năm liền nhưng vẫn tuyệt vô âm tích, đến nay mới hay tin là cha cháu đã quy tiên trước tôi rồi. Còn Thanh Thanh chưa từng được trông thấy mặt cha nó bao giờ!...
Thừa Chí nói:
- Xin bác chớ nên nghĩ ngợi làm gì cho thêm đau lòng. Hiện giờ Hạ lão tiền bối đã nằm nghỉ yên dưới chín suối rồi. Chính tay cháu đã cải táng xương cốt cho lão tiền bối.
Má Thanh Thanh nói:
- Ơn đức này chúng tôi không biết lấy gì để đền đáp tướng công!
Vừa dứt lời, bà ta liền đứng dậy, chắp tai vái chào Thừa Chí và nói tiếp:
- Thanh Thanh, con mau mau quỳ xuống lạy tạ Viên đại ca đi!
Thấy Thanh Thanh quỳ, Thừa Chí cũng lật đật quỳ xuống đáp lễ. Má Thanh Thanh lại hỏi:
- Chẳng hay nhà tôi có để lại di thư cho chúng tôi không?
Nghe nói, chàng mới sực nhớ tới bức địa đồ mà chàng đã tìm thấy ở phía trong tờ bìa cuốn Bí Kíp bên góc bản đồ đã có ghi chú rõ ràng mấy câu đây: "Người được hưởng kho báu, xin đến tỉnh Triết Giang, phủ Từ Châu, làng Thạch Lương, tìm nàng Ôn Nghi rồi trao tặng nàng 100 nghìn lạng vàng kia hộ tôi." Vì Thừa Chí không có tính tham của nên khi xem xong, chàng tiện tay nhét vào hành trang chớ không để ý tới nữa. Lúc ấy trong bụng chàng nghĩ rằng: "Tài ba như Kim Xà Lang Quân mà vẫn phải chết tại núi hoang và suýt nữa thì không một ai chôn cất giùm. Rất có thể ông ta bị mang họa cũng tại số vàng kếch sù ấy cũng nên!" Vì thế, chàng không thèm để ý gì tới bức bản đồ ấy nữa.
Bây giờ, thấy mẹ Thanh Thanh hỏi tới, chàng mới nhớ ra, liền hỏi:
- Cháu hỏi thế này hơi vô lễ một chút nhưng xin bác hãy thứ lỗi cho. Chẳng hay tên bác có phải là Nghi không?
Mẹ Thanh Thanh giựt mình, trả lời:
- Phải! Sao cậu lại biết?... Trong di thư có nói đến tôi phải không? Cậu có mang theo đấy chớ?
Đang định trả lời, bỗng nhiên chàng nhảy vượt qua lan can ra bên ngoài. Thanh Thanh và mẹ nàng đều hoảng sợ. Hai người vừa nghe có tiếng kêu "ối trời!" đã thấy Thừa Chí từ trong bụi cây bước ra, tay túm cổ một người. Người đó đã bị chàng điểm huyệt nên tứ chi không cử động được. Đi tới phía trước đình, Thừa Chí ném tên nọ xuống đất. Thanh Thanh vừa trông thấy hắn liền la lên:
- Ô kìa, bác Bảy!
Ôn Nghi thở dài một tiếng, nói với Thừa Chí:
- Viên tướng công, hãy tha cho hắn! Trong gia đình họ Ôn này, không một ai coi mẹ con chúng tôi là người nhà cả!
Nghe thấy lời nói của bà ta bi đát quá, Thừa Chí liền giơ tay ra và xoa những huyệt của người kia. Lúc người ấy tỉnh dậy, chàng mới nhận ra hắn là Ôn Nam Dương mà hôm qua đã giao chiến với mình. Y là đứa con của Minh Nghĩa, xếp hạng bảy trong các anh em cùng một vai vế. Thanh Thanh nổi giận nói:
- Bác Bảy, sao bác lại tới đây nghe trộm chúng tôi nói chuyện? Như thế còn ra cái thể thống gì nữa!
Hắn định giở mặt, nhưng trông Thừa Chí đứng đó, y hậm hực nói to lên:
- Mẹ nào con nấy có khác. Mình chim trai đã hư hỏng rồi lại còn dạy cả con gái chim trai nữa!
Bị những câu nói mỉa, Ôn Nghi xấu hổ và đau lòng quá, hai hàng lệ tuôn rơi lả chả. Thanh Thanh không thể nhịn được liền rút kiếm ra đuổi theo và quát lớn:
- Nầy bác Bảy, đứng lại, sao bác lại nói tầm bậy tầm bạ như vậy?
Nam Dương ngừng bước quay lại mắng:
- Con khốn nạn này muốn phản chăng? Các ông bảo tao tới đây, mày làm gì tao nào?
- Bác muốn bảo gì thì cứ việc đường hoàng mà nói. Tại sao lại lén lút nghe trộm chúng tôi nói chuyện như thế?
Nam Dương cười nhạt:
- Chúng tôi? Không biết ở đâu lòi ra cái thằng đàn ông mọi rợ này mà mầy dám tự xưng chúng tôi, chúng nó như thế? Thật là sĩ diện và danh giá của 18 đời nhà họ Ôn này đã bị mẹ con mầy làm mất hết cả.
Giận đến nỗi hai con mắt đỏ ngầu, Thanh Thanh quay lại nói với Ôn Nghi:
- Má, má đã nghe thấy bác ấy nói chưa?
Ôn Nghi khẽ nói:
- Anh bảy, anh hãy lên đây, em có chuyện muốn nói với anh.
Ngẫm nghĩ giây phút, Nam Dương ngang nhiên đi thẳng vào trong đình. Ôn Nghi nói tiếp:
- Đời của em và cháu nó rất đáng tội nghiệp. Cũng may, được năm vị chú bác và các anh em thương hại, cho nên em với cháu nó mới được ở lại nhà họ Ôn này mười mấy năm. Câu chuyện của em với người họ Hạ, cháu Thanh Thanh không hay biết một tí gì. Nay người đó đã khuất mà câu chuyện đó anh lại hiểu rất rõ. Vậy tiện đây, xin anh làm ơn kể hộ cho Thanh Thanh và Viên tướng công nghe.
Nam Dương bực tức nói:
- Tôi không được rảnh, việc của cô thì cô phải kế lấy, quý hồ cô nương không sợ xấu hổ là được rồi.
Ôn Nghi thở dài rồi nói:
- Thôi được, để em kể cũng không sao! Vì chú đã được người ta cứu cho khỏi chết tưởng rằng anh còn có chút lòng nhớ tới ơn ấy nên em mới nhờ anh kể chuyện lại hộ. Không ngờ người nhà họ Ôn hầu hết đều vong ơn bội nghĩa.
Nam Dương nổi giận:
- Phải, y có cứu tôi khỏi chết thật. Nhưng tại sao y lại chịu cứu tôi? Thôi được, để tôi nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho mọi người được hay, khỏi phải để cô kể lại thêm đuôi thêm cánh vào lại sai hết cả câu chuyện. Người họ Viên kia và cả cháu Thanh Thanh nữa, bây giờ tôi xin kể hết tại sao lại quen biết Kim Xà gian tặc cho mà nghe.
Các người sẽ thấy lòng của gian tặc hiểm độc như thế nào!
Thanh Thanh nói:
- Bác nói xấu cha cháu, cháu không nghe đâu!
Nói xong, nàng lấy hai tay bịt tai, Ôn Nghi nói:
- Thanh Thanh, con cứ nghe đi. Cha con tuy không tốt thiệt nhưng còn khá hơn người nhà họ Ôn trăm nghìn lần.
Ôn Nam Dương cười nhạt nói:
- Chắc cô đã quên rằng cô cũng họ Ôn phải không? Năm tôi hai mươi mốt tuổi nghĩa là cách đây 20 năm, cha tôi sai tôi đi Dương Châu giúp chú Sáu.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Thì ra anh em nhà họ Ôn tất cả những sáu người cơ đấy!"
Ôn Nam Dương lại tiếp tục nói:
- Khi tới Nam Dươong, tôi không gặp chú Sáu. Một đêm, tôi nhúng tay vào một vụ án rồi không may bị bắt.
Ôn Nghi hỏi kháy:
- Sao anh không nói rõ đã nhúng tay vào vụ án gì?
- Nam nhi đại trượng phu dám làm chẳng lẽ không dám nói ư? Một hôm, tôi trông thấy một người con gái đẹp lắm. Đêm đến, tôi nhảy qua bờ rào định hái hoa. Vì nàng ta không chịu nên tôi giết chết nàng. Trước khi tắt thở, nàng còn lên tiếng kêu cứu. Ngờ đâu tiếng kêu cứu đó lọt đến tai mấy tên võ sư. Họ bổ tới bao vây. Vì địch không nổi bấy nhiêu người nên tôi bị bắt tức thì.
Thấy y kể lại thủ đoạn đi hái hoa thật đê hèn xấu xa như vậy mà y không có vẻ gì xấu hổ cả, Thừa Chí phải rùng mình kinh hãi. Nam Dương lại nói:
- Chúng điệu tôi nộp lên quan. Bị giam trong tù lao, tôi không biết sợ là gì cả vì tôi nghĩ rằng chú Sáu ở đất Dương Châu vô địch cả hai bên bờ Giang Nam và Giang Bắc nếu chú ấy biết tôi bị bắt, thế nào cũng đến cứu, nhưng đợi mãi mà vẫn không thấy chú Sáu đến cứu. Rồi công văn ở tỉnh gởi xuống phán trảm huyết tôi ngay tại chỗ. Thấy ngục tốt cho hay tin đó, tôi mới sợ hãi vô cùng.
Thanh Thanh xen vào:
- Cháu tưởng bác không biết sợ là gì?
- Ba hôm sau thấy ngục tốt bưng vô một mâm thịt và một bát rượu lớn, tôi biết ngay ngày mai phải bị xử huyết rồi. Tôi không sợ chết, chỉ tiếc thân mình còn trẻ là đã phải lìa bỏ cõi trần thôi. Ăn uống xong no say, tôi nằm lăn ra ngủ. Nửa đêm, bỗng có người khẽ vỗ vai tôi, tôi ngồi nhổm dậy và nghe thấy người đó rỉ tai tôi: "Yên lặng tôi sẽ cứu cho!" Y có cầm một con dao thật bén, chặt đứt xiềng xích ở chân tay tôi rồi cõng tôi vượt ngục đến một cái miếu cổ ở ngoại thành. Người đó khinh công giỏi, sức lại khoẻ, nên cứu tôi một cách dễ dàng mà không một ai hay biết cả. Tới khi y thắp sáng ngọn nến trên bàn thờ tôi mới biết y trẻ hơn tôi và đẹp trai lắm! Hừ!
Nói tới đây, Nam Dương ngừng lại đưa mắt lườm Ôn Nghi và Thanh Thanh rồi mới nói tiếp:
- Tôi cúi chào cám ơn nhưng y kiêu ngạo lắm, không thèm trả lễ tôi và chỉ nói rằng: "Tôi họ Hạ. Anh là người họ Ôn, phái Thạch Lương phải không?" Tôi gật đầu. Lúc ấy tôi mới thấy võ khí của hắn là một thanh kiếm chứ không phải con đao, nhưng hình dáng thanh kiếm đó kỳ lạ lắm.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Chắc là thanh kiếm Kim Xà mà ta tìm được."
Nam Dương lại kể tiếp:
- Tôi hỏi y tên là gì? Thì y trả lời: "Anh không cần biết tới. Thế nào sau này thì anh cũng không cảm ơn tôi đâu!" Thấy y nói, tôi ngạc nhiên quá. Trong bụng tôi nghĩ: "Y đã cứu ta tất nhiên ta phải chịu ơn y suốt đời chớ?" Y lại nói: "Tôi vì chú Sáu anh nên mới cứu anh ra. Vậy anh hãy theo tôi." Tôi theo y đi tới một con sông đào cùng lên một chiếc thuyền, rồi y bảo người lái đò cho thuyền xuôi xuống miền Nam. Khi đi khỏi Dương Châu được mười mấy dặm, tôi mới yên tâm. Một lát sau thấy người đó cầm chiếc dục Nga Mi giống y hệt của chú Sáu tôi, tôi nghĩ thầm:"Cái đó là ám khí để phòng thân của chú Sáu. Tại sao người này lại có?" Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, y nói: "Chú Sáu anh là bạn của tôi, hà, hà, hà!" Nghe thấy tiếng cười ghê rợn của y, tôi run mình sờn gáy. Y lại nói: "Đây có một cái hòm, anh làm ơn đem về nhà anh hộ tôi. Còn lá thơ này, anh đưa hộ cho các bác, các chú anh đọc." Nói xong, y lấy tay chỉ vào trong khoang thuyền. Tôi thấy một cái hòm thật lớn, xung quanh có đóng nẹp sắt rất kỹ lưỡng bên ngoài còn buộc thêm dây thừng. Y nói: "Anh phải về nhà ngay. Giữa đường đừng có dừng lại và đưa ngay cái hòm này cho các bác, các chú anh ngay. Và phải bảo các ông ấy mở, chớ đừng để cho người ngoài đụng tới!" Tôi nhận lời ngay. Y lại nói: "Trong vòng một tháng, tôi sẽ tới thăm vậy anh báo cho các người bề trên anh biết để họ chờ đợi đón tiếp tôi." Nghe lời nói nửa úp nửa mở của y, tôi không hiểu biết gì cả nhưng vẫn cứ gật đầu nhận lời. Vừa dặn bảo tôi xong, y liền cầm cái mỏ neo lên, hai tay bẻ mạnh một cái, bốn cá móc đất của chiếc mỏ neo gãy ngay tám đoạn.
Nghe tới đây, Ôn Thanh Thanh bỗng reo một tiếng:
- Hay!
Nam Dương nhổ luôn đống nước miếng xuống đất. Thanh Thanh rất ưa vệ sinh, thấy Nam Dương nhổ bậy làm dơ bẩn như vậy, vẻ không vui hiện ngay lên trên nét mặt. Biết ý nàng, Thừa Chí dùng chân chùi ngay đống đàm ấy đi, Thanh Thanh khẽ gật đầu tỏ vẻ khen ngợi và bằng lòng. Ôn Nam Dương tiếp tục nói:
- Y tỏ sức khỏe tôi xem, tôi không biết có dụng ý gì. Chỉ thấy y ném cái neo gãy vào trong khoang thuyền, rồi y nói: "Nếu anh không làm theo lời dặn của tôi, thì anh sẽ bị như cái neo này đấy!" Y lại móc túi lấy ra một nén bạc, vứt xuống ván thuyền và nói rằng: "Đây là tiền lộ phí của anh." Nói xong, y nhổ hai cái sào bên tay trái vừa cắm xuống nước người y đã nhảy cao lên, rồi lại cắm chiếc sào bên tay phải xuống đáy sông, đồng thời y rút chiếc sào bên tay trái lên và lại cắm luôn về phía trước. Chỉ có mấy động tác như thế, y tựa như đi trên không, chống bằng hai cái sào mà sang tới bên kia sông. Lúc tới bờ, y gọi: "Đỡ lấy!" Vừa dứt lời, y đã lao hai chiếc sào tới chỗ trước mặt tôi. Tự lượng sức mình kém quá, tôi không dám bắt hai chiếc sào đó. Chỉ nghe thấy "bộp, bộp" hai tiếng, hai chiếc sào đã lần lượt cắm vào mũi thuyền. Sợ quá tôi đành nín lặng. Nghe thấy tiếng cười dài như tràng pháo nổ, tôi nhìn lên bờ thì hình bóng y đã khuất trong bóng tối rồi.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Kim Xà Lang Quân sử xự cũng khí khái hào hiệp thật!"
Còn Thanh Thanh thì lên tiếng khen ngay:
- Người đó thật là một vị anh hùng hào kiệt!
Ôn Nam Dương đáp:
- Hừ! Anh hùng cái quái gì? Lúc ấy tôi vẫn coi y là người ân nhân đã cứu tôi khỏi chết nhưng mỗi khi nhìn thấy đôi mắt lộ hung quang của y thì tôi có cảm tưởng là y rất ghét tôi. Tôi lại nghĩ đó chỉ là một tánh nết kỳ lạ của y thôi, cho nên tôi không để ý tới. Từ đó về tới nhà, tôi phải sang một lần đò nữa. Dọc đường, các phu khiêng gánh chiếc hòm ấy đều kêu nặng lắm. Tôi đoán chắc trong hòm phải chứa đựng nhiều trân châu báu vật mà chú Sáu đã cướp bóc được của người ta nên mới nặng nề như thế. Ta vất vả vận tải về, thế nào các bác, các chú chả chia thêm cho một phần. Càng nghĩ tôi càng khoái trí. Về tới nhà, các bác các chú đều khen tôi tài giỏi và bảo lần đầu tiên đi kiếm ăn mà tôi đã làm được một việc lớn như thế thật khá lắm.
Thanh Thanh nói xen vào:
- Phải khá lắm! Cho một thiếu nữ đem về những một hòm lớn châu báu cơ mà!
Ôn Nghi mắng liền:
- Thanh Thanh, im mồm, để nghe bác kể chuyện!
Nam Dương lại kể:
- Tối hôm đó, trong khách sảnh đèn đuốc sáng choang, bốn tên gia đinh khiêng cái hòm ra. Cha tôi và bốn vị chú bác ngồi ở giữa, tôi ra tay cởi dây thừng và nhổ từng chiếc đinh ra. Lúc ấy, tôi nhớ lắm, bác cả vừa cười vừa nói: "Chắc chú Sáu mê con nhỏ nào chưa chịu bỏ nên mới sai cháu Dương áp tải hòm đồ này về đấy! Nào, tất cả lại đây xem trong hòm đựng những châu báu gì?" Tôi mở nắ hòm ra, thấy trên có phủ một tờ giấy, mặt tờ giấy có một lá thơ đề rằng: "Năm anh em họ Ôn hãy cùng bóc raxem." Mấy chữ đó đẹp lắm nhưng không phải bút tích của chú Sáu. Tôi đưa ngay phong thơ cho bác cả nhưng bác không bóc xem, chỉ nói: "Xem bên dưới là cái gì đã?" Tôi bóc lượt giấy trên ra, thấy bên dưới có một gói vuông vắn, khâu kỹ lưỡng lắm. Bác cả nói: "Thím Sáu, thím cầm kéo lại đây cắt gói đồ ra xem. Sao lần này chú Sáu lại khâu kỹ lưỡng và cẩn thận đến thế?" Thím Sáu cắt đứt các đường chỉ xong vừa mở gói đồ ra bỗng có bảy, tám mũi tên độc bắn ra.
Thanh Thanh sợ hãi rú lên một tiếng.
Thừa Chí nghĩ: "Đó là thói quen của Kim Xà Lang Quân."
Ôn Nam Dương nói:
- Bây giờ nghĩ ra, thật là cám ơn ông Trời có mắt. Nếu tôi nóng nảy mà tranh mở gói đồ ra thì tánh mạng của tôi có còn nữa không? Mấy mũi tên độc đó đều xuyên cả vào mình mẩy thím Sáu. Thứ thuốc bôi trên mũi tên độc lắm, thấy máu là phong hầu tức thì. Người của thím Sáu cứ tím dần đi. Và không thấy thím ấy rên rỉ nửa lời. Thím ấy ngã lăn ra chết liền.
Nói tới đây, y quay lại đay nghiến Thanh Thanh:
- Đó là thành tích tốt mà cha mày tạo ra đấy. Thấy thím Sáu chết một cách bất ngờ như vậy, mọi người hoảng sợ. Chú Năm nghi tôi lập mưu nên bắt buộc tôi phải mở gói đồ, tôi sợ quá nhưng không biết làm sao đành phải đứng thật xa, cầm cái cây thật dài để mở gói đồ. Nhưng lần này không có gì bắn ra nữa. Trong đó đựng những bửu bối gì? Tôi đố các người đoán được đấy?
Thanh Thanh nói:
- Ai mà đoán được! Có những gì thế?
Ôn Nam Dương cất giọng thảm não nói:
- Là xác của ông Sáu đó!
Thanh Thanh sợ hãi đến nỗi mặt tái mét. Thấy thế, Ôn Nghi vội ôm chặt lấy nàng.
Bốn người yên lặng trong giây lát, rồi Nam Dương lại nói:
- Các người bảo như thế y có độc địa không? Đã giết chết chú Sáu thì thôi, y lại còn cho đưa xác về tới nhà.
Ôn Nghi đỡ lời:
- Có tử tế thì người ta mới làm như thế như thế?
- Hừ! Tất nhiên cô cho hành động của y là phải chớ gì?
Ngửng đầu nhìn sao trên trời, Ôn Nghi từ từ nói:
- Thanh Thanh, lúc ấy tuổi má lớn hơn con bây giờ một năm nhưng lại ngây thơ hơn con nhiều, chả biết gì cả. Các chú bác hay làm việc ác nên má ghét các chú bác lắm. Thấy chú Sáu bị giết chết, má không thương xót chút nào. Má chỉ lấy làm lạ là vì chú ấy võ nghệ cao cường lắm, tại sao lại bị người ta giết được? Má núp sau lưng và không dám nói nửa lời. Sau đó, bác Cả mới lớn tiếng đọc lá thơ cho mọi người nghe: "Cùng bảy anh em họ Ôn phái Thạch Lương, nay gởi về một cái thi thể, xin vui lòng nhận cho. Người này đã phạm lỗi làm ô nhục chị tôi rồi đang tâm giết chết liền, chẳng những thế lại còn hạ sát nốt cha mẹ và các anh em tôi tất cả năm người, số ta không chết mới là lạ. Nghĩa là ta phải giết chết 50 mạng người nhà các ngươi và làm nhơ bẩn mười phụ nữ. Không đủ con số đó, ta thề chẳng làm người. Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi kính bạch." Vừa đọc xong bức thơ, mặt bác Cả bỗng nhợt nhạt dần, hai tay run lẩy bẩy, và lời nói không còn mạch lạc như lúc đầu.
Ôn Nghi liền hỏi Nam Dương rằng:
- Anh Nam Dương, có thật chú Sáu đã giết chết toàn gia người ta không?
Nam Dương trả lời một cách hãnh diện:
- Chúng ta "nam nhi đại trượng phu" đã bước chân vào hắc đạo (con đường tối, nghĩa là làm giặc) thì những việc hiếp dâm, cướp của, giết người, phóng hỏa, đều coi rất nhẹ nhàng và tầm thường. Thấy chị y còn nhan sắc, chú Sáu cưỡng ép không được mới rút dao ra giết luôn. Chuyện đó chắc là có.
Ôn Nghi thở dài:
- Các người đàn ông khi ra ngoài chỉ tạo nên những việc tiền oan nghiệp chướng, những việc tày trời như thế?
Nam Dương lại kể tiếp:
- Bác Cả đọc xong thơ, giây lát sau, bỗng cười ha hả và nói rằng: "Nếu nó đến tận cửa nhà ta thì càng tốt. Bằng không chúng ta biết nó ở đâu mà đi kiếm chớ?" Tuy nói cứng như thế, nhưng bác ấy vẫn phải cẩn thận đề phòng. Đêm hôm đó, sau khi ra lịnh giới nghiêm, bác Cả còn cho người đi Kim Hoa và Nghiêm Châu mời đón chú Bảy và chú Tám về.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Sao họ nhiều anh em thế nhỉ?"
Thanh Thanh hỏi mẹ:
- Nhà ta còn ông Bảy và ông Tám, sao con lại không được biết?
Ôn Nghi trả lời:
- Hai ông ấy là em họ các ông nhà. Xưa nay, hai ông vẫn ở riêng nơi khác.
Ôn Nam Dung đỡ lời luôn:
- Xưa nay chú Bảy vẫn ở Kim Hoa, và chú Tám ở Nghiêm Châu. Tuy là anh em trong họ nhưng ít ai biết tới hai chú ấy. Không hiểu tại sao gian tặc Kim Xà lại được tin chóng thế? Hai chú vừa về tới nửa đường đã bị y đón giết liền. Tên gian tặc ấy như là thần xuất quỷ mật vậy. Không biết y lấy trộm được từ hồi nào 50 chiếc thẻ tre mà nhà ta vẫn thường dùng để lúc thâu thuế gạo tính cho khỏi quên? Hễ cứ giết một người nhà ta là y cắm luôn một chiếc thẻ tre trên tử thi. Xem ra, không cắm đủ 50 chiếc thẻ y không chịu buông tha.
Thanh Thanh hỏi:
- Nhà ta, trên dướic có hơn trăm người, sao địch không nổi người ta? Bên phía người đó có bao nhiêu người hở bác?
- Y chỉ có việc một thân một mình nhưng y không dám công nhiên lộ diện. Lúc thường, không biết y ẩn núp ở đâu. Hễ thấy người nhà ta đi lẻ loi một mình là y hiện ra giết luôn. Tức giận quá, cha tôi phải mời rất nhiều cao thủ hắc đạo tới Thạch Lương để trợ giúp. Suốt ngày, các người tụ họp ở đại sảnh và cùng chuyện trò để chờ đợi y tới. Ngoài cửa dán một tờ báo cáo lớn, hẹn y phải chánh địa quang minh tới đây quyết đấu. Y cứ làm thinh.
Thấy chúng ta đông người, y tuyệt tích không tới. Nửa năm sau, các giang hồ hảo thủ giải tán dần. Anh Ba tôi và em Chín con chú Năm, bỗng thấy chết đuối ở cái ao trong vườn và trên ngực hai người đều có cắm thẻ tre. Chẳng ai ngờ tên gian tặc lại nhẫn nại đến thế! Chịu khó đợi chờ nửa năm trời, nhắm đúng khi trong nhà không có cao thủ thì ra tay sát hại liền, từ đó tháng nào trong nhà ta cũng có người chết. Các tiệm bán quan tài ở làng Thạch này làm không kịp hòm sẵn để bán cho nhà ta. Bác Cả phải cho người ra tận Từ Châu mua để chôn cất người nhà. Với người ngoài, nhà ta không dám cho hay sự thật, chỉ bảo là bị bịnh dịch tả, nên mới chết nhiều người đến thế. Cô Nghi, chắc cô còn nhớ những ngày giờ sợ hãi đó chớ gì?
Ôn Nghi nói:
- Vâng lúc ấy, tất cả thị trấn này ai nấy đều bàng hoàng sợ hãi. Nhà chúng ta suốt ngày đêm đều có gia đinh đi tuần tiễu. Cha em và các bác, các chú, thay phiên nhau canh gác. Đàn bà và trẻ con phải ở cả vào căn nhà giữa, không dám bước chân ra khỏi cửa.
Nam Dương nghiến răng nói:
- Canh phòng cẩn thận đến thế, mà hai người con dâu của chú Tư đều bị y bắt cóc đi mất. Ai cũng tưởng hai thím ấy đã bị giết chết rồi. Ngờ đâu hơn tháng sau, lại thấy ở Dương Châu gửi thư về nói rằng: "Bị y bán làm gái điếm, xin cho người đem tiền đến chuộc." Sau hỏi ra, cả hai đã phải tiếp khách trên một tháng rồi. Tức quá, chú Tư suýt chết ngất.
Nghe tới đây, Thừa Chí rởn tóc gáy nghĩ thầm: "Báo thù cho cha mẹ và anh, y đã giết chết nguyên thủ phạm cũng đủ rồi, hà tất Kim Xà Lang Quân phải tàn sát và hiếp tróc như thế thì quá đáng thật!"
Vừa nghĩ, chàng vừa lắc đầu tỏ vẻ bất mãn vì hành động vô nhân đạo đó.
Nam Dương lại nói:
- Có điều này đáng hận nữa, là hễ đến ba ngày Tết: Đoan Ngọ, Trung Thu, và Nguyên Đán, y lại gởi một lá thơ tới, trong đó kê khai các người đã bị giết và nhắc lại còn thiếu của y mấy mạng người và mấy người đàn bà. Phái Thạch Lương chúng ta ở Giang Nam tung hoành mấy chục năm mà nay bị tên gian tặc đó làm lụy, đến nỗi chịu cảnh tang thương đến thế! Ai nấy đều suy tính phải báo lại mối thù này. Nhưng thủ đoạn y cao cường quá, cha tôi bàn đi tính lại thật vô kế khả thi. Chúng ta đề phòng cẩn thận hơn trước thì mấy tháng liền không thấy y tới. Nhưng hễ canh phòng hơ chểnh mảng một chút là có sự không lành xảy đến ngay. Trong hai năm người nhà họ Ôn ta, già trẻ lớn bé, tất cả bị giết mất 38 người. Đấy cháu Thanh Thanh thử nghĩ xem, chúng ta có đáng hận y không?
Thanh Thanh hỏi:
- Sau rồi sao nữa?
Nam Dương nói:
- Đoạn sau này xin nhường để má cháu kể nốt.
Đưa mắt nhìn Thừa Chí, Ôn Nghi rầu rĩ nói:
- Có thật chính Viên tướng công đã chôn cất hài cốt của anh ta phải không? Nếu vậy tôi chả cần phải giấu diếm tướng công nữa. Chúng tôi chỉ mong lát nữa tướng công cho mẹ con chúng tôi biết tình hình lúc chết của anh ta như thế nào?... vậy...
Nói tới đây, giọng nói của nàng nghẹn ngào, nghe không ra tiếng. Một lát sau, nàng mới nói tiếp được:
- Lúc đó, tôi không hiểu tại sao anh ta lại nhẫn tâm đến thế? Sự thật, tôi cũng không muốn biết. Cha tôi cấm tôi không được bước ra tới ngưỡng cửa lớn. Buồn bực quá, mỗi ngày tôi có thể ra vườn chơi cũng phải có các anh, các chị đi theo, tôi mới được ra, dù là ban ngày cũng vậy. Hồi đó, đang lúc tiếc tháng ba, mùi hương của hoa thơm cỏ lạ theo gió thổi vào, ngào ngạt khắp nhà, tôi muốn lên sườn núi xem hoa nở và hóng gió mát. Nhưng chỉ vì Kim Xà Lang Quân giết người và lịnh cấm nghiêm ngật của cha tôi mà tôi phải bị nhốt trong nhà, bỏ uổng mất cảnh đẹp, không người thưởng thức. Chiều hôm đó, tôi, chị Ba con bác Hai, con dâu chú Năm, anh Nam Dương, và anh Niệm Từ, tất cả năm anh em ra chơi ngoài vườn. Tôi đánh đu, mỗi khi nhún lên thật cao, trông thấy cây cảnh bên ngoài, hớn hỡ biết bao. Bỗng anh Niệm Từ thét lên một tiếng, rồi ngã người ra phía sau, tôi sợ hãi quá. Sau mới biết anh ta bị người nọ phóng Kim Xà chùy trúng giữa ngực, chết ngay tại chỗ. Tôi còn nhớ, lúc ấy anh Nam Dương sợ chạy trốn vào trong nhà, bỏ mặc ba người đàn bà chúng tôi ở ngoài vườn.
Mặt đỏ bừng, Nam Dương cãi rằng:
- Một mình tôi địch sao nổi? ở lại đó phải mất mạng tôi không? Tôi phải đi gọi người cứu viện chớ?
Ôn Nghi nói tiếp:
- Tôi đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra, bỗng đâu một cái bóng đen ở trên tường nhảy xuống đúng ngay tấm ván của chiếc đu mà tôi đang đứng trên đó.
Người đó nhún mạnh một cái, chiếc đu bay bổng lên trời. Y ôm chặt lấy lưng tôi, rồi y ôm lấy tôi nhún mạnh người tôi chỉ thấy vù vù như đằng vân giá vũ, cả hai đều bay ra khỏi chiếc đu. Những tưởng phen này tôi và y sẽ bị rơi xuống không chết thì cũng tan xương, ngờ đâu tay trái y ôm lấy tôi, tay phải y víu ngay được cành cây cổ thụ. Lại bật mạnh một cái, y và tôi đã bắn ra xa mười mấy trượng, rồi nhẹ nhàng đứng xuống mặt đất. Sợ hãi đến nỗi mơ mơ hồ hồ, tôi cứ đấm bừa vào mặt hắn. Y dùng ngón tay điểm bả vai tôi. Thế là người tôi mềm nhũn như bún, chân tay không cựa quậy được, tai tôi chỉ nghe thấy tiếng hò hét đuổi theo của rất nhiều người, nhưng tiếng hò hét đó càng ngày càng xa dần. Y cắp tôi vào nách, một mạch chạy thẳng lên một cái hang ở trên sườn núi cao chót vót. Giải huyệt cho tôi xong, y ngồi nhìn tôi miệng tủm tỉm cười. Nghĩ đến hai người chị dâu đã bị y hãm hiếp hồi nọ, tôi định chết trong sạch còn hơn sống nhục. Tôi đập đầu vào vách đá. Y sợ quá vột túm lấy cổ áo tôi, nhưng trán của tôi đã bị thương một tí rồi, nên mới có cái sẹo này đây.
Thấy cái sẹo đó khá lớn, Thừa Chí đoán chắc vết thương không nhỏ. Ôn Nghi thở dài một tiếng đoạn nói tiếp:
- Nếu lúc bấy giờ y không kéo tôi lại để cho tôi chết lại đỡ khổ cho y. Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên một cái thảm lông chiên ở trong hang núi. Sợ hãi quá, tôi suýt chết lần nữa, sau nhìn thấy quần áo vẫn còn nguyên vẹn trong lòng mới đượcyên đôi chút. Có lẽ thấy tôi định tự tử, tà tâm của cường đạo bỗng đổi ra lòng thiện, nên y mới không đang tâm hãm hại tôi chăng?
Hồi 8

Ôn Nghi tiếp tục kể: "Có lẽ vì sợ tôi tự tử nữa, nên hai ngày đầu, y cứ lẩn quẩn ở trong hang canh gác tôi, và thổi nấu cho tôi ăn uống. Nhưng tôi cứ khóc lóc, không ăn uống và cũng không nói năng với y nửa lời. Đến ngày thứ tư, có lẽ thấy tôi gầy còm ốm yếu quá nên y nấu một bát canh thịt rồi nhẹ nhàng khuyên tôi uống. Tôi vẫn cứ mặc kệ chẳng nói chẳng rằng. Y bỗng ôm chặt lấy tôi, bóp mũi đổ nước thịt cho tôi uống. Như vậy, y đã cưỡng bách tôi uống được nửa bát. Khi y vừa buông tôi ra, tôi cố ý phun nước thịt vào mặt y để chọc cho y tức giận mà chém tôi một nhát chết đi cho rảnh, khỏi bị y hãm hiếp rồi bị bán làm ************** điếm như hai chị dâu hồi nào.
Ngờ đâu y không tức giận, chỉ tươi cười lấy tay áo lau mặt và ngẩn người nhìn tôi miệng cứ thở dài. Đêm hôm đó, y nằm ngủ ngoài cửa hàng và nói với tôi rằng: "Tôi ca một bài để cô nghe nhé?"
- "Tôi không nghe!"
Thấy tôi trả lời, y sung sướng nhảy nhót và nói: "Tôi cứ tưởng cô câm, nay thấy cô nói, tôi mới yên tâm."

Tôi bật cười, rồi lại nghiêm nét mặt mắng y ngay: "Ai làm người câm nào? Thấy ngươi bất lương nên tôi không thèm nói đấy chớ!"
Không nói gì nữa, y cất tiếng hát, cho tới nửa đêm, y vẫn còn ca. Từ bé đến giờ, tôi chỉ sống trong đại gia đình, nào có bao giờ được nghe những bài ca tình tứ như thế đâu?"
Nam Dương bỗng quát lớn:
- Cô sợ nghe nhưng lại thích nghe nó hát, phải thế không? Ai mà thèm nghe kể lại những chuyện xấu xa ấy cơ chớ!
Nói xong, Nam Dương rảo bước đi thẳng. Thanh Thanh nói:
- Thế nào bác ấy cũng đi ton hót cho các ông biết đấy!
Ôn Nghi nói:
- Các ông biết sao? Má không sợ!
- Má kể nốt cho con nghe đi!
- "Sau đó, tôi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi không thấy y nữa. Tôi định bỏ trốn về nhà. Ngờ đâu, hang đó ở trên đỉnh núi cao chót vót, bốn bề không có đường lối nào đi xuống cả, phải có khinh công giỏi như y mới có thể lên xuống được.
Đến giữa trưa, y lại trở về, đem rất nhiều đồ trang sức và phấn sáp cho tôi. Tôi vứt cả xuống thung lũng. Y vẫn không tức giận, vẫn tươi cười như thường. Tối đến, y lại hát cho tôi nghe. Một hôm, y đêm rất nhiều đồi chơi về, nào là gà con, mèo con, rùa con v... vv. Y biết tôi không dám nhẫn tâm vứt những con vật sống ấy đi. Thế là suốt ngày, y rủ tôi đùa giỡn với mèo con, gà con để giải buồn, tối đến lại ca cho tôi nghe. Thấy không xâm phạm đến người tôi, tôi mới yên trí và chịu ăn uống. Tuy vậy, hơn một tháng trời, tôi không nói chuyện với y nửa lời. Đối với tôi, lúc nào y cũng hòa nhã. Y thương và quý tôi còn hơn cả người nhà. Có một hôm y bỗng vênh váo, giận dữ nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi sợ quá, khóa òa lên. Y thở dài một tiếng, rồi lại vỗ về tôi, bảo tôi đừng khóc nữa. Đêm hôm ấy, y vẫn núp ngoài cửa hang, khóc lóc thảm thương vô cùng. Lát lâu trời mưa to, thấy y vẫn đứng nguyên chỗ cũ, tôi không đành tâm, liền ra gọi y vào tránh cho khỏi ướt nhưng y không chịu vào. Tôi hỏi tại sao? Y trả lời: "Ngày mai là ngày kỵ của cha mẹ, anh chị tôi đã bị người nhà cô hạ sát. Vậy ngày mai, ít nhứt tôi phải giết chết một người trong gia đình cô. Hiện giờ nhà cô phòng vệ nghiêm cẩn lắm. Ngoài ra lại còn mời Lý Triết đạo nhân phái Nga Mi và Thanh Minh thiền sư phái Thiếu Lam đến bảo vệ. Nói thật, tôi không sợ hai người đó..."
Nói tới đây, y bỏ đi liền. Chiều ngày hôm sau, vẫn chưa thấy y về. Tôi có vẻ nhớ nhung, ngấm ngầm cầu khẩn cho y được bình yên vô sự."
Ôn Nghi nói tới đây, Thanh Thanh đưa mắt nhìn trộm Thừa Chí, xem chàng có tỏ vẻ gì khinh khi không? Thấy y vẫn cung kính ngồi yên lặng lắng tai nghe, nàng mừng thầm.
Ôn Nghi lại kể tiếp: "Trời sắp tối hẳn, tôi ra cửa hang ngóng trông mấy lần. Đến lần thứ tư, thấy trên đỉnh ngọn núi trước mặt có bốn cái bóng người đuổi nhau, thân pháp nhanh nhẹn vô cùng, tôi nhìn kỹ mới nhận ra người đi đầu chính là y. Theo sau y một đạo sĩ, một hòa thượng, và người đuổi sau cùng là cha tôi. Y cầm Kim Xà kiếm, một mình địch ba người, tình thế có vẻ nguy cấp lắm. Một lát sau, thấy vị hòa thượng quật ngang cây thiền trượng, tưởng y không sao thắng nổi chiếc đòn đó, tôi sợ quá la lên một tiếng.
Ngờ đâu, y dùng Kim Xà kiếm gạt mạnh, thế là cây thiền trượng bị chặt đứt ngay một khúc. Nghe thấy tiếng kêu la, cha tôi quay lại, trông thấy tôi, liền chạy sang bên đỉnh núi chỗ tôi ở. Thấy thế, y nóng lòng. Chỉ hai miếng kiếm, y đã đẩy lui hòa thượng và đạo nhân, rồi đuổi theo cha tôi. Không bao lâu, cha tôi chạy trước, y theo sau, sau nữa là đạo nhân và hòa thượng, cả bốn người đã sang tới thung lũng phía núi bên này, y phóng lên trước, quay lại cản cha tôi. Đấu được vài hiệp, đạo nhân và hòa thượng chạy tới, nhảy vào vây đánh. Nhờ vậy, cha tôi liền phóng thẳng lên núi. Y lại bỏ hai người kia, đuổi theo để ngăn cản cha tôi. Vừa đánh, vừa chạy, vừa đuổi như thế, không bao lâu, cả bốn người đã lên tới đỉnh núi. Tôi mừng quá, gọi ầm lên: "Cha ơi! Mau tới đây!"
Nghe thấy tôi kêu gọi cha tôi, y nhảy xổ lại như điên như cuồng "soạt, soạt, soạt" đâm liền ba kiếm, đẩy lùi cha tôi về phía sau. Trong lúc nguy cấp, thấy cha tôi địch không nổi y, tôi định chạy ra cứu. Nhưng đạo sĩ và hòa thượng đã đuổi tới nơi rồi. Cha tôi lên tiếng gọi: "Nghi! Con có sao không?"
Tôi trả lời: "Cha cứ yên tâm, con vẫn được mạnh như thường."
- "Hay lắm, để chúng ta giải quyết xong tên gian tặc này rồi sẽ cứu con sau."
Thế là ba người lại vây đánh y. Đạo nhân nọ nói: "Kim Xà Lang Quân! Phái Nga Mi chúng ta không có thù oán gì với ngươi cả, nhưng thấy ngươi làm nhiều điều quá đáng, nên ta mới tới đây. Ta không giúp bên nào hết. Nếu ngươi bằng lòng từ nay không đến nhà họ Ôn quấy nhiễu nữa thì câu chuyện ngày hôm nay coi như được giải quyết một cách hòa bình."
Y nghiến răng trả lời: "Cấm ta không đến nhà họ Ôn nữa? Vậy cha, mẹ, anh, chị ta bị chúng giết thì ai sẽ trả thù thay ta?"
Vị hòa thượng nói: "Ngươi đã giết chết bấy nhiêu người cũng đủ rồi chứ? Khuyên ngươi nên nể mặt đạo trưởng và sãi gia đây, từ nay hãy ngừng tay đừng nên giết chóc nữa!"
Y bỗng nổi đóa, đâm luôn hòa thượng một kiếm. Thế là bốn người lại bắt đầu ác chiến. Khí giới của đạo nhân rất lạ lùng, và võ nghệ cũng rất cao cường. Hòa thượng múa thiền trượng kín đáo vô cùng, chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù bên tai. Càng đánh, tôi thấy trán y vã mồ hôi. Bỗng loạn choạng một cái, y suýt bị ngã. Cây trượng của hòa thượng đánh xuống, y né mình tránh được. Nhờ cái né mình đó, y trông thấy mặt tôi. Y liền bảo cho tôi biết rằng y đã mỏi mệt nhừ cả xương cốt. Nhưng từ lúc trông thấy vẻ mặt lo lắng của tôi, sức khỏe y bỗng dồi dào hẳn lên, kiếm pháp của y càng lợi hại hơn trước nhiều. Sau khi thấy tôi tỏ vẻ lo sợ cho y, y liền nói: "Ôn cô nương đừng sợ, coi đây này!"
Tôi không trông thấy tay y động đậy gì cả mà hòa thượng nọ bỗng hét lên một tiếng ngã lăn xuống núi.
Trước khi lăn xuống sườn núi, tôi trông thấy giữa đỉnh đầu trọc lông lốc của hòa thượng có một mũi Kim Xà chủy chắm ngập cán. Cha tôi và đạo nhân đều giựt mình sợ hãi. Trong lúc y đâm cha tôi, đạo nhân liền thừa cơ tấn công phía sau lưng y. Ngờ đâu, y quát lớn một tiếng dùng hai ngón tay trái nhanh như điện chớp đâm vào mắt đạo nhân. Vì cúi đầu tránh miếng móc mắt của y, nên đạo nhân đã để hở cả nửa mình. Nhanh như cắt, y quay kiếm lại phạt ngang lưng thế là đạo nhân bị chém đứt làm hai khúc, té xuống mặt đất."
Nghe tới đây, Thanh Thanh bỗng kêu lên: "Ối chà!"
Ôn Nghi lại nói tiếp: "Rồi y lại quay kiếm trở lại đâm cha tôi một nhát. Thấy hai tay giúp mình, võ nghệ cao cường đến thế mà còn bị y hạ sát cả, cha tôi sợ đến nổi mặt tái mét, chiếc gậy bằng gang đã múa loạn xạ, không thành thế võ gì nữa. Tôi vội chạy ra ngoài cửa hang, lớn tiếng gọi: "Hãy khoan tay! Hãy khoan tay!"
Nghe thấy tiếng gọi của tôi, y liền ngừng tay lại. Tôi nói luôn: "Cha tôi đấy!"
Y hậm hực lườm cha tôi rồi nói: "Ông đi ngay đi! Tha cho ông khỏi chết!"
Ngạc nhiên vô cùng, cha tôi quay mình định đi. Vì suốt ngày chưa được ăn tí gì nên tôi đói quá, sợ hãi vì những trận đánh kinh người, may thấy y tha chết cho cha tôi, tôi mừng quá, bỗng ngã lăn ra đất. Lúc nào, y cũng chú ý đến tôi, nên vừa thấy tôi ngã,y vội vàng chạy lại đỡ tôi dậy. Đầu tựa trên vai y, tôi trông thấy mắt cha tôi chứa đầy vẻ căm hờn, hung ác.
Cha tôi bỗng giơ cao gậy gang đập mạnh xuống lưng y. Vì chỉ nhứt tâm lo sợ tôi có bị thương hay không, y không ngờ cha tôi lại đánh trộm như vậy. Không thể chịu được nữa, tôi vội kêu lên: "Cẩn thận!"
Giựt mình, y muốn tránh nhưng không kịp, y đàng phải né đầu sang một bên, lấy vai chịu đựng chiếc gậy gang của cha tôi. Và thuận tay, y cướp luôn chiếc gậy, quăng xuống thung lũng. Rồi y dùng song chưởng đánh cha tôi. Biết không thể địch nổi, cha tôi đành nhắm mắt chờ chết. Nhưng y quay đầu lại, trông thấy vẻ mặt lo lắng của tôi liền thở dài một tiếng rồi bảo cha tôi rằng: "Ông nên đi ngay đi! Bằng không tôi tức tối hồi tâm chuyển ý sẽ không tha thứ cho ông nữa đâu!"
Không dám nói nửa lời, cha tôi chạy thẳng xuống chân núi. Vai y chịu một đòn của cha tôi, vết thương đó khá nặng, nên khi cha tôi vừa đi khỏi, y phun ngay ra một đống máu tươi bắn cả vào ngực tôi."
Thanh Thanh "hừ" một tiếng rồi nói:
- Thật ông Ba không biết xấu hổ là gì! Trước mặt không đủ tài đánh người ta, lại giở cái trò hèn đánh trộm như thế!
Ôn Nghi thở dài nói: "Theo đúng lý mà nói, thì y là kẻ thù lớn của nhà ta, liên tiếp giết chết người nhà ta, già trẻ lớn bé, tất cả mấy chục người. Nhưng thấy y bị người vây đánh, và còn bị đánh lén đánh trộm, lòng tôi mới đổi ra binh vực y. Đó cũng là oan nghiệp từ kiếp trước cũng nên. Y đi loạng choạng vào trong hang, móc túi lấy thuốc đả thương ra nuốt, rồi lại loạng choạng phun máu rơi cả thuốc ra ngoài, tôi sợ quá òa khóc. Tuy bị thương nhưng vẻ mặt vẫn hớn hở, y hỏi tôi: "Tại sao em lại khóc?"
Tôi vừa mếu máo vừa trả lời: "Thấy anh bị thương nặng quá."
Y cười, hỏi: "Thế ra vì anh mà em khóc đấy?"
Chỉ cảm thấy lòng đau vô cùng, chớ tôi không làm sao trả lời được. Lát lâu sau y lại nói: "Từ khi cả nhà tôi bị chú Sáu em hạ sát đến giờ, chưa có người nào quan tâm đến tôi. Ngày hôm nay, tôi giết chết một người anh họ của em. Như vậy, trước sau, anh đã giết tất cả 40 người rồi. Chính ra, tôi còn định giết thêm mười người nữa. Nhưng vì nể những giọt nước mắt chảy trên mặt em, tôi quyết ngừng tay, không giết thêm nữa."
Tôi vẫn cứ khóc, không nói nửa lời. Y lại nói: "Tôi cũng không hãm hại những người đàn bà trong gia đình của em nữa. Chờ khi nào vết thương này được lành mạnh rồi, anh sẽ đưa em về nhà."
Trong lòng tôi lúc bấy giờ, không phân biệt vui mừng hay đau khổ, chỉ thấy y nhận lời không giết người nữa là tôi khoan khoái lắm rồi.
Từ đó, mấy ngày liền, tôi nấu nước thổi cơm, tận tâm hầu hạ y. Có một hôm, y năm mê man suốt cả ngày. Tới chiều tối, bịnh y trở nên trầm trọng quá, sắp chết đến nơi. Tôi khóc sưng húp cả hai mắt. Bỗng mở mắt ra nhìn tôi, y cười gượng, rồi bảo: "Không sao, ta không chết đâu mà em sợ!"
Qua hai ngày sau, quả nhiên bịnh y đã có phần giảm bớt. Một đêm nọ, y nói với tôi rằng, y bị trúng đòn của cha ta lẽ ra không thể nào sống được. Nhưng nghĩ đến sau khi y chết đi, tôi ở trên đỉnh núi này một mình lên xuống không được còn người nhà tôi thì sợ y, không dám tới kiếm, như vậy thế nào tôi cũng bị chết đói mất. Bởi lẽ ấy, y phải cố gắng tranh đấu với tử thần để được sống bên cạnh tôi."
Thanh Thanh nói xen vào:
- Má! Ông ta tử tế với má quá! Kể ra ông ta cũng là người có lương tâm lắm đấy chớ?
Nói xong, nàng đưa mắt nhìn Thừa Chí với một vẻ mặt giận dữ. Thừa Chí mặt đỏ bừng, quay đầu nhìn sang phía khác.
Ôn Nghi lại kể tiếp: "Bịnh y thuyên giảm dần. Một hôm, y kể cho tôi nghe hồi y còn nhỏ được cha mẹ nuông chiều lắm, cả anh chị cũng thương yêu y vô cùng. Có một lần, y bị bịnh, mẹ y trông nom săn sóc liền ba ngày đêm không ngủ. Ngờ đâu, đến hôm thứ ba, chú Sáu tới giết chết cả nhà y. Lúc bấy giờ, tôi nhận thấy bề ngoài thì y có vẻ rất ác độc, nhưng mỗi khi nhắc tới chuyện người nhà thì y lại nhu mì hiền lành lắm. Y lấy ra cái yếm vải che ngực màu đỏ có thêu hoa, đưa cho tôi xem. Y bảo cái yếm đó tự tay mẹ y thêu và tặng cho y ngày ăn mừng đầy năm."
Nói tới đây, Ôn Nghi móc túi lấy cái yếm đỏ ra, để lên trên bàn. Thừa Chí trông thấy cái yếm đó bằng đoan màu đỏ, trên có thêu một đứa bé trần truồng năm trên tầu lá chuối. Nét thêu rất khéo, rất đẹp, đủ biết lúc thêu yếm này, người mẹ thương yêu con xiết bao. Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, nay trông thấy cái yếm vải nọ, Thừa Chí chợt nghĩ tới thân thế của mình, chàng không sao cầm được giọt lệ. Ôn Nghi tiếp tục nói: "Y vẫn ca hát những bài dân ca cho tôi nghe, và còn lấy gỗ chuốt rất nhiều đồ chơi cho tôi giải buồn. Y bảo tôi là một cô gái ngây thơ. Sau đó ít ngày, vết thương của y đã lành mạnh hẳn, nhưng càng ngày tôi thấy y càng thêm rầu rĩ. Tôi hỏi tại sao? Y trả lời là không nỡ rời khỏi tôi. Tôi nói: "Nếu vậy, em cứ ở đây với anh nhé?"
Thấy tôi nói thế, y mừng quá leo lên trên đỉnh núi, trèo lên hai cây cao rồi lại nhảy xuống, không khác gì một con vượn vậy. Y nói với tôi rằng: Y tình cờ nhặt được một bản đồ kho tàng, trong đó có rất nhiều vàng bạc châu báu. Nghe nói số vàng bạc châu báu ấy là vua Kiến Văn, khi bị chú là Yến Vương cưới ngôi, liền bỏ chạy, rồi đem của cải chôn giấu ở nơi đó.
Đến lúc Yến Vương vào chiếm đóng thành Nam Kinh, vội cho người đi tìm kiếm số của cải đó, nhưng lục soát cả thành phố mà vẫn không sao tìm thấy. Yến Vương đã mấy lần sai Thái giám Tam bảo xuống các tiêu quốc ở Nam Vương cho người đi tìm kiếm Kiến Văn để làm gì mà gấp thế? Đề nghị trả lại ngai vàng cho cháu chăng?
Không phải, mục đích là bắt Kiến Văn phải chỉ tra nơi đã chôn giấu kho tàng mà thôi."
Thừa Chí ngấm ngầm gật đầu, trong lòng nghĩ thầm: "Thì ra tờ bản đồ đó ta tìm thấy trong Kim Xà bí kíp lại là bản đồ ghi rõ nơi chôn cất những của cải kếch sù đó."
Ôn Nghi lại nói:
- Y nói, suốt đời Vua Thành Tổ tức Yến Vương, không sao kiếm cho ra tờ bản đồ đó. Không ngờ, mấy trăm năm sau, vô tình y lại lượm được. Bây giờ, thù lớn đã báo được rồi, y sắp sửa đi tìm kiếm số của cải đó. Chờ khi nào y tìm thấy kho châu báu ấy rồi, sẽ về đây đón tôi. Bây giờ y hãy đưa tôi về nhà trước.
Nói tới đây, Ôn Nghi đổi sang giọng hậm hực:
- Sau khi trở về nhà, ai nấy đều khi thị tôi làm tôi tức giận vô cùng. Họ đã bất tài không sao bảo vệ nổi con cháu đáng lẽ phải an ủi tôi khi trở về còn giữ được tấm thân trinh bạch. Trái lại mọi người còn bêu xấu bêu hổ tôi. Mặc kệ họ nói gì thì nói, tôi cứ lẳng lặng làm thinh.
Thanh Thanh vội đỡ lời:
- Má xử sự như thế rất phải.
Ôn Nghi nói:
- Tôi ở nhà chờ đợi được ba tháng. Một đêm, bỗng có tiếng ca nổi lên ở phía ngoài cửa sổ. Nghe tiếng ca, tôi biết y đã tới liền ra mở cửa sổ cho y vào. Chúng tôi gặp nhau đều vui mừng quá. Ngay hôm đó, tôi giao hợp với y, vì thế mới sanh ra con bé này (vừa nói, vừa chỉ vào Thanh Thanh). Đó là tự ý tôi muốn vì tôi đã yêu hắn thật lòng. Và đến tận bây giờ, tôi cũng không thấy ân hận chút nào cả. Người ta đồn bậy là y cưỡng hiếp tôi, có phải thế đâu? Thanh Thanh, cha con thương má lắm, và má cũng yêu cha con. Lúc nào cha con cũng tôn trọng má, chớ không bao giờ cưỡng bách má cả.
Thừa Chí phục thầm lòng dũng cảm của Ôn Nghi. Nghe thấy nàng nói tới mối tình một cách tha thiết, Thừa Chí phải động lòng thương cảm.
Thanh Thanh, bỗng cúi đầu khẽ hát câu: "Đàn Nhạn từ phía Nam bay tới. Có những con bay cặp đôi, cũng có con bay lẻ loi một mình. Đôi Nhạn bay trước vui vẻ kêu hót, con sau lẻ loi cúi đầu, bay không nổi. Mặc những con cặp đôi, ta chỉ để ý con lẻ loi kia thôi! Vì tấm lòng đau thương của mi, cũng y như ta đang cô đơn rầu rĩ vậy"
Ôn Nghi với giọng nghẹn ngào nói:
- Con nhỏ này mồ côi cha từ thuở còn thơ. Bài ca vừa rồi tôi vẫn thường hát để ru nó ngủ. Bởi nghe quen tai nên nó thuộc lòng!
Thừa Chí nói:
- Chắc lần sau, Hạ lão tiền bối đến thăm bà, ông ta đã tìm thấy kho tàng của báu rồi?
Ôn Nghi gật đầu: "Anh ta nói, tuy chưa tìm thấy, nhưng đã có chút manh mối có thể kiếm ra được. Chúng tôi bàn định, sáng sớm ngày hôm sau sẽ cùng nhau lén trốn ra đi. Ngờ đâu, lời nói của chúng tôi đã có người nghe trộm được. Sáng sớm hôm sau, tôi thu xếp quần áo xong, viết một lá thơ để lại cho cha tôi, đang định lên đường thì bỗng có người gõ cửa.
Tôi sợ hãi quá, nhưng anh ta khuyên tôi nên bình tĩnh, dù có thiên quân vạn mã đến vây bắt, anh ta cũng có thể đánh thoát ra khỏi vòng vây được. Anh ta mở cửa, thấy cha tôi, bác Cả và bác Hai, ba người. Cả ba cùng mặc lễ phục và không mang khí giới.
Chúng tôi ngạc nhiên quá! Cha tôi nói: "Việc của hai người, chúng ta biết hết cả rồi. Điều đó cũng là do oan trái từ kiếp trước đã định. Từ nay, chúng ta đã trở nên thân gia, không ai còn được giở đao thương ra đối xử với nhau nữa."
Anh ta tưởng cha tôi sợ anh ta lại đến để giết người liền vội vã phân trần: "Cụ cứ yên trí, tôi đã nhận lời với em Nghi là không giết người nhà các cụ nữa!"
Cha tôi lại nói: "Hai người lén lút với nhau như thế này không được. Thế nào cũng phải có cưới xin hẳn hòi."
Nghe thấy cha tôi nói thế anh ta mừng quá. Nhưng có biết đâu vì thế mà anh ta bị mắc lừa cha."
Thừa Chí nói:
- Chắc cụ ông đánh lừa ông ta, chớ không thật tâm bằng lòng gả bà cho ông ta phải không?
Ôn Nghi gật đầu, rồi nói: "Rồi cha tôi để cho anh ta ở căn phòng bên và cho sửa soạn lễ cưới. Anh ta cũng khôn lắm, những thức ăn uống rượu chè mà người nhà bưng lên, anh ta đều cho chó thử trước. Tuy vậy, anh ta vẫn không dám ăn uống một tí gì. Đêm đến anh ta đem những thức mua ăn riêng. Có một đêm, mẹ tôi bưng một bát chè hạt sen vào và nói với tôi rằng: "Con đưa cho nhà con ăn đi!"
Tôi chả biết một tí gì, tưởng mẹ tôi thương anh ta thật. Tôi hớn hở bưng bát chè vào trong phòng. Thấy tự tay tôi đem vào, anh ta không ngờ vực gì cả, cầm lấy ăn luôn mấy thìa. Đang vừa ăn vừa trò chuyện với tôi, bỗng thấy sắc mặt anh ta thay đổi hẳn rồi anh ta đứng dậy kêu lên: "Em Nghi, sao lòng em độc địa như thế?"
Tôi sợ hãi quá vội hỏi: "Sao thế anh?"
- "Sao em lại đầu độc anh?"
Nghe tới đây, cả Thừa Chí lẫn Thanh Thanh đều giựt mình kinh hãi. Trong bóng tối bốn bề đều yên lặng như tờ chỉ thỉnh thoảng nghe thấy gần ngôi đình có tiếng cú kêu tựa như tiếng cười làm sờn lòng những kẻ nhát gan. Quay đầu lại, Thừa Chí trông thấy năm anh em họ Ôn đã đứng vây quanh bên ngoài ngôi đình.
Ôn Minh Sơn quát mắng:
- Nghi! Sao con lại kể hết chuyện xấu xa của nhà mình cho người ngoài nghe thế? Con có biết xấu hổ không?
Mặt đỏ bừng, Ôn Nghi muốn cãi nhưng lại cố nhịn, rồi quay đầu nói với Thừa Chí:
- Mười chín năm nay, tôi không nói chuyện với cha tôi một câu nào, và từ giờ cho tới ngày chết cũng thế. Tôi không sợ ai cả. Cậu có sợ không?
Thanh Thanh vội đỡ lời:
- Thưa má, Thừa Chí đại ca không bao giờ biết sợ đâu!
Ôn Nghi nói:
- Hay lắm! Vậy tôi xin tiếp tục nói nốt cho cậu nghe.
Cất cao giọng, Ôn Nghi nói tiếp:
- Lo quá, tôi khóc òa lên, không biết nói thế nào và làm thế nào cho phải. Bỗng cửa phòng bị người đạp phanh ra. Rất nhiều người tay cầm khí giới xông vào.
Nói tới đây, Ôn Nghi chỉ ra bên ngoài, rồi nói tiếp: "Lúc này ngoài cửa phòng đã đứng đầy những người này đây, nhưng tay họ đều có ám khí. Tạm gọi là còn có chút lương tâm, cha tôi gọi tôi ra ngoài phòng. Tôi biết khi tôi ra khỏi là bọn họ bắn và ném ám khí ngay. Căn phòng nhỏ tí, anh ta hết chỗ trốn tránh. Thấy vậy, tôi trả lời ngay: "Con không ra. Cứ giết cả chúng con đi!"
Trước tưởng tôi thông đồng với người nhà để hãm hại anh ta, nghe thấy tôi cãi lại cha tôi, anh ta bỗng nhảy phắt lên, hớn hở hỏi: "Em có biết bát chè sen này có độc dược không?"
Tôi cầm bát chè lên xem, thấy còn một chút nước, liền uống luôn và nói rằng: "Nếu có độc, em xin chết theo anh!"
Anh ta vội hắt bát chè đi, nhưng tôi đã uống mất một hụm rồi. Anh ta cười nói: "Hay lắm, chết thì cùng chết một thể!"
Rồi anh ta quay mặt ra ngoài chửi rủa: "Các người dùng thủ đoạn ty tiện đê hèn thế này, không sợ xấu hổ ư?"
Bác Cả liền nổi giận: "Ai thèm dùng thuốc độc hãm hại nào? Mi tự phụ có bản lãnh vậy hãy ra ngay ngoài này đấu với chúng ta!"
Anh ta trả lời: "Được lắm!"
Nói xong anh ta dắt tay tôi ra ngoài. Không ngờ bên ngoài đã bày sẵn trận Mai Hoa Trang rồi. Một mình anh ta chống với năm anh em, cha tôi và các chú bác. Trong bát chè sen tuy không có thuốc độc nhưng có cho "Túy Tiên Mật" vào. Thứ mật này là bí chế của nhà họ Ôn. Hễ uống phải sẽ mất sức dần, rồi ngủ thiếp đi như chết vậy, phải qua một ngày một đêm mới tỉnh. Sở dĩ các người không muốn đầu độc anh ta chết là muốn anh ta say mềm, rồi từ từ hành hạ."
Nói tới đây giọng nói của Ôn Nghi chứa đầy nỗi căm hờn.
Lúc ấy Ôn Minh Đạt lại quát tháo:
- Này họ Viên kia, mi có dám đấu với năm anh em ta cùng một lúc không?
Hai hôm trước, vì thấy anh em họ Ôn là bề trên của Thanh Thanh, Thừa Chí mới đối xử một cách lễ phép như vậy.
Bây giờ, nghe thấy Ôn Nghi moi hết thủ đoạn thâm độc của họ ra, Thừa Chí không còn nể nang như trước nữa. Chàng giận dữ trả lời:
- Hừ, dù các ngươi có mười anh em, ta cũng bất chấp!
Chàng vừa nói xong, có một bóng người nhảy xổ vào trong đình, thét lớn:
- Nhãi con, chớ có vô lễ, có giỏi bước ngay ra đây xem nào!
Thấy người nọ thân hình vạm vỡ, búi tóc cột bằng một cái vòng đồng bóng nhoáng, mình mặc áo cà sa màu đỏ. Thừa Chí mới hay y là một tên đầu đà chưa cạo tóc, và hai đêm trước từng thấy ở nhà ôn thanh.
Hôm đó y đến thăm mấy anh em họ Ôn muốn hợp tác với phái Thạch Lương để đánh cướp một vụ lớn. Nay thấy anh em họ Ôn danh lừng suốt dọc hai bờ sông Dương Tử, mà có vẻ nể sợ một tên hậu sanh trẻ tuổi nọ, Đặng Thắng nhịn không được liền nhảy xổ vào trong đình, định lôi Thừa Chí ra đánh cho một trận mê tơi.
Thấy thân pháp của Đặng Thắng khá lợi hại, Thừa Chí né mình tránh và thuận tay túm lấy tóc y, mượn sức quăng luôn ra ngoài. Cả một thân hình béo như con bê, Đặng Thắng bị Thừa Chí ném ngã lăn ra ngoài bụi cây Mai Quế. Những gai mọc đầy cành Mai Quế móc toạt mặt mũi, da thịt tên tướng giặc, máu chảy lênh láng.
Ôn Nghi cười nhạt một tiếng, rồi nói:
- Đêm hôm đó năm anh em đi đánh một mình anh ta. Đáng lẽ anh ta địch nổi, nhưng vì "Túy Tiên Mật" làm cho tay chân bủn rủn. Và anh em họ Ôn lại mới luyện thành "Ôn thị Ngũ Hành trận" liên hoàn vây đánh, khiến anh ta không lúc nào ngừng được chân tay...
Ôn Minh Sơn giận dữ quát mắng:
- Nghi, mấy muốn tiết lộ cho người ngoài biết rõ những sự bí mật của nhà ta ư?
Ôn Nghi mặc cha quát mắng, vẫn tiếp tục nói với Thừa Chí:
- Anh ta nghĩ nếu đánh ngã được một trong năm anh em thì có thể phá được trận Ngũ Hành đó. Nhưng sức lực yếu ớt dần, anh ta loạng choạng sắp ngã. Tôi liền gọi: "Anh chạy ngay đi! Không bao giờ em phụ anh đâu!"
Giọng nói thê thảm và cảm động, hình như nàng đang sống trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Thanh Thanh sợ quá vội gọi:
- Má ơi!
Thấy mắt Ôn Nghi ngơ ngác, hơi thở dồn dập, Thừa Chí biết nàng bị kích thích quá, không thể nói tiếp được nữa, Thừa Chí liền nói:
- Mời bác hãy về phòng nghỉ ngơi đã. Cháu sẽ nói chuyện với các cụ. Ngày mai cháu đến thăm bác.
Ôn Nghi nắm lấy tay áo Thừa Chí:
- Không, không. Tôi vẫn giữ trong lòng mười chín năm nay rồi! Hôm nay tôi phải thốt hết ra mới được! Viên tướng công này nói nốt đã!
Thấy giọng nói của nàng xen lẫn tiếng khóc, Thừa Chí liền gật đầu:
- Vâng, cháu xin nghe!
Ôn Nghi vẫn nắm chặt tay áo Thừa Chí, và nói:
- Họ muốn lấy tánh mạng của anh ta, nhưng họ cũng muốn có cả kho tàng kia nữa. Đánh thêm một trận nữa, người anh ta bị thương, chịu đựng không nổi, anh ta ngã xuống dưới Trang. Biết rõ anh ta có tờ bản đồ kho tàng, họ bắt anh ta phải nộp ra. Anh ta nói: "Bản đồ không giấu ở trong người ta. Ai có can đảm thì theo ta đi mà lấy! Hà! Hà!" Thế là bọn họ khó xử quá. Tha anh ta, khi thuốc mê tan rồi, ai là người đủ tài kềm chế nổi? Giết anh ta, không bao giờ họ lấy được bản đồ kho tàng đó. Sau cùng, ý kiến của cha tôi tài lắm! Hà! Hà! Thông minh lắm! Có phải thế không? Lúc ấy, anh ta mê man bất tỉnh, và tôi cũng chết ngất không hay biết gì cả. Tới khi tôi tỉnh lại họ đã khám xét kỹ lưỡng người anh ta rồi, quả nhiên không có tờ bản đồ trong đó thật. Họ liền cắt đứt gân chân và gân tay của anh ta, khiến sau nay anh ta không còn dùng được sức khỏe nữa, rồi họ mới tha anh ta đi, và bắt ép phải đưa nộp tờ bản đồ. Thông minh thật! Có phải không? Hà! Hà! Hà!
Thấy tâm trí của Ôn Nghi thất thường, Thừa Chí liền khuyên giải:
- Mời bác hãy về phòng nghỉ ngơi đi!
- Tôi không đi! Nếu cậu đi rồi thì các người sẽ giết tôi ngay, nên tôi phải nói hết cả ra mới được hả dạ mát lòng... Rồi họ áp giải anh ta đi. Trong năm anh em không ai tin cậy ai cả, lại có thêm hai tay hảo thủ phái Nga Mi cùng đi nữa. Ai ai cũng muốn được hưởng món hoạnh tài đó. Không hiểu tại sao, bọn họ lại để cho anh ta tẩu thoát. Có lẽ khi anh ta nộp bản đồ kho tàng cho họ, vì sung sướng quá họ không đề phòng gì cả, nên anh ta mới chạy thoát được. Bọn họ thông minh lắm, nhưng chàng Kim Xà Lang Quân của tôi cũng không dại dột gì. Bọn họ bảy người cướp được bản đồ đó, tranh giành lẫn nhau. Năm anh em liền mưu mô diệt trừ hai hảo thủ phái Nga Mi trước nhứt.
Ôn Minh Nghĩa đứng bên ngoài quát tháo:
- Ôn Nghi, mầy còn nói lếu nói láo thì liệu hồn mầy đấy!
Ôn Nghi cười:
- Tôi đã không sợ chết thì ai muốn làm gì thì làm!
Nàng quay đầu lại nói với Thừa Chí:
- Ngờ đâu bản đồ đó lại là bản đồ giả. Năm anh em ở Nam Kinh loay hoay nửa năm trời, tiền tiêu tốn trên vạn lạng mà chả kiếm ra xu nhỏ nào cả. Hà! Hà! Tôi khoái trí quá! Thật là không còn gì sung sướng bằng.
Năm anh em họ Ôn ở bên ngoài cứ nghiến răng. Vì nể sợ Thừa Chí, nên không ai dám xông vào trong đình nghỉ mát đó. Nói tới đây, Ôn Nghi ngẩn người giây lát rồi tiếp tục nói khẽ và chậm chạp:
- Từ đó không được tin tức gì về anh ta. Gân tay và chân đã bị họ cắt đứt cả, nên anh ta tựa như một phế nhân vậy. Vốn xưa nay vẫn có tánh kiêu ngạo và tự cao, anh ta không chết vì đau khổ thì cũng sẽ uất ức mà chết...
Ôn Minh Đạt lên tiếng gọi:
- Họ Viên kia, mi đã nghe thấy nó nói về Ngũ Hành trận của chúng ta rồi. Vậy mi có dám ra đấu thử với chúng ta không?
Ôn Nghi khẽ nói:
- Cậu đi đi thôi! Đừng đấu với họ làm gì.
Thừa Chí đã thử tài với năm anh em họ Ôn rồi, một chọi một chưa có người nào địch nổi chàng. Nhưng nay phải đấu với cả năm anh em cùng một lúc, lại thêm Ngũ Hành trận họ thao luyện đã thuần thục lắm, Thừa Chí chưa dám quả quyết có thể thắng nổi hay không. Xét theo lời Ôn Nghi thì trận đó căn cứ vào Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngũ Hành tương sinh tương khắc, khó lòng mà phá nổi. Hơn nữa, buổi đầu giao đấu, cả hai bên đối với nhau đều không có thù oán gì cả nên ai nấy ra tay đều có chừng mức thôi. Bây giờ, hai bên đã trở nên thù địch, và bên anh em họ Ôn hiểm độc lắm, vì vậy Thừa Chí còn trù trừ chưa quyết định hẳn nên đánh hay không?
Ôn Minh Nghĩa liền khiêu khích:
- Nếu không dám đánh thì cứ quỳ lạy chúng ông ba lạy, chúng ông sẽ tha cho mi đi!
Ôn Minh Thi với giọng nham hiểm:
- Bây giờ có chịu van lạy cũng muộn mất rồi!
Thừa Chí dõng dạc trả lời:
- Nghe nói Ngũ Hành trận của họ Ôn lợi hại vô cùng vậy tiểu bối cũng muốn được kiến thức đôi chút. Nhưng hiện giờ tiểu bối đang mệt mỏi, vậy cho phép tiểu bối được nghỉ ngơi độ một giờ có được không?
Ôn Minh Nghĩa trả lời:
- Mi muốn nghỉ một giờ cũng được. Mà dù mi nghỉ thêm năm, mười ngày cũng không chạy thoát được đâu!
Ôn Minh Sơn nói khẽ với các anh em:
- Chưa biết thằng nhãi con này định giở trò quỷ kế gì đây? Chúng ta phải đánh ngay nó đi!
Ôn Minh Đạt cản lại:
- Chú Hai đã nhận lời rồi, thì cho nó sống sót thêm một giờ nữa, để nó chết khỏi oán hận. Quý hồ chúng ta canh gác cẩn thận đừng để cho nó tẩu thoát.
Ôn Minh Ngô nói:
- Nếu vậy bảo nó vô trong Luyện Võ sảnh nghỉ ngơi, rồi chúng ta vây xung quanh nó.
Ôn Minh Đạt gật đầu, cất cao giọng nói:
- Họ Viên kia, mi vào trong Luyện Võ sảnh nghỉ ngơi đi. Chớ ở đây, nhỡ mi đào tẩu thì sao?
Thừa Chí trả lời:
- Cũng được!
Nói xong, chàng đứng dậy đi. Mẹ con Ôn Nghi lo ngại hộ chàng, muốn ngăn cản nhưng vô kế khả thi đành phải đi theo chàng vào trong nhà.
Tới Luyện Võ sảnh, Ôn Minh Đạt sai người thắp mấy chục cây nến lớn rồi.
- Khi cháy hết những cây nến này, đã đủ thì giờ cho mi nghỉ ngơi chưa?
Thừa Chí gật đầu, rồi ngồi xuống chiếc ghế bày giữa sảnh. Năm anh em họ Ôn bày ghế ngồi xung quanh, vây thành vòng tròn vây Thừa Chí ở giữa. Năm người đều nhắm mắt lại tĩnh dưỡng. Ngoài ra còn Ôn Nam Dương, Ôn Chính và các hảo thủ của phái Thạch Lương, tổng cộng mười sáu người ngồi trên mười sáu chiếc ghế nhỏ vây vòng ngoài. Thừa Chí thấy bọn đó ngồi theo phương vị Bát Quái, để phù trờ phù trợ cho trận Ngũ Hành liền nghĩ thầm rằng: "Nếu ta muốn xông ra khỏi thế trận ngoài, chắc sự khó khăn không kém gì thế trận trong."
Nghĩ đoạn, chàng ngồi xếp bằng tròn trên ghế, hai tay buông xuôi xuống, nhắm mắt để hồi nhớ lại những võ công mà sư phụ đã dạy bảo chàng. "Suy đi tính lại bị hai mươi mốt tay hảo thủ vây đánh như thế này, mình chỉ có thể giữ thế thủ mà thôi, còn muốn xông ra khỏi thế trận để thoát thân thì khó lắm! Nhưng nếu bảo thủ quá lâu, hơi sức sẽ kém sút dần, rốt cuột mình vẫn bị thất bại. Võ nghệ cao cường như Kim Xà Lang Quân mà còn không phá nổi Ngũ Hành trận, đủ thấy trận thế này lợi hại như thế nào?"
Đang lo nghĩ, chàng bỗng "linh cơ nhứt động", nghĩ tới mấy trang sau cùng trong cuốn Kim Xà bí kíp. Lần đầu tiên, khi đọc tới mấy trang đó, chàng không hiểu tí gì. Đến lần thứ hai xuống hang động trông thấy những bức hình vẽ trên vách đá và tham chiếu với các lời chú thích trong Bí kíp, chàng mới lãnh hội được những thế võ đó. Tuy vậy, lúc bấy giờ chàng vẫn không hiểu tại sao Kim Xà Lang Quân lại sáng tạo ra những miếng võ phức tạp như thế để làm gì.
- "Trong lúc đối chiếu, dù kẻ địch võ nghệ cao cường đến mức nào cũng không thể một lúc tấn công cả bốn bề tám phương. Như vậy, những thế võ này rõ ràng để đối phó các mặt đồng thời tấn công."
Nghĩ tới đây, Thừa Chí liền tỉnh ngộ và bảo thầm: "Có lẽ sau khi thất bại và tẩu thoát, Kim Xà Lang Quân mới cố công nghĩ ra những thế võ này, mục đích để đối phó với Ngũ Hành trận. Ông ta sáng chế ra những thế võ này tất nhiên là muốn tới Thạch Lương để báo thù. Nhưng tiếc thay, gân tay gân chân của ông đã đều bị cắt đứt rồi, không thể nào dùng sức được nữa. Ông ta ghi chép kỹ lưỡng như thế, nhưng lại làm thêm Bí kíp giả, và hộp sắt giả, và còn đặt thêm cơ quan cùng tên độc nữa. Sở dĩ ông ta làm như thế để đề phòng trường hợp phái Thạch Lương trộm cắp được cuốn Bí kíp này cũng nên. Do sự tình cờ mà ta học được những thế võ đó ngày nay mới có thể thoát nạn, và đồng thời cũng báo thù giải oán cho vị ân sư mà ta chưa hề gặp mặt bao giờ. Chắc ông ta ở dưới chín suối cũng được vui lòng hả dạ lắm. Như vậy, thật không uổng công ông ta đã tạo hết tâm trí trước khi lìa khỏi cõi trần."
Càng nghĩ, Thừa Chí càng hớn hở mừng thầm, mở mắt nhìn xung quanh, thấy các cây nến đang cháy chỉ còn độ một tấc nữa là hết. Năm anh em họ Ôn nhìn nét mặt chàng, thấy lúc lo sợ, lúc vui mừng, chẳng hiểu chàng định giở trò gì? Nhưng họ ỷ có Ngũ Hành, Bát Quái trận thần diệu vô cùng nên rất khinh thường, không coi Thừa Chí vào đâu cả. Họ chỉ trợn tròn mười con mắt, cẩn mật đề phòng sợ chàng thừa cơ tẩu thoát thôi.
Thừa Chí nhắm mắt định thần ôn lại các thế võ ghi trong "Kim Xà bí kíp" một lần nữa. Khi nghĩ tới thế "Khoái đao trảm loạn nia" (dao sắc chém gạt rồi). Chàng giựt mình toát mồ hôi lạnh miệng kêu thầm "Nguy to rồi!"
Chàng lại thầm nghĩ: "Mấy chục miếng võ sau đều nhờ vào bảo đao bảo kiếm khiến kẻ địch không dám đến gần, rồi thừa cơ loạn đả trận thể của họ. Nhưng hiện giờ Kim Xà kiếm không mang theo bên mình, vậy biết làm sao bây giờ?"
Thanh Thanh đứng một bên cứ chăm chú nhìn chàng. Lúc ấy, thấy chàng bỗng tỏ vẻ lo sợ, trên trán toát mồ hôi lạnh, nàng nghĩ thầm: "Chưa giao chiến mà chàng đã uể oải thế kia, thì làm sao hạ nổi cường địch cơ chớ"
Trông thấy các ngọn nến sắp tàn cả rồi, mà cách phá trận vẫn chưa nghĩ ra, chàng càng lo ngại. Lúc ấy một con A Hoàn bưng bát nước trà đến trước mặt chàng:
- Mời Viên tướng công dùng trà!
Đang ngẩn người và trong lúc xuất thần, Thừa Chí không nghĩ ngợi gì cả, thuận tay cầm bát nước trà đưa lên miệng định uống. Bát đã dính môi rồi chỉ nghe thấy "keng" một tiếng, tay chàng hơi run động và bát trà đó đã bị ám khí đánh rơi, vỡ làm muôn mảnh. Thừa Chí đưa mắt nhìn thấy Thanh Thanh vừa rút tay lại, biết ngay nàng vừa lao mũi tên đó, liền giựt mình nghĩ thầm: "Nguy hiểm thật! Sao ta lại hồ đồ đến thế? Không nghĩ tới bọn họ cho ta uống cái thứ thuốc mê gì gọi là Túy Tiên Mật ấy!"
Thấy mưu kế không thành, Ôn Minh Ngô tức quá, quát tháo mắng chửi liền:
- Thật là nòi nào giống nấy có khác! Tổ tiên nhà họ Ôn ta không tích đức nên mới sanh ra những đứa khốn nạn phản thần như thế?
Thanh Thanh không chịu lép vế, trả đũa ngay:
- Chỉ vì tổ tiên nhà họ Ôn tích đức nhiều quá, nào là tu kiều chỉnh lộ, nào là cứu giúp người nghèo, bất cứ việc thiện gì cũng làm cả!
Mấy câu đó châm biếm anh em họ Ôn chỉ chuyên môn làm những điều bạc ác bất nhân. Ôn Minh Ngô giận quá, nhảy lên định đánh, Minh Đạt vội cản lại:
- Chú Năm nên bình tĩnh một chút và cẩn thận trông coi thằng nhỏ.
Lúc này, vẻ mặt Thừa Chí bỗng tươi tỉnh vui vẻ hẳn, thì ra hành động của Thanh Thanh vừa rồi khiến chàng sực nghĩ tới việc sử dụng ám khí. Chàng nghĩ thầm: "Sao ta không dùng ám khí? Tài ném ám khí của ta còn giỏi hơn Kim Xà Lang Quân. Hơn nữa trong người ta còn có chiếc áo cánh của Mộc Tang đạo trưởng tặng. Đến lúc khẩn yếu, ta cứ việc giơ lưng ra chịu và đòn rồi thừa cơ đánh phá địch trận."
Không chờ tới lúc các ngọn nến cháy hết, chàng đã đứng dậy nói:
- Xong rồi! Xin quý vị chỉ giáo cho!
Minh Đạt sai người đốt lên những cây nến mới.
Thừa Chí lại nói:
- Lần này, sau khi đã phân thắng bại rồi thì sao?
Minh Đạt nói:
- Mi thắng cứ việc đem số vàng đó đi. Nếu mi thua, khỏi phải nói chuyện nữa!
Chàng biết nếu bại trận sẽ mất toi mạng, nhưng nếu thắng, chàng lại sợ họ tráo trở không chịu thú nhận là bại liền nói:
- Nếu vậy, quý vị hãy đem cả số vàng ra đây, nếu thắng, tôi xin phép đem đi liền.
Thấy sắp chết đến nơi mà chàng còn làm cứng, năm anh em họ Ôn đều nghĩ thầm: "Tài như Kim Xà Lang Quân mà còn bị toi mạng trong trận Ngũ Hành của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta đã trải qua mười mấy năm nghiên cứu kỹ lưỡng và còn sáng tạo thêm Bát Quái trận bao vây bên ngoài thì mi tẩu thoát làm sao nổi?
Thế trận này dù có đối phó với ba bốn chục hảo thủ hãy còn dư sức. Có thể nói đó là Trấn Sơn chi bảo của phái Thạch Lương, nhưng ít khi họ đem ra sử dụng vì sợ người ta đồ thám trộm được sự thực hư của nó. Lần này, vì võ nghệ của Thừa Chí quá mạnh, những nhân vật từng nổi tiếng khắp giang hồ như năm anh em họ Ôn mà chỉ đấu được vài hiệp là người nào người nấy đều bị chàng đánh bại cả nên năm anh em bàn tán mãi đành phải đem thế trận riêng biệt của họ Ôn ra, dù sau này giới giang hồ có chê họ Cậy nhiều thắng ít, thị lớn bắt nạt bé, họ cũng bất chấp. Ôn Minh Đạt liền bảo Thanh Thanh đem số vàng đó cho chàng trước đó phải là hơn không?"
Nghĩ đoạn, nàng vào nhà trong bưng gói vàng ra, để trên mặt bàn. Minh Sơn nói:
- Không cần phải đóng cọc làm trang nữa. Chính! Con lấy những thoi vàng ra dựng ngược lên bày theo trận đồ đi!
Ôn Chính vâng lời, lấy vàng thoi dựng ngược lên trên mặt đất, ở giữa quây thành Thái Cực đồ, bên ngoài bày thành hình Bát Quái. Năm anh em họ Ôn đồng thanh nói:
- Lên đi!
Cả năm người đều cầm khí giới

trong tay. Mỗi người nhảy lên đứng trên một thoi vàng.
Thừa Chí đang định nhảy vào ứng chiến bỗng trên nóc nhà có tiếng người cười ha hả và nói:
- Các ông già họ Ôn kia! Ta Vinh Thái đến tận cửa xin chịu lỗi đây!
Năm anh em họ Ôn đều sợ hãi, rồi lên tiếng gọi:
- Xin mời xuống đây!
Lúc ấy trên nóc nhà thấy lố nhố độ mười mấy người, cao có lùn có. Họ bảo nhau nhảy cả xuống. Người dẫn đầu là Vinh Thái, Bang chủ bang Long Du. Thừa Chí đưa mắt nhìn Thanh Thanh thấy nàng tuy muốn giữ vẻ điềm tĩnh nhưng thần sắc của nàng chứng tỏ sự băn khoăn lo ngại.
Minh Đạt nói:
- Lão Vinh! Nửa đêm canh ba bạn giáng lâm nơi tệ xá chẳng hay có việc gì muốn chỉ giáo thế? Ô kìa! Cả Lã Nhị tiên sinh phái Phương Nam cũng tới nữa!
Vừa nói y vừa chắp tay vái chào người nho sĩ đứng đàng sau Vinh Thái. Vinh Thái nói:
- Ông già họ Ôn tốt phước quá! Có cô cháu võ nghệ cao cường mưu kế lại giỏi dang, không những đã giết chết Sa lão đại lại còn đánh bại mười mấy đứa đàn em.
Ngay như lão đây cũng phải chịu kém cô ta nốt.
Anh em họ Ôn không hay biết gì về chuyện xích mích đã xảy ra giữa Thanh Thanh với bang Long Du. Từ trước tới giờ, hai phái vẫn giao hảo thân thiện với nhau.
Nay đứng trước mặt cường địch, anh em họ Ôn không muốn sanh sự lôi thôi thêm.
Minh Đạt liền nói:
- Lão Vinh! Nếu cháu gái tôi làm điều gì không nên không phải, chúng tôi quyết không bênh vực. Cháu nó giết người thì phải thường mạng, còn nợ nần thì trả tiền, như thế lão đã bằng lòng chưa?
Vinh Thái ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Lão già này vốn tánh xưa nay rất kiêu ngạo, sao hôm nay lại ăn nói dịu dàng đến thế? Hay là y sợ Lã Nhị Tiên sinh quá mà nên chăng?"
Y đưa mắt nhìn khắp nơi trong Võ Sảnh bỗng trông thấy đứng ở đó, y ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Không ngờ, họ đã có một tay sừng sỏ tới đây giúp đỡ, vậy chưa chắc Lã Nhị Tiên sinh đã thắng nổi. Chi bằng, nhân lúc họ nể sợ, ta hãy tạm ngừng tay xem sao đã!"
Nghĩ xong, y nói:
- Bang Long Du chúng tôi cùng với quý phái xưa nay đôi bên vẫn giao hảo với nhau. Nay chúng tôi nể mặt các quý vị lão gia, nên không nói tới cái chết của Sa lão đại nữa. Chúng tôi chả dám oán trách bởi tài nghệ của y kém cỏi nên mới bị thiệt thòi đến thân thôi! Nhưng còn số vàng này...
Nói tới đây, y đưa mắt nhìn các thoi vàng bày la liệt dưới đất, rồi nói tiếp:
- Chúng tôi theo dõi số vàng này từ lâu rồi đã đi theo mấy trăm dặm đường, tốn rất nhiều tâm huyết, và còn có người mất mạng vì nó nữa. Chúng ta cùng ở trên giang hồ kiếm ăn...
Thấy Vinh Thái nói tới đây không nói tiếp nữa, Minh Đạt biết ngay họ tới đây vì tiền tài chớ không phải vù thù hằn chi nên nói:
- Đó, số vàng còn cả đây! Vinh lão huynh muốn lấy thì cứ việc đem cả đi!
Bỗng thấy Nhứt Tổ nói một cách khí khái như vậy, Vinh Thái lại tưởng lầm rằng Minh Đạt muốn nói bông đùa để diễu cợt cho nhưng xem kỹ sắc mặt thì Minh Đạt không có một ác ý gì cả. Vinh Thái liền hỏi:
- Nếu Ôn đại gia vui lòng ban cho đệ phân nửa số vàng để chữa chạy cho mấy anh em bị thương và làm tiền tử tuất cho mấy chú em bị thiệt mạng thì anh em chúng cũng cảm ơn vô cùng rồi...
Ôn Minh Sơn nói:
- Mời lão huynh cứ tự tiện lấy đem đi!
Vinh Thái chắp tay vái lạy rồi nói:
- Như vậy chúng tôi xin cảm ơn vô cùng.
Nói xong, y ra hiệu cho hai tên đại hán đứng sau cúi xuống nhặt những thoi vàng.
Hai tên đó tay vừa mó tới thoi vàng, bỗng có người khẽ đẩy vai một cái, cảm thấy một sức mạnh đẩy lùi lại. Rồi cả hai cùng bị bắn ra phía sau mấy bước. Chúng ngẩng đầu lên đã thấy Thừa Chí đứng sững trước mặt.
Thừa Chí nói:
- Vinh lão gia! Số vàng này là lương bổng của quân đội Sấm Vương. Lão gia lấy đi không được đâu
Danh tiếng của Sấm Vương chỉ trấn át nổi Võ lâm miền Bắc thôi chớ anh em giang hồ ở vùng Giang Nam chưa từng biết tiếng mấy. Vinh Thái quay lại vừa cười vừa nói với Lã Nhị:
- Y đem tiếng tăm của Sấm Vương ra dọa nạt chúng ta đấy!
Lã Nhị tiên sinh tay cầm ống điếu đồng, hít mạnh một hơi thuốc, ung dung thở khói ra, rồi thong thả đưa mắt lên ngắm nhìn Thừa Chí. Thấy vẻ kiêu ngạo và ra cái điều đây người già cả của Lã Nhị, Thừa Chí đã nổi giận rồi. Nhưng thấy Lã Nhị đôi mắt có thần và sắc mặt hồng hào, Thừa Chí đoán y cũng là một hảo thủ tên tuổi ở Võ lâm nên chàng không dám khinh thường, liền cúi chào và nói:
- Tiền bối có phải họ Lã không? Hãy tha thứ cho tiểu bối, vì mới tới Giang Nam nên chưa được biết quý đại danh!
Lã Nhị không thèm trả lời, phun hơi khói vào mặt chàng. Y lại hút thêm một hơi thuốc, nhưng lần này y dùng mũi phun khói vào mặt chàng phen nữa. Thấy Thừa Chí chưa tỏ vẻ gì, Thanh Thanh không nhịn được định lên tiếng nhưng Ôn Nghi đã nắm cánh tay nàng bóp khẽ một cái. Quay đầu lại, thấy mẹ lắc đầu ra hiệu, Thanh Thanh đành chịu làm thinh. Lã Nhị gõ đầu ống điếu xuống mặt gạch để đổ tàn thuốc ra. Tiếng kêu "tốc tốc" một hồi. Đổ hết tàn ra, y lại nhồi thuốc vào điếu. Lúc ấy, chính anh em họ Ôn cũng không thể nhịn được, nhưng họ nể Lã Nhị đã lừng danh khắp chốn giang hồ mấy chục năm trời nay. Nghe nói năm xưa, y chỉ cậy có thế võ "Hạc Hình quyền" mà khắp Giang Nam và Giang Bắc không ai địch nổi. Vả lại ống điếu đồng của y là món khí giới lạ, có thể điểm huyệt, hoặc đoạt được võ khí của địch. Nhưng sự thật, tài nghệ của y giỏi tới mức nào, chưa ai được trông thấy.
Bởi thế, anh em họ Ôn chỉ mong y giao chiến với Thừa Chí. Nếu y chiến thắng thì càng hay, bằng không, ít ra cũng có thể làm giảm mất phần nào hơi sức của Thừa Chí.
Trong khi Lã Nhị lấy đá lửa và bật ra đánh lửa để châm thuốc hút, thì bỗng trên đỉnh nóc nhà có tiếng người thét lên rằng:
- Mau trả lại số vàng cho chúng ta!
Rồi một thiếu nữ và một thiếu niên tráng kiện nhảy xuống, theo sau hai người ấy còn có một người trạc độ năm mươi tuổi, ăn mặc như một nhà buôn, tay trái cầm bàn toán, tay phải cầm cây bút, trông rất ngộ nghĩnh.
Thấy thiếu nữ đó là Tiểu Tuệ, Thừa Chí vừa mừng vừa lo. Chàng mừng vì có người tới giúp đỡ. Nhưng còn hai người kia võ nghệ ra sao, chàng không rõ? Bây giờ, kẻ địch ngoài phái Thạch Lương lại còn thêm bọn Long Du và Lã Nhị tiên sinh. Hơn nữa, mẹ con Thanh Thanh đang ở trong hoàn cảnh rất nguy hiểm, thế nào cũng phải cứu họ tẩu thoát khỏi nơi này mới được. Nếu hai người mới tới kia võ nghệ chỉ ngang với Tiểu Tuệ thôi thì mình còn phải mất công bảo vệ họ, như vậy có phải nguy tai không? Lúc bấy giờ, trong đệ tử của anh em họ Ôn đã có người chạy ra ngăn cản và quát hỏi mấy người kia. Người thiếu niên nọ lớn tiếng nói:
- Mau trả lại số vàng kia cho chúng ta!
Thấy vàng để lăn lóc dưới đất, y nói xong cúi xuống nhặt liền. Thừa Chí cau mày nghĩ thầm: "Người này lỗ mãng như thế, không thể nào làm nổi việc lớn."
Ôn Nam Dương thấy thiếu niên nọ đang cắm cúi nhặt vàng, liền phi chân nhắm cánh tay hắn mà đá. Tiểu Tuệ vội gọi:
- Thôi sư huynh hãy đề phòng!
Tuy tánh nết thô lỗ nhưng võ nghệ của y cũng khá. Nghe thấy Tiểu Tuệ gọi, y né mình tránh cái đá ấy rồi thuận chân sấn lại gần Nam Dương, dùng song chưởng bổ xuống luôn. Không kịp lùi để tránh, Nam Dương phải giơ song chưởng đỡ. Tứ chưởngvừa va chạm, cả hai đều lùi lại vài bước. Thiếu niên nọ định tiến lên nhưng người ăn mặc lối nhà buôn vội gọi ngay:
- Hãy khoan Hy Mẫn!
Thừa Chí sực nhớ đến bữa nọ Tiểu Tuệ có nói rằng: "Nàng cùng một người họ Thôi đi hộ tống số vàng. Vì có sự xích mích, nên hai người cãi lộn, rồi giữa đường chia tay. Bởi vậy số vàng mới bị Thanh Thanh xuất kỳ bất ý cướp mất. Như vậy, người thiếu niên này tất là cháu của Thôi Thu Sơn tức là Ngọc Diện Kim Cương Thôi Hy Mẫn không sai rồi. Còn người thương gia này có lẽ là Đại sư huynh của mình tên là Đồng Bút Thiết Toán Bàn Hoàng Chân chắc?"
Chàng nhìn kỹ lại, thấy tay phải người thương gia ấy cầm cái bút lập lòe chói lọi, quả nhiên lúc đó bằng đồng rồi. Mừng quá, chàng nhảy tới trước mặt người nọ, quỳ xuống lạy và nói:
- Tiểu đệ Viên Thừa Chí xin kính chào đại sư huynh.
Hoàng Chân vội đỡ chàng dậy, ngắm nhìn giây phút, rồi hớn hở nói:
- sư đệ, không ngờ chú còn trẻ tuổi thế này! May mắn làm sao anh em mình lại gặp gỡ nhau ở nơi đây!
Tiểu Tuệ tới gần nói:
- Thừa Chí đại ca! Em xin giới thiệu Thôi sư huynh của em.
Thừa Chí gật đầu chào Thôi Hy Mẫn. Thấy trên lưng Thừa Chí có ít cỏ khô, Tiểu Tuệ khẽ phủi đi cho chàng. Thừa Chí mỉm cười tỏ vẻ cám ơn. Thấy vậy, Hy Mẫn cau mày ngụ ý không bằng lòng. Hoàng Chân trông thấy mắng liền:
- Hy Mẫn, sao con vô lễ đến thế? Có mau mau quỳ xuống lạy sư thúc đi không?
Nhận thấy Thừa Chí còn kém mình mấy tuổi, Hy Mẫn trong lòng không phục, liền từ từ đi tới, làm điệu sắp quỳ. Thừa Chí vội cản lại:
- Tôi không dám!
Chàng giơ hai tay ra đỡ, Hy Mẫn liền đứng dậy ngay. Y chỉ gật đầu chào một cái rồi nói:
- Tiểu sư thúc!
Hoàng Chân mắng ngay:
- Cái gì là tiểu sư thúc, đại sư thúc? Dù tuổi mày lớn hơn chú ấy thật, nhưng chú ấy vẫn là bề trên của mầy!
Thừa Chí vừa cười vừa hỏi Hy Mẫn:
- Chú anh có mạnh không? Đã lâu tôi không nhận được tin của ông ấy, tôi nhớ lắm.
- Cám ơn sư thúc. Chú tôi nhờ trời vẫn được mạnh khỏe.
Lã Nhị tiên sinh thấy họ chào hỏi nhau sư huynh, sư đệ, sư thúc, sư điệt tíu tít cả lên, chẳng coi ai ra gì, nên không nén nổi tức giận, liền xách ngược, ngẩng đầu nhìn lên trên trần nhà, rồi hỏi:
- Hai người mới tới là những tên nào?
Y vừa lên tiếng, ai nấy đều giựt mình thất kinh. Vì tiếng nói của y giống hệt tiếng chim cú kêu nghe rất ghê tai, và còn pha thêm giọng khàn khàn như thanh la bể, nên không ai nghe thấy y nói gì cả. Bước lên một bước, Hy Mẫn nói:
- Số vàng này của chúng ta đã bị các người lấy trộm mà. Hiện giờ thầy trò tay đến đây lấy lại số vàng này!
Lã Nhị tiên sinh vẫn nhìn ngược lên trần nhà, miệng phun khói thuốc, đột nhiên "khà, khà" cười nhạt hai tiếng.
Thấy y cứ giở mãi cái điệu già cả, tỏ vẻ khinh thường hết thảy mọi người, Hy Mẫn nổi xung, hất hàm hỏi:
- Chẳng hay đây người có chịu trả lại số vàng này không? Ông cứ việc nói thẳng ra đi! Nếu ông không có quyền giải quyết vấn đề này thì mời người nào có thể chủ chốt hãy ra đây nói chuyện.
Lã Nhị tiên sinh lại cười gằn hai tiếng, rồi quay lại nói với Vinh Thái:
- Anh nói lại cho tụi nhãi con này biết, tôi là hạng người thế nào!
Vinh Thái quát lớn:
- Vị này là Lã Nhị tiên sinh tiếng tăm lừng lẫy xưa nay. Các ngươi chớ có run sợ thất kính vội, hãy cho ta biết: Tại sao tuổi trẻ như thế lại dám vô lễ với bực tiền bối như vậy?
Thật tình Hy Mẫn không biết Lã Nhị tiên sinh là ai, chàng cũng lớn tiếng trả lời:
- Mặc các ngươi là cái gì tiên sinh, ta không cần biết! Ta chỉ biết đến đây lấy lại số vàng thôi!
Ôn Nam Dương vừa giao chiến với chàng chưa phân thắng bại, đang nóng lòng sốt ruột, liền nhảy ra trả lời:
- Lấy lại số vàng, có phải là chuyện dễ đâu? Ngươi có tài, hãy thắng nổi ta đã rồi mới được nói tới chuyện những thoi vàng này!
Vừa nói xong, y không chờ đối phương trả lời, đã nhảy xổ lại đấm luôn một quyền. Không kịp đề phòng, bị một đấm vào vai, Hy Mẫn nổi giận, múa ta trái nhanh như gió, trả đũa luôn một quyền vào bụng Ôn Nam Dương nghe đánh "bục" một tiếng.
Hai người cùng bị đau đều nhảy lùi lại, trợn mắt nhìn nhau.
Rồi lại cùng xông vào đánh luôn. Cả hai đều tấn công rất mạnh và phòng hờ lại rất sơ hở nên chưa đầy một hiệp, đánh đấm "bình bình, bộp bộp" làm điếc tai mọi người. Cả hai cùng bị đánh trúng đầu, vai ngực bụng đến mấy chục lần.
Thừa Chí thở dài và nghĩ thầm: "Tại sao sư huynh ta lại dạy thứ đồ đệ bất tài thế kia? Nếu gặp phải một hảo thủ, y chịu sao nổi một hai quyền của người ta? Tại sao Thôi thúc thúc không chỉ dẫn cho y một vài miếng?"
Thì ra Hy Mẫn tuy rất chính trực nhưng tánh lại nóng nảy. Lúc học võ, y rất lười biếng. Đã gia nhập môn trong bao lâu y vẫn chưa học được nổi một phần tài nghệ của Hoàng Chân. Nhờ được thân hình vạm vỡ và có đôi chút sức khỏe, y có thể chịu đựng nổi một vài đòn.
Trong lúc hỗn chiến, y dùng tay phải đấm hở một cái, Ôn Nam Dương tránh sang bên phải, y giơ tay trái đón sẵn, đấm luôn một quyền cước, trúng ngay cằm của NamDương nghe đánh "bộp" một cái. Cả một thân hình to lớn như trái núi nhỏ của Nam Dương ngã lăn xuống đất rồi chết giấc liền. Tỏ vẻ khoái trí, Hy Mẫn đưa mắt nhìn sư phụ, tin tưởng thế nào cũng được ban khen. Ngờ đâu, thấy sư phụ có vẻ giận dữ, chàng không hiểu tại sao? Chàng nghĩ thầm: "Ta đã đánh thắng, sư phục không khen thì chớ, trái lại còn tỏ vẻ trách mắng ta như vậy?"
Thấy môi và mồm chàng bị đánh sưng lên, tai bên phải máu tươi nhỏ giọt xuống. Tiểu Tuệ lấy khăn tay khẽ lau chùi cho chàng và nói nhỏ:
- Tại sao anh không tránh những miếng đấm của y mà cứ đánh loạn xạ như thế làm gì?
- Tránh cái gì? Nếu tránh, tôi đánh trúng y sao được?
Lã Nhị tiên sinh lại lên tiếng quái dị nói:
- Ngươi tưởng đánh ngã một người như thế đã tự cho là đắc chí lắm sao? Ngươi có muốn lấy lại số vàng không?
Vừa nói dứt lời, y nhảy lên đứng trên hai thoi vàng. Tay phải giơ cái điếu cày điểm một thoi vàng khác nói:
- Tha hồ ngươi dùng đấm hay đá, quý hồ lấy được ba thoi vàng này ra, ta sẽ trả tất cả số vàng ở đây cho ngươi.
Ai nấy nghe thấy Lã Nhị tiên sinh nói vậy đều cho y tự phụ và ngông cuồng quá.
Dù võ nghệ của Hy Mẫn có kém y đi nữa nhưng y chỉ dùng điếu cày điểm thoi vàng như vậy, mà dám coi thường Hy Mẫn không lấy ra được! Thôi Hy Mẫn nổi giận: "Quân tử nhất ngôn" ngươi không được hối hận và nuốt lời nhé?
Lã Nhị tiên sinh ngẩng mặt lên trời cả cười, rồi nói với Vinh Thái:
- Anh nghe thấy chưa? Nó sợ tôi hối hận đấy!
Vinh Thái đành phải gượng gạo cười theo. Hy Mẫn lại nói:
- Hay lắm! Coi tài của ta!
Tiến lên ba bước ngắm đúng thoi vàng nằm dưới điếu cày, chàng vận sức bên chân phải, dùng miếng "Tảo Đường cước" đá tạt ngang một cái.
Thừa Chí đứng cạnh trông thấy rõ ràng, ước lượng cái đá đó ít ra có hai ba trăm cân hơi sức, công lực của Lã Nhị tiên sinh có giỏi hơn Hy Mẫn thật nhưng cũng không thể nào dùng đầu cái điếu cày để giữ nổi thoi vàng kia, trừ phi y có pháp thuật quái dị thì khó nói.
Chân của Hy Mẫn sắp đụng tới điếu cày và thoi vàng. Lã Nhị bỗng hất cái điếu cày lên, điểm vào huyệt đầu gối của chàng. Cả cái chân của Hy Mẫn bị tê liệt tức thì, đầu gối bên phải khịu xuống và quỳ ngay tại chỗ. Lã Nhị chắp tay vái lia lịa, cả cười một hồi rồi nói:
- Tôi không dám.
Sợ hãi quá, Tiểu Tuệ vội chạy tới đỡ Hy Mẫn dậy, đến trước mặt Hoàng Chân rồi nói:
- Hoàng sư bá, y gian trá, sư bá dạy ngay cho y một bài học.
Hy Mẫn lớn tiếng chửi rủa:
- Ngươi giở thủ đoạn đê hèn như vậy, còn tự xưng là anh hùng hảo hán cái thế gì?
Hoàng Chân chì tay xoa bóp lưng Hy Mẫn đoạn dùng ngón tay đâm vào đùi chàng ta một cái, giải ngay chỗ huyệt bị bế tắc rồi khẽ nói:
- Sau này mầy có lỗ mãng như thế nữa không?
Hoàng Chân thấy Lã Nhị điểm huyệt nhanh nhẹn như vậy cũng phải kinh ngạc thầm và nghĩ rằng: "Tại sao nơi hẻo lánh này lại có tay đả huyệt lợi đến thế?"
Khí giới bên tay trái của Hoàng Chân là cái bàn toán. Còn bên tay phải của chàng là cái bút đồng. Tất nhiên chàng cũng là một danh thủ đả huyệt. Giơ bàn tính lên, lấy tay gạt một cái, chàng nói:
- Món nợ này ta đã ghi vào sổ rồi.
Giơ thẳng bút đồng, chàng định bước lên lấy lại sĩ diện cho đệ tử. Thừa Chí nghĩ thầm: "Sư huynh là đại đệ tử phái Hoa Sơn, ta là sư đệ nên xuất trận trước mới phải lẽ!"
Nghĩ đoạn, chàng lên tiếng ngay:
- Đại sư huynh cho phép tiểu đệ lên trước. Nếu tiểu đệ thất bại lúc đó sư huynh hãy tiếp tay.
Thấy chàng còn ít tuổi quá, Hoàng Chân nghĩ thầm: "Dù sư phụ có truyền hết võ nghệ cho y, nhưng vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Chỉ sợ địch không nổi Lã Nhị lỡ y có gì suy xuyển, có phải là đau lòng sư phụ không?"
Còn Hoàng Chân sở dĩ để cho Hy Mẫn đánh trận đầu là vì chàng biết tên đồ đệ ấy lỗ mãng tự đại quá, cần phải cho y chịu chút đau khổ, mới giảm bớt được tánh nết kiêu ngạo của y. Như vậy, sau này y mới biết thân mà khiêm tốn học hỏi. Nghĩ xong, chàng khẽ bảo Thừa Chí:
- Sư đệ, để anh đối phó cho!
Thừa Chí cũng hạ thấp giọng trả lời:
- Đại sư huynh, bên họ còn nhiều hảo thủ và còn có trận Ngũ Hành rất lợi hại. Lát nữa, còn một phen ác chiến, anh là chủ trương của chúng tôi, anh không nên ra trận vội!
Tuy thấy Thừa Chí cố chấp đòi đánh trước nhưng Hoàng Chân nhận biết chàng ta muốn tôn trọng mình liền nói:
- Nếu vậy, sư đệ nên cẩn thận một chút nhé!
Thừa Chí gật đầu, tiến một bước nói với Lã Nhị rằng:
- Chẳng hay ông có bằng lòng cho tôi đá thử một cái không?
Lã Nhị, phái Thạch Lương và bang Long Du tất cả mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ thầm: "Vừa rồi tên thiếu niên vạm vỡ hùng dũng thế kia còn bị thiệt thòi đau khổ! Tại sao y còn không biết sống chết, dám xin thử thách như vậy!"
Thấy chàng còn trẻ hơn Hy Mẫn, Lã Nhị càng coi thường, vừa cười vừa nói:
- Cũng được! Nhưng ta cần phải dặn trước, nếu cậu cũng tái diễn cái trò quỳ lạy, tôi không dám nhận đâu nhé?
Vừa nói, y vừa gác điếu cày lên trên thoi vàng. Thừa Chí cũng bắt chước Hy Mẫn, tiến lên ba bước, giơ chân phải, phạt ngang một cái. Đứng cạnh trông, thấy chàng sắp bị như mình, Hy Mẫn lo quá kêu lên:
- Tiểu sư thúc, đừng đá như thế, nó sẽ điểm huyệt đấy!
Năm anh em họ Ôn đã giao chiến với Thừa Chí, biết chàng tuy tuổi còn trẻ nhưng võ nghệ cao siêu khôn lường. Bây giờ thấy chàng lại sa vào hố của Hy Mẫn, cả năm anh em đều lấy làm lạ. Họ nghĩ thầm: "Chẳng lẽ chàng biết tự bế huyệt đạo, không sợ người ta điểm huyệt nữa chăng? Như vậy thật buồn cười quá, không ai có thể tin được."

Muốn biết câu chuyện hồi sau như thế nào, mời xem tiếp hồi sau : Vuốt từ cạnh phải để mở [Menu], chọn [Hồi sau]

Hồi 9

Mọi người đều chăm chú nhìn vào đùi Thừa Chí, Hoàng Chân đổi tay trái cầm bàn tính chỉ chờ đợi Lã Nhị điểm ngã sư đệ là lập tức ra tay trợ cứu và tấn công kẻ địch liền. Thấy chân Thừa Chí sắp đá tới, Lã Nhị tiên sinh chìa điếu cày ra, nhanh như chớp nhoáng, điểm thẳng vào đùi kẻ địch. Ngờ đâu, cái đá đó là cái đá hờ, thấy vai Lã Nhị vừa cử động, Thừa Chí đã rút ngay chân lại. Lã Nhị tiên sinh điểm hụt, liền đưa luôn cái túi đựng thuốc đeo trên ống điếu, định điểm vào chỗ huyệt khác của kẻ địch. Chân phải của Thừa Chí quay nửa vòng nhỏ, vừa vặn tránh khỏi cái túi thuốc và tiện thể khẽ khều một cái, thoi vàng bị hất tung ra ngoài. Chân chàng vẫn chưa ngừng, tiếp tục quét ngang cái nữa. Lã Nhị tiên sinh cũng rất lợi hại, hất luôn túi thuốc đánh mạnh vào sau lưng chàng. Vội cúi mình cong lưng, Thừa Chí tựa như cái tên bắn chếch sang bên phải, tay trái vỗ thoi vàng mà chàng vừa hất tung lên, cho bay tréo sang bên phải. Đồng thời chàng dùng chân trái đá hai thỏi vàng dưới chân Lã Nhị, cả hai thoi vàng đều tung lên cao cùng một lúc, chỉ thấy chàng giơ tay phải ba lần, cả ba thoi vàng cùng rơi cả vào trong tay áo. Rồi chàng ung dung đứng yên, hỏi bâng quơ:
- Thế là tất cả các thoi vàng ở đây thuộc về tôi hết đấy nhé? Chẳng hay lời nói của Lã lão tiền bối có đủ thẩm quyền hay không?
Mấy cử động vừa rồi của Thừa Chí nhanh nhẹn quá, mọi người chỉ thấy hoa mắt rối rít. Chờ tới lúc hai người chia rẽ sang hai bên thì Thừa Chí đã hứng trọn ba thoi vàng vào trong tay áo rồi. Hết thảy mọi người, cả phái Thạch Lương lẫn bang Long Du đều phải khen ngợi chàng. Mặt đỏ bừng như son, không nói năng nửa lời, Lã Nhị giơ bàn tay trái bổ luôn vào đầu Thừa Chí. Đồng thời chân phải y quay nửa vòng dùng gót chân đá hậu và đạp luôn vào cổ chân của đối phương.
Đây là miếng quái chiêu trong thế võ Hạc Hình quyền. Hai bàn tay tượng trưng đôi cánh hạc dùng để bổ và đập đối phương. Còn hai chân một thẳng một co lại, bỗng dài bỗng ngắn, tựa như bạch hạch lúc tranh đấu đá và đạp vậy. Chưa từng thấy qua miếng quái quyền đó, Thừa Chí không dám tới gần, chỉ lượn quanh bên ngoài Lã Nhị thôi. Chàng càng chạy càng nhanh. Thấy không dám tới gần, Lã Nhị tưởng chàng chỉ nhanh nhẹn thôi, chớ võ nghệ rất kém.
Y liền tỏ vẻ khinh địch, cười ha hả, ngậm điếu cày hút một hơi thuốc, rồi thở khói trắng ra. Chạy quanh mấy vòng, Thừa Chí đã hơi hiểu biết đường lối chưởng pháp của y ra sao rồi. Thấy y hút thuốc thở khói tỏ vẻ kiêu ngạo, rất hợp ý mình. Thừa Chí bỗng nhảy vọt lên giơ quyền nhằm sống mũi Lã Nhị đấm luôn. Giựt mình kinh hãi, Lã Nhị không ngờ chàng lại táo gan đến thế! Y sấn lại, giơ điếu cày ra đỡ, Thừa Chí đổi quyền ra chưởng, bắt lấy điếu cày, rồi dùng hai tay giựt mạnh, Lã Nhị cũng dùng sức kéo trở lại. Đoán trước y sẽ phải hành động như vậy, Thừa Chí nhân lúc y đang mải miết kéo, để hở mạng mỡ bên phải, liền đâm ngón tay vào huyệt Thiên Phủ của y, Lã Nhị cảm thấy nửa người bên phải như tê liệt hẳn, đành phải buông rơi chiếc điếu cày.
Thừa Chí liếc mắt thấy Thanh Thanh đang hân hoan nhìn mình tỏ vẻ mừng rỡ, liền nghĩ thầm: "Đã vậy, ta làm cách này cho nàng càng thấy thích thú hơn nữa!"
Nghĩ đoạn, chàng quay điếu cày lại, dí luôn chỗ thuốc đang cháy vào râu Lã Nhị. Vì Lã Nhị vừa hút thêm một hơi nên chỗ tàn thuốc vẫn còn đỏ bỏng. Chàng vừa dí vào là râu kẻ địch đã cháy xèo xèo ngay, khói xanh bốc lên khét lèn lẹt. Hoàng Chân lên tiếng gọi:
- Sư đệ chớ nên đùa giỡn như thế!
Thừa Chí để miệng vào đầu điếu cày, thổi mạnh một cái thế là tàn thuốc, sợi thuốc như sao lửa bay ra, dính vào đầy mặt Lã Nhị. Hoàng Chân vừa tức vừa buồn cười, nhảy lại giải huyệt cho Lã Nhị tiên sinh và tiện tay giật lấy ống điếu nhét trả vào tay Lã Nhị. Đang đứng ngẩn người, Lã Nhị thấy mọi người đều nhịn cười nhìn thẳng vào mặt mình, liền vứt ngay ống điếu xuống đất, quay mình bỏ chạy.
Vinh Thái đuổi theo, kéo tay áo y lại bị y hất mạnh một cái, loạng choạng suýt ngã. Chỉ trong chớp mắt, Lã Nhị đã chạy mất dạng. Các người trong phái Thạch Lương đã được thấy qua tài nghệ của Thừa Chí, nên không đến nổi ngạc nhiên lắm. Riêng có bọn của bang Long Du xưa nay vẫn phục Lã Nhị tiên sinh như vị thiên thần, bây giờ bỗng thấy một thằng nhỏ tuổi như vậy, chỉ dùng có một hai miếng võ đã đánh ông ta bỏ chạy tơi bời. Vì vậy, cả bọn của bang Long Du đều sợ đến toát mồ hôi lạnh. Tất cả mọi người có mặt tái đây đều ngạc nhiên, nhứt là Hoàng Chân lại ngạc nhiên hơn ai hết. Chàng thấy Thừa Chí "Nhứt Chỉ Thiền" món tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn để điểm huyệt Lã Nhị thì không lấy gì làm lạ, riêng có thế võ chạy vòng quanh và giơ tay áo đón tiếp các thỏi vàng thì khác hẳn những thế võ mà trước kia chàng đã luyện tập, vậy những thế võ đó chắc không phải của phái Hoa Sơn!
Còn Thôi Hy Mẫn thì quả thật chưa trông thấy rõ Thừa Chí đã làm cách nào mà thắng kẻ địch, chỉ thấy hai người chạy loanh quanh mấy vòng, rồi thấy Lã Nhị bị thua bỏ chạy.
Thanh Thanh và Tiểu Tuệ không nhịn được cười, ôm bụng cười đến nỗi bò lăn ra đất. Dùng ngón tay gạt bàn tính một cái, Hoàng Chân nói:
- Vừa rồi ông già có tuyên bố lấy ra được ba thoi vàng dưới chân ông ta thì các ngài sẽ trả lại số vàng cho chúng tôi. Tôi xin thay mặt anh em chúng tôi cảm ơn quý vị.
Vừa nói, chàng vừa chắp tay vái chào xung quanh đủ một vòng, rồi quay lại bảo Hy Mẫn:
- Con lại nhặt những thỏi vàng đi!
Thôi Hy Mẫn vâng lời, cúi xuống định nhặt các thoi vàng, Vinh Thái trông thấy bao nhiêu thoi vàng đỏ ối sắp lọt vào tay người khác, tức không thể nhịn được liền tiến lên giơ cánh tay trái ra cản. Hy Mẫn bị đẩy lui mấy bước, tức giận quá, hét lên:
- Thế nào? Ông còn muốn thi thố tài nghệ nữa chăng?
Thấy thân pháp của Vinh Thái già dặn, Hoàng Chân biết đồ đệ mình địch không nổi, liền hét lớn:
- Hy Mẫn con lui ra!
Chàng chắp tay, tươi cười nói:
- Cống hỷ phát tài! Bảo hiệu của ông chú là gì? Ông chú xưa nay buôn bán nghề gì?
Chúc quý tiệm sinh ý hưng long khắp bốn bể. Tài nguyên mậu thịnh tới ba sông!
Thì ra Hoàng Chân xuất thân là nhà buôn, tánh rất hoạt kê. Lúc sáp chiến, thể nào chàng cũng nói những câu trong nghề nhà buôn, nhưng rất hoạt kê tức cười.
Vinh Thái nổi giận, trả lời:
- Ai nói đùa với nhà ngươi? Ta đây họ Vinh tên Thái, đảm nhiệm Bang chủ bang Long Du, hiện chưa được lãnh giáo quý tánh đại danh là gì?
Hoàng Chân cười nói:
- Tiểu sinh họ Hoàng, thảo tự đơn danh một chữ Chân. Chân là chân thật, hàng thật, giá cả có một không hai, lấy nghĩa là thế! Những hàng đáng giá một lượng, bản hiệu không dám bán một lượng linh một phân. Bất cứ lão ấu, phụ nữa, bản hiệu đều không lừa dối. Chẳng hay ông chủ định tới chiếu cố loại hàng gì của bản hiệu thế?
Chưa nghe hết lời nói của chàng, Vinh Thái đã nổi giận quát tháo:
- Ai hơi đâu đùa giỡn với mi nếu đánh nhau thì ta đâu có sợ đưa vũ khí cho ta.
Anh em trong bang liền đưa ngay một cây thương lớn tới, Vinh Thái cầm lấy cây thương, rung rung một cái, thành một thương hoa lớn bằng cái bát, và đâm thẳng vào mặt Hoàng Chân liền. Lùi lại một bước, Hoàng Chân bỗng nhảy sang bên trái, ung dung nói rằng:
- Chao ôi! Chúng ta buôn bán cứ việc buôn bán, còn những số vàng này không thể nào không lấy!
Nói xong, chàng cất bàn tính, và bút đồng vào trong lòng, rồi cúi xuống nhặt những thoi vàng.
Biết rõ võ nghệ của Hoàng Chân cao siêu hơn Vinh Thái nhiều, lẽ tất nhiên Vinh Thái phải bị thua, Ôn Minh Nghĩa, Ôn Minh Ngô, hai người đồng thời xông lên, la lớn:
- Muốn lấy số vàng này không phải là dễ đâu!
Thấy hai anh em họ Ôn mạnh mẽ xông tới, Hoàng Chân ngồi xuống né mình về bên phải tay trái bổ xuống luôn. Minh Ngô và Minh Nghĩa vừa tiến lên, đi theo thế trận Ngũ Hành thấy tay của Hoàng Chân đánh tới, đều lùi ngay lại. Ôn Minh Đạt và Ôn Minh Sơn cùng tiến lên, Minh Sơn giơ tay ra cản thế công của Hoàng Chân, còn Ôn Minh Thi ở phía sau nhắm lưng chàng đánh luôn, chàng bỗng sàng sang bên cạnh, anh em họ Ôn, mới nhanh nhẹn bao vây chàng luôn bằng trận Ngũ Hành. lúc này Hoàng Chân chỉ thấy bên địch không phải chỉ có năm người mà hằng hà sa số những tay chân vũ khí nhắm chàng đánh tới, chàng vội nhanh nhẹn dùng bút và bàn tính múa lên kín mít để giữ thế thủ mà thôi, thấy miếng thì giở miếng, thấy đòn thì gạt đòn, chớ không thể nào tấn công như trước được nữa. Thấy Hoàng Chân bị bao vây, chỉ có cố gắng gạt đỡ chớ không sao đánh lại được, Vinh Thái mừng rỡ vô cùng, y tưởng là có cơ hội cho mình được hưởng lợi, liền giở ngay thương pháp của Dương Gia, đâm luôn vào sau lưng Hoàng Chân, Tiểu Tuệ thấy vậy sợ quá, lớn tiếng kêu lên:
- Hoàng sư bá cẩn thận!
Ngờ đâu, Hoàng Chân là đệ tử đầu tiên của phái Hoa Sơn, đã học hết võ công chân truyền của phái Hoa Sơn rồi, nếu anh em họ Ôn không có trận pháp kỳ lạ này, thì dù cho cả năm người cùng xông lên một lúc, cũng không thể địch nổi chàng.
Cây thương của Vinh Thái vừa đâm tới, Hoàng Chân vòng tay về phía sau vói một cái, nắm chặt lấy ngọn cây thương. Thủ pháp này là "tay không cướp khí giới" nhanh nhẹn và hiệu quả vô cùng.
Nhờ có kinh nghiệm luyện tập mấy chục năm, Hoàng Chân còn nhanh nhẹn và lợi hại hơn nhiều. Ông ta nắm được khí giới của đối phương, thừa thế dùng sức kéo mạnh một cái, lôi cả Vinh Thái đến gần, đồng thời giơ tay trái gạt quyền của Minh Sơn, bước chân phải lên nửa bước tránh cái đá của Minh Nghĩa. Cái đá đó trúng ngay Vinh Thái thế là cả người lẫn cây thương đều bay qua đầu sáu người ra ngoài rơi xuống đất. Nhưng sự thật lúc Vinh Thái bị Hoàng Chân lôi lại gần, mạng mỡ ông ta bị vai phải Hoàng Chân va mạnh một cái, đau tận xương tủy, ông ta chỉ kêu được một tiếng, đã lơ lửng bay ra phía ngoài rồi ngã lăn xuống đất, chớ không phải ông ta đã bị Minh Nghĩa đá trúng.
Bọn đàn em bang Long Du vội chạy lại đỡ ông ta dậy, phó Bang chủ Văn Hoa và nhị đệ tử Khấu Giáp Niên, đại đệ tử của Vinh Thái là Văn Hoa và Nhị đệ Tưởng Thông Tổ thấy Vinh Thái thất thủ đều xấu hổ vô cùng. Rồi cả ba đều xông vào đánh bừa đi, nhưng chưa được vài hiệp đã lần lượt bị Hoàng Chân đá tung ra ngoài. Văn Hoa còn bị gãy cánh tay phải mang vết thương rất nặng. Vì thế người của bang Long Du không còn ai dám nhảy vào chiến đấu nữa.
Hoàng Chân một mình đấu với năm anh em họ Ôn. Đánh tới lúc thật kịch liệt, chỉ thấy sáu cái bóng người bay đi lượn lại, hoa cả mắt. Có lúc Hoàng Chân đột nhiên xông ra khỏi vòng vây nhưng năm anh em họ Ôn như bóng với hình lập tức vây chặt lại, Hoàng Chân trong lòng lo ngại vô cùng. Còn năm anh em họ Ôn cũng ngạc nhiên quá, nghĩ thầm: "Không ngời tên già quê mùa cục mịch như vậy mà lối thủ lại kín đáo đến thế!"
Thấy họ càng đánh càng nhanh, năm người như bươm bướm, lượn quanh khóm hoa, Hoàng Chân có lúc thấy mọi người muốn đá mình, vừa nhảy sang bên để tránh, phía sau đã có người đấm một quyền tới rồi. Có khi vừa thấy một người giơ hai tay định ôm mình vật lộn, ông ta định lùi lại để tránh, sau lưng đã có một ngọn cước đá tới. Các miếng võ của anh em họ Ôn hình như ăn khớp với nhau vô cùng. Thấy anh em họ càng đánh càng thêm biến hóa, và nhận rõ mình đang lâm vào tình trạng nguy hiểm, ông ta thét to một tiếng, rút bàng tính và bút đồng ở trong người ra, tự bảo thầm:
"Các người cậy có năm người địch một mình ta, dù ta có sử dụng khí giới cũng vẫn chưa phải là hèn mà!"
Nghĩ đoạn, chàng biến công ra thủ, dùng bàn tính đỡ những miếng đánh xéo cạnh của địch và dùng bút đồng quét ngang điểm chéo, chuyên nhằm các yếu huyệt của mấy anh em bên địch mà điểm loạn xạ.
Nhận thấy thế công đó lợi hại vô cùng, Ôn Minh Đạt liền huýt một tiếng còi. Ôn Nam Dương vứt ngay khí giới cho năm anh em họ Ôn, tranh đấu bằng khí giới còn nguy hiểm dữ dội hơn đánh bằng tay chân nhiều. Ai nấy đều há mồm trố mắt xem đến nổi gan, tim đều rung động kinh hãi.
Thấy tình thế của sư phụ bị nguy cấp đến nơi, Hy Mẫn tự biết bản lãnh kém cỏi, nhưng tình thầy trò rất nặng, không thể làm thinh được. Chàng hét lên một tiếng như hổ gầm, rút đơn đao ra nhảy xổ vào trong trận Ngũ Hành. Nhưng chàng mới tiến được ba bước, bỗng thấy một bóng người thoáng qua mặt, rồi thấy bàn tay người ấy để vào vai mình, Hy Mẫn giựt mình giơ đao chém ngang một nhát, nhưng người nọ khỏe quá, đè chàng chịu hẳn xuống. Chàng phải vội thu đao lại, sợ chém người không được lại chém phải bản thân mình.
Người nọ khẽ rỉ tai chàng:
- Thôi đại ca! Đừng có nhảy vào trong trận đó! Bằng không sẽ chết oan chết uổng ngay tức khắc!
Nhìn kỹ mặt người nọ, Hy Mẫn mới biết là Thừa Chí. Vừa rồi, thấy Thừa Chí điểm ngã Lã Nhị, chàng không phục tài cho lắm. Vì cho rằng Thừa Chí nhờ có sự maymắn, nên người mới thắng chớ không phải bởi thật tài! Nhưng bây giờ bị Thừa Chí khẽ để tay lai vai, nửa thân chàng đã mềm nhũn, không thể dùng sức được.
- Sư phụ của anh không thua đâu đừng lo ngại.
Nói xong, Thừa Chí chăm chú nhìn sáu người chiến đấu. Có lúc chàng ngửng đầu nhìn lên trần nhà, hình như đang nghĩ ngợi một vấn đề gì khó khăn thì phải. Tiểu Tuệ bước tới cạnh chàng khẽ nói:
- Thừa Chí đại ca, mau vào giúp Hoàng sư bá đi! Họ năm người đánh một không biết xấu hổ là gì?
Thừa Chí không trả lời, chỉ xua tay bảo nàng đứng ra xa, Tiểu Tuệ bị hất hủi, ngượng quá, bĩu môi đi ra chỗ khác. Thấy vậy Thanh Thanh mừng thầm trong bụng.
Sáu người càng đánh càng nhanh, tuy đánh rất kịch liệt, nhưng không ai nghe thấy tiếng khí giới va chạm, chỉ có tiếng kêu "vù vù" của các khí giới múa máy và tà áo bay lượn thôi.
Thừa Chí bỗng nhảy tới trước mặt Tiểu Tuệ nói:
- Em Tiểu Tuệ, đừng vội trách tôi vô lễ. Vừa rồi, tôi đang mãi nghĩ một vấn đề nan giải, mê mẩn cả tâm hồn. Nhưng bây giờ tôi đã nghĩ thông điều đó rồi.
Tiểu Tuệ vội nói:
- Trong trường hợp này, hà tất anh phải xin lỗi anh mau nghĩ cách giúp sư bá đi.
Thấy Thừa Chí vẫn đứng im Tiểu Tuệ lại thúc giục:
- Anh này hay thật! Không biết phân biệt việc khinh việc trọng! Có điều gì khó khăn nghĩ chưa ra, để lát nữa đánh xong, rồi hãy nghĩ với ngợi có hơn không?
Thừa Chí cười nói:
- Vấn đề tôi đang suy nghĩ đó là cách phá trận Ngũ Hành, em không thấy hay sao, họ có bao giờ va chạm khí giới đâu?
- Vâng, em cũng lấy làm lạ!
Hy Mẫn đã có chút kính phục tài Thừa Chí liền hỏi:
- Thế là nghĩa gì chứ Tiểu sư thúc!
Thừa Chí trả lời:
- Điểm cốt yếu của trận thế này là "nhanh" để đôi bên khí giới va chạm nhau, tình thế tất phải chậm chạp đi. Bởi vậy cách phá trận này phải dùng "nhanh đánh lại nhanh." Nghĩa là phải đánh nhanh hơn bọn họ, thì phá được trận Ngũ Hành này ngay.
Hy Mẫn lắc đầu nói:
- Xưa nay họ đã luyện tập thuần thục lắm rồi, mình làm sao đánh nhanh hơn họ được?
Thừa Chí mỉm cười nói:
- Tôi đánh thử xem!
Chàng quay đầu bảo Tiểu Tuệ:
- Em Tiểu Tuệ, cho tôi mượn chiếc trâm cài tóc.
Tiểu Tuệ đưa ngay chiếc trâm cài đầu cho Thừa Chí. Thấy chiếc ngọc trâm đó trong trẻo đẹp đẽ vô cùng, Thừa Chí nói:
- Tôi sẽ dùng chiếc trâm bằng ngọc thạch này để đối địch với anh em họ Ôn.
Hy Mẫn và Tiểu Tuệ tưởng chàng nói bông đùa, vì chiếc trâm ấy chỉ khẽ bẻ là gãy đôi rồi thì dùng làm võ khí sao được?
Hai người đang nghi ngờ, bỗng nghe thấy Thừa Chí lớn tiếng bảo Hoàng Chân:
- Đại sư huynh! Mậu Thổ sinh ất mộc, đạp Càn Cung tẩu Khảm vị.
Hoàng Chân chưa hiểu gì cả, ngẩn người ra. Ông già Ngũ lão đều sợ hãi và ngạc nhiên thầm. Họ tự hỏi: "Tại sao chỉ trong chốc lát, thằng nhỏ này đã biết rõ bí mật Ngũ Hành trận của chúng ta rồi?"
Thừa Chí lại kêu lên:
- Đinh hòa khắc Canh kim tẩu, Trấn Cung xuất Ly vị!
Từ nãy tới giờ Hoàng Chân bất luận dùng cương công hay là lừa đảo một cách khôn khéo vẫn không sao thoát khỏi được sự bao vây của năm anh em họ Ôn. Ông ta đã nghĩ tới sự anh em họ Ôn căn cứ vào Ngũ hành sanh khách biến hóa và dùng phương vị Bát Quái để bao vây mình. Nhưng mấy lần tấn công đột nhiên ông ta đều bị anh em Ngũ tổ cản trở lại một cách khéo léo. Nay bỗng nghe thấy Thừa Chí mách bảo, Hoàng Chân nghĩ thầm: "Ta cứ theo ý kiến của chú ấy đánh thử xem may ra phá nổi cũng nên!"
Theo lời dặn của Thừa Chí, ông ta tiến thẳng Trấn Cung, thoát ra Ly vị, quả nhiên thấy có chỗ trống liền nhắm chỗ trống đó xuyên ra.
Bỗng nghe thấy Thừa Chí lại lớn tiếng gọi:
- Chạy Càn vị! Chạy Càn vị!
Tuy rõ ràng thấy Càn vị đang có Ôn Minh Sơn, Ôn Minh Thi hai người cản trở, nhưng biết thời cơ không thể bỏ lỡ, Hoàng Chân không suy nghĩ gì cả, xông luôn vào chỗ hai kẻ địch. Ông ta vừa tới nơi, hai người kia liền rẽ sang hai bên để bao vây, còn chỗ trống đó Minh Đạt và Minh Ngô chưa kịp tới thay phiên.
Thân pháp của họ Hoàng nhanh nhẹn vô cùng, do bút đồng ra điểm bên phải và dùng bàn tính bổ xuống bên trái, ông ta đã nhảy ra ngoài vòng vây, đứng ngay bên cạnh Thừa Chí.
Năm anh em họ Ôn thấy Hoàng Chân đã ra khỏi trận Ngũ Hành đều kinh ngạc vô cùng, vì từ khi lập thành trận này tới giờ chưa có ai có thể thoát ra.
Ôn Minh bèn hắng giọng nói:
- Ngài đã ra khỏi Ngũ Hành trận của chúng tôi thân thủ đã phi thường lắm rồi! Các hạ là người của phái Hoa Sơn phải không? Với lão tiền bối Mộc Nhân Thanh, ngài xưng hô ra sao?
Ra khỏi vòng vây, Hoàng Chân lại tươi tỉnh và pha trò ngay. Ông ta trả lời:
- Mục lão tiền bối là ân sư của tôi. Thế nào? Tôi, tên đồ đệ tầm thường này đã làm mất sĩ diện của cụ ta phải không?
Ôn Minh Đạt nói:
- Thảo nào! Võ nghệ của ngài, chúng tôi nhận thấy quả thật là đích truyền của phái Hoa Sơn!
- Đánh nhau, chúng ta cũng đã choảng nhau rồi! Các ngài những năm người vây đánh mình tôi! Tuy kẻ hèn này không đủ tài quật ngã năm ông chủ lớn, nhưng các vị cũng chẳng hạ nổi đứa bán hàng rong này! Buôn bán như vậy cũng công bằng đấy nhỉ? Nửa cân tám lạng! Thế còn số vàng này các ngài tính sao?
Nói xong, Hoàng Chân quay đầu lại bảo Vinh Thái:
- Còn ông trưởng quầy này, chuyến buôn này có chủ rồi. Số vàng này không có phần của ông đâu!
Xấu hổ quá, Vinh Thái tự biết võ nghệ của mình còn kém người ta xa lắm, liền miễn cưỡng trả lời cho đỡ ngượng:
- Anh chàng họ Hoàng kia đừng có ngông cuồng như thế! Sẽ có một ngày anh lọt vào tay ta!
Hoàng Chân cười mỉa:
- Quý tiệm có hàng gì buôn bán được, định chiếu cố tới tiểu hiệu, dù lỗ hay lãi cũng không sao, chúng ta cùng nghề với nhau cả, giá cả có thể đặc biệt thương lượng được.
Đánh thì không đủ sức hạ người ta, mà đấu khẩu thì Vinh Thái cũng kém nốt, y tức giận vô cùng dẫn luôn đồ đệ và đàn em trong bang rút lui ngay tức thì.
Mặc kệ bọn Long Du tới hay lui, Minh Đạt chỉ nói với Hoàng Chân thôi:
- Xét võ nghệ của ngài, cũng có thể gọi là hào kiệt đương thời. Thôi, thế này vậy! Nể mặt ngài, số vàng này chúng tôi xin hoàn lại một nửa.
Sợ cái danh của phái Hoa Sơn, Minh Đạt không muốn gây thêm kẻ thù, nên có ý dàn xếp cho xong chuyện.
Hoàng Chân cười nói:
- Nếu số vàng này là của riêng của tiểu đệ thì dù bây giờ làm ăn khó khăn vì thiên hạ loạn lạc, đệ cũng xin biếu cả, quý hồ các bạn cần tiền xài tới. Nhưng lão huynh cũng nên rõ hộ cho, số vàng này là quân lương của Sấm Vương, do tên đồ đệ bất tài của đệ phụ trách áp tải, đã bị người thủ hạ của lão huynh lượm được! Như vậy, đệ biết làm sao bây giờ?
Ôn Minh Nghĩa nổi giận:
- Bạn muốn lấy cả số vàng này cũng được! Nhưng phải có hai điều kiện!
Vẫn một giọng hài hước, Hoàng Chân ung dung đáp:
- Cứ việc cho giá cả đi! Điều đó dễ thương lượng lắm! Muốn nói thách tới đâu, đệ cũng có thể trả giá được. Cứ việc nói đi, để chúng đệ thong thả bàn tính sau!
Ôn Minh Nghĩa nói:
- Không phải bàn tính gì cả. Điều thứ nhất là: Ngài phải đem lễ vật đến để trao đổi các thoi vàng. Lễ vật ấy không bắt buộc là bao nhiêu. Đó là lệ luật của phái chúng tôi, một khi tài vật đã đến tay, quyết không trả lại cho thất chủ một cách quá dễ dàng.
Biết rõ họ cho điều kiện đó cốt để lấy lại chút sĩ diện thôi, Hoàng Chân nhận thấy phái Thạch Lương đã ưng thuận trả lại số vàng đó rồi. Ông ta nghĩ thầm: "Nếu vậy ta cũng không nên gây thù oán với họ làm gì!"
Nghĩ đoạn, Hoàng Chân nghiêm ngay nét mặt lại, trả lời bằng một giọng rất đứng đắn:
- Năm vị Ôn gia đã nói như vậy, đệ xin tuân lệnh. Sáng sớm mai, đệ vào thành Từ Châu sửa soạn một phần trọng lễ rồi sẽ thân hành đem tới. Đệ cũng sẽ cho đặt mấy mâm rượu, mời vài người bạn ở địa phương này đến hầu rượu quý vị.
Thấy ông ta nói hợp tình hợp lý quá, Minh Nghĩa liền trả lời:
- Như thế cũng được. Còn điều kiện thứ hai là: Phải để anh bạnh trẻ họ Viên này lại cho chúng tôi.
Hoàng Chân ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Vì các người chịu trả lại số vàng, ta mới quá nể, để cho mọi người được bảo toàn thể diện rồi, hà tất còn phải đòi hỏi thêm chi tiết nữa?"
Ông ta đâu biết việc rất quan hệ và rất phức tạp, như việc Thừa Chí biết rõ hết chuyện bí ẩn giữa Ôn Nghi và Kim Xà Lang Quân. Như vậy Ngũ lão thể nào cũng phải giết cho kỳ được Thừa Chí họ mới can tâm. Còn tờ "bản đồ" của Kim Xà Lang Quân, họ yên trí là Thừa Chí đã thấy được, nên họ phải cố giữ Thừa Chí lại để đòi cho kỳ được bức bản đồ ấy. Họ vẫn biết võ nghệ của Thừa Chí rất cao cường, nhưng họ tin tượng rằng với trận Ngũ Hành này thì làm gì mà không thắng được chàng.
Hoàng Chân nói:
- Đáng lẽ tôi hoan nghênh lắm nhưng chỉ sợ chú ấy ở độ một năm hay sáu tháng thì quý vị lỗ vốn nhiều lắm, chịu không nổi đâu.
Hy Mẫn biết rõ tánh nết sư phụ của chàng, hễ lúc nào nói bông đùa là ông ta đã nổi cơn tức giận rồi. Đoán chắc hai bên lại sắp đánh nhau, chàng liền cầm khí giới chăm chú nhìn vào kẻ địch.
Minh Đạt cười nhạt một tiếng rồi nói:
- Chú em họ Viên này sẵn vừa rồi đã mách nước cho ngài thoát ra khỏi trận Ngũ Hành của chúng tôi. Như vậy chắc chú ấy đã hiểu hết bí quyết của trận đó, nên chúng tôi muốn mời chú ấy phá thử xem!
Thì ra trận Ngũ Hành của họ có những năm trận pháp. Vừa rồi, đối với Hoàng Chân, anh em họ Ôn sử dụng trận pháp thứ hai là ất Mộc trận pháp, nhưng còn rất nhiều võ thuật biến hóa kỳ lạ họ chưa sử dụng tới, nên họ mới thi tài thách thức Thừa Chí phá trận là thế!
Đã được nếm mùi trận pháp đó rồi, Hoàng Chân nghĩ thầm: "Ta có mấy chục năm công lực mà không thoát ra được, tuy chú Thừa Chí đã chỉ cho ta thoát ra khỏi trận, nhưng người đứng ngoài bao giờ cũng sáng suốt hơn là người trong trận, chỉ sợ chú ấy đối phó không nổi."
Nghĩ xong, ông ta liền nói:
- Trận pháp của quý vị lợi hại lắm! Vừa rồi tôi đã được lãnh giáo rồi. Còn tiểu đệ, tuổi chỉ bằng con cháu của quý Ngài, quý Ngài hà tất phải xử khó dễ với hắn làm gì? Nếu quý Ngài thấy hắn chướng tai gai mắt, thì chỉ một vị trong quý huynh đệ ra dạy bảo qua loa là được rồi.
Lời nói của Hoàng Chân bề ngoài hình như có vẻ sợ sệt, nhưng sự thật thì dồn Ngũ lão vào chỗ bí phải "một chọi một." Vì ông ta nghĩ rằng nếu Thừa Chí đấu với từng người một, vị tất đã thua anh em họ. Ôn Minh Sơn cười nhạt:
- Phái Hoa Sơn đã lừng tên tuổi khắp chốn giang hồ từ bao lâu nay, không lẽ vừa mới thấy cái trận Ngũ Hành nho nhỏ này lại sợ đến nỗi phải rụt đầu rụt cổ lại! Nếu vậy, từ nay xin quý phái đừng có xưng tên hiệu trên chốn giang hồ nữa nhé.
Thôi Hy Mẫn cả giận, ở phía sau Hoàng Chân xông ra, la lớn:
- Ai bảo phái Hoa Sơn chúng ta sợ các ngươi?
Ôn Minh Sơn cười nói:
- Vậy thì ra đây thử coi nào!
Không biết nặng nhẹ sống chết là gì cả, Hy Mẫn nhảy ra định đánh, Thừa Chí kéo hắn lại và khẽ nói:
- Thôi đại ca! Để tôi ra trước! Khi nào sắp thua, đại ca hãy ra giúp tôi!
Hy Mẫn gật đầu nói:
- Hay lắm, khi nào chú cần tôi giúp, cứ gọi ngay "Hy Mẫn" là tôi xông vào liền. Xin chú đừng có gọi "Thôi đại ca, Thôi đại ca" lôi thôi phiền phức như thế nữa!
Thừa Chí gật đầu. Tiểu Tuệ đứng bên cạnh nghe thấy bật phì cười. Hy Mẫn trợn mắt nhìn rồi hỏi:
- Cô cười cái gì?
Tiểu Tuệ vẫn không nín cười:
- Tôi có cười gì anh đâu? Bỗng tự dưng buồng cười thì tôi cười chơi đấy chớ!
Hy Mẫn định hỏi vặn thêm thì Thừa Chí đã nhảy ra rồi. Tay vẫn cầm ngọc trâm, chàng nói:
- Ngũ Hành trận của phái Thạch Lương lợi lại lắm! Quả thật tiểu bối chưa hề thấy bao giờ!
Minh Nghĩa quát lớn:
- Ngươi chưa sạch hơi sữa, có nhiều cái vật tầm thường nhà ngươi còn chưa thấy qua, huống hồ trận Ngũ Hành anh em mỗ gia thì làm sao ngươi thấy được!
Thừa Chí vẫn điềm tĩnh trả lời:
- Nếu các cụ định giữ tôi ở lại, thì thật quả đúng với ước mong của tôi quá, vì tôi cũng muốn nhân dịp này lãnh giáo những bí quyết huyền ảo về trận Ngũ Hành của mình.
Hy Mẫn không nhịn được vội nói:
- Tiểu sư thúc! Họ giữ chú ở lại định hãm hại chú đấy!
Tiểu Tuệ lại bật phì cười. Thừa Chí quay đầu lại nhìn Hy Mẫn vừa cười vừa nói:
- Các cụ ấy là người có tuổi, không bao giờ bắt nạt những tiểu đầu! Thôi đại ca cứ yên tâm.
Xong chàng quay lại nói với Ngũ lão:
- Tôi ra hầu các cụ. Xin các cụ nhẹ tay cho!
Nghe lời nói của chàng rất khiêm tốn, rõ ràng là khiếp sợ, đến khi thấy chàng bước ra, ung dung thư thả, không có vẻ núng cả, ai nấy đều không hiểu ý định của chàng ra sao.
Năm anh em họ Ôn đều thử qua tài chàng rồi, nên không nào dám khinh thường chàng cả. Họ cùng giơ tay ra hiệu, Minh Nghĩa và Minh Sơn nhảy sang bên phải, Minh Thi và Minh đại vòng sang phía trái. Chỉ trong nháy mắt, anh em họ đã bố kín đáo rồi. Thừa Chí làm như vẫn không hay biết gì cả, tay chào rồi hỏi:
- Chúng ta đấu ngay ở chỗ đất bằng này ư?
- Ừ không cần phải bày Mai Hoa Thung chi cho mệt
- Các cụ là tiền bối của chú thanh, tôi không dám vô lễ mà động tới đao thương. Tôi chỉ dùng cái trâm ngọc này để xin lãnh giáo các cụ vài miếng.
Chàng vừa nói xong, ai nấy đều giựt mình kinh ngạc vì lẽ nhận thấy chàng nói như thế thật là ngông cuồng quá lẽ. Chiếc trâm bằng ngọc chưa chắc đã giết nổi con cánh cam (tức con quít), chỉ khẽ đụng vào là gãy, thì va chạm sao được với đao kiếm bằng thép của Ngũ lão.
Hoàng Chân biết lúc bấy giờ có nói cũng vô dụng, đành phải cầm sẵn bàn tính và bút, chờ khi nào sư đệ lâm nguy là nhảy ngay vào cứu giúp. Tiến lại gần Hy Mẫn và Tiểu Tuệ, Hoàng Chân khẽ căn dặn:
- Bên địch mạnh và nhiều người hơn ta. Lát nữa, khi nào ta bảo các con chạy, là cứ việc nhảy lên trên mái nhà tẩu luôn. Đã có ta và Viên sư đệ đoạn hậu, dù hai ta có bị lâm vào tình thế nguy hiểm nguy đến đâu, các con cũng đừng có quay trở lại giúp đỡ chúng ta.
Hy Mẫn và Tiểu Tuệ đều xin vâng lời. Hoàng Chân tự tin sức mình và Thừa Chí có thể kiếm cách thoát thân được, chỉ cần Hy Mẫn và Tiểu Tuệ thoát được thì sau đó chàng kéo thêm mấy người nữa đến phá trận thì thế nào cũng phá vỡ trận đó ngay. Mấy người mà Hoàng Chân tính mời tới phá trận là: vợ chồng Nhị sư đệ Nông Quy Thân ở núi Bàn Thạch, Phổ Thiện đại sư ở chùa Hoa Nghiêm tỉnh Hà Bắc, và thêm sư phụ ông ta là Mộc Nhân Thanh hoặc Mộc Tang đạo nhân cũng được. Bốn người nói trên và ông ta là năm, mỗi người phụ trách đánh một trong Ngũ lão, khiến anh em họ bị tản mác, không thể cứu giúp được nhau, Ngũ Hành trận tất nhiên phải tan vỡ. Nếu một chọi một thì năm anh em họ Ôn không phải là địch thủ của những người nói trên.
Là người có tánh hay pha trò nói bông, Hoàng Chân lại còn là con người mưu tính rất giỏi. Trong số năm người ông ta định mời đến đánh anh em họ Ôn không thấy có tên Thừa Chí là vì chàng cho tiểu sư đệ còn thiếu kinh nghiệm để làm hư việc lớn. Như vậy đủ thấy chàng tính toán cẩn thận biết bao!
Thừa Chí lại lên tiếng:
- Các cụ đã thành tâm chỉ giáo cho, sao lại rút bớt đi một thế trận, khiến tiểu bối không học được đủ toàn bộ!
Minh Đạt ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì là toàn bộ hay không toàn bộ?
Thừa Chí trả lời:
- Ngoài trận Ngũ Hành này, các cụ còn Bát Quái trận để phò tá. Sao các cụ không bày cả ra, để tiểu bối được thêm sáng mắt?
Minh Nghĩa quát lớn:
- Đó là nhà ngươi tự đòi lấy cái chết, chớ đừng có oán hận gì nữa đấy nhé?
Nói xong, Minh Nghĩa quay lại bảo Ôn Nam Dương:
- Nam Dương! Gọi các em lại đây!
Nam Dương là lãnh tụ đời thứ hai của phái Thạch Lương. Chàng phẩy tay một cái, mười lăm người đều nhảy ra, Hoàng Chân thấy bọn người đó, có nam có nữ, lại có cả hai vị hòa thượng nữa. Sau khi thấy hiệu lịnh của Nam Dương, mười sáu người chạy quanh Ngũ lão, trông thật đẹp mắt. Thừa Chí đứng ở giữa, Ngũ lão vây xung quanh như bàn thạch, bên ngoài lại có thêm 16 người chạy đi chạy lại. Có một điều lạ nhứt là không hề nghe thấy tiếng chân của bọn họ. Dù là người giàu kiến thức, Hoàng Chân thấy tình thế này cũng phải sợ hãi.
Hoàng Chân nghĩ thầm: "Viên sư đệ rõ thật còn trẻ người non dại thật! Nếu y chỉ đấu riêng với Ngũ lão thôi, để lúc gặp nguy hiểm ta còn có thể xông vào cứu y được. Bây giờ lại có thêm mười sáu người cản trở, mọi chỗ hổng đều bị họ bịt kín hết cả thế này, đến con ruồi con muỗi cũng không thể bay lọt vào được, huống chi là con người!"
Thừa Chí dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái bên phải cầm chiếc ngọc trâm, còn tay trái phẩy một cái, co chân phải lên, lấy chân trái làm trục, người chàng bỗng quay đi bốn năm vòng. Thấy chàng cử động, Ngũ lão họ Ôn lập tức thúc đẩy trận thế, và cũng chăm nhìn xem chàng cử động ra sao. Nhưng Thừa Chí chỉ chuyển động ở chỗ cũ thôi chớ không ra tay đánh.
Thì ra, trước kia Kim Xà Lang Quân đánh với Ngũ lão không may thất thủ bị bắt.
Sau khi trốn được về ở trong hang động trên đỉnh núi Hoa Sơn, chàng khổ công nghĩ ngợi rút cuộc đã khám phá được mọi bí quyết huyền ảo của trận Ngũ Hành và nghiên cứu ra những chỗ kỳ diệu của trận đó là: Bất cứ kẻ địch xông xáo hay tấn công thế nào, năm anh em họ Ôn đều dùng những miếng võ rất lợi hại phản kích lại. Một người ra tay đánh, bốn người kia liên tiếp đánh theo, cho tới khi nào kẻ địch bị bắt mới thôi.
Tuy đã tìm kiếm ra mọi sự bí mật nhưng làm cách nào mà phá nổi trận thế? Hạ Tuyết Nghi vẫn chưa tìm được cách giải quyết. Suốt mấy năm liền, ông ta đã nghĩ nát óc, nhưng kết quả chẳng tìm ra phương pháp nào có hiệu quả, trong một lần đi dạo núi ông bỗng gặp một con cạp nong (một loại rắn rất độc) đang bò ở trong đám cỏ. Trông thấy bóng người, nó quấn tròn lại, ngửng đầu lên không hề cử động.
Sở dĩ Hạ Tuyết Nghi được người ta đặt cho biệt hiệu là Kim Xà Lang Quân cố nhiên bởi ngoài những hành động lanh lẹ, hiểm độc, hung ác, ông ta thích nuôi rắn độc, để lấy nọc độc làm thuốc bôi trên đầu những ám khí. Năm nọ, vợ Ôn Minh Lộc, em dâu của anh em họ Ôn bị trúng phải tên độc chết ngay tại chỗ. Thuốc độc trên đầu những mũi tên đó đều là nọc rắn độc cả. Ông ta rất thạo thuộc tánh nết của các loại rắn, biết rằng khi rắn quay tròn ngửng đầu lên, là nó chờ đợi kẻ địch ra tay trước. Khi kẻ địch tấn công, rắn nọ lập tức thực hư mà cản lại. Nếu địch đứng yên, nó ít khi tấncông trước. Vì chưa biết rõ thực hư của địch ra sao, nếu tấn công trước, thường thường hay bị thiệt thòi. Xúc động linh cơ, Hạ Tuyết Nghi nhìn qua, vừa nhảy vừa kêu la, lộn mấy vòng trên bãi cỏ. Chiến lược phá Ngũ Hành trận được hết định ngay từ đấy. Nghĩa là căn cứ bốn chữ: "Hậu phát chế nhân" (đánh sau nhưng lại kìm chế địch trước). Trong võ thuật, người ta chú trọng vào sức mạnh và sự nhanh nhẹn. Chánh sách "Hậu phát chế nhân" của ông lại trái ngược hẳn.
Đã có thủ đoạn để giải quyết vấn đề nên mọi việc đều thông suốt ngay. Không đầy một tháng, ông ta đã sáng tạo xong toàn bộ phương pháp phá trận Ngũ Hành. Rồi ông ta ghi chép ngay vào trong cuốn "Kim Xà bí kíp." Ông ta còn hoài nghi, chưa chắc cuốn Bí Kíp đó đã có người tìm thấy! Ví dụ có người kiếm được, chỉ sợ lúc đó đã qua hàng nghìn, hàng trăm năm sau và khi ấy, xác của anh em họ Ôn đã hóa ra cát bụi lâu rồi! Tuy vậy, thù oán bị anh em họ Ôn cắt đứt mất gân chân, trở thành một phế nhân, ông ta đời nào chịu để yên. Vả lại, ông ta nghĩ rằng: "Dù anh em họ Ôn đã chết rồi, nhưng Ngũ Hành trận của họ vẫn lưu truyền lại cho con cháu. Sau này, nếu không phá nổi trận đó, có phải Thạch Lương được xưng hùng xưng bá ở thiên hạ không?" Cho nên, ông cất công viết hết cách phá trận vào trong Bí Kíp để nhờ người nhặt được cuốn Bí Kíp báo thù hộ cho. Mặc dù chuyện đó viễn vông thật, nhưng ông ta vẫn yên trí thế nào cũng sẽ được toại nguyện.
Thừa Chí đang sử dụng chánh sách "Hậu phát chế nhân" mới quay được vài vòng, đã thúc đẩy Ngũ Hành Bát Quái trận phát động toàn bộ rồi.
Ngũ lão phải chờ cho chàng ra tay rồi mới thừa thế nhảy xô vào, nhưng thấy chàng quay càng chậm, không có vẻ gì là muốn tấn công cả. Sau cùng, chàng lại ngồi xuống, hai tay để lên trên đầu gối, mặt tươi tỉnh mỉm cười.
Nhưng ngưòi đứng xem đều ngơ ngác không hiểu và nghĩ thầm rằng: "Trước mặt kẻ địch sao chàng lại đùa giỡn như thế?" Nhưng họ có biết đâu đó là kế "mạn quân" của Thừa Chí, một mặt dụ địch tấn công, còn một mặt nữa là làm cho địch nóng lòng sốt ruột, không thể nào giữ sự trầm tĩnh được nữa. Thấy chàng ngồi xuống, quả nhiên Ôn Minh Nghĩa không sao nhịn được liền vỗ tay một cái, định tấn công phía sau lưng chàng. Ôn Minh Ngô vội cản lại:
- Nhị ca đừng làm loạn trận pháp!
Ôn Minh Nghĩa đành phải ngừng lại. Ngũ lão càng chạy càng nhanh cứ tiếp tục quay vòng quanh như trước, chỉ chờ chàng ra tay là họ cũng ùa vào ngay. Vì khi tấn công, mục đích của mình chỉ chăm chú vào công việc kích đối phương, toàn thân sẽ có vô số chỗ để hở ngay. Ngũ Hành trận cần dùng một người hấp dẫn đối phương tấn công, bốn người kia thì nhằm chỗ hở của địch mà tập kích. Lý thuyết "tương sinh tương khắc" sự thật có ý nghĩa ấy. Bây giờ Thừa Chí không động đậy gì cả, như vậy toàn thân chàng chỗ nào cũng phòng bị chu đáo, Ngũ lão đành chịu bó tay không làm gì nổi chàng.
Lại qua một lát nữa, Thừa Chí bỗng ngáp ngủ, nằm ngửa xuống đất, lấy hai tay làm gối kê dưới đầu, dáng nằm trông rất khoan thai. Mười sáu đệ tử giàn trận Bát Quái bên ngoài, chạy vòng quanh đã nửa ngày, mà càng chạy càng phải nhanh hơn, nên tên nào hơi kém công lực một chút đã thấy mồ hôi đầy đầu đầy trán, hơi thở hồng hộc, Ngũ lão vẫn còn chịu đựng được, nên vẫn chưa muốn ra tay trước, Thừa Chí nghĩ thầm: "Mấy tên già này kể cũng có tài nhẫn nại thật đấy!"
Chàng bỗng quay lưng lên trời, úp mặt vào trong lòng hai bàn tay, miệng ngáy khò khò. Từ xưa có thế võ như chàng, nằm úp mình như vậy, có khác gì để cho người ta ta hồ tùng xẻo mình hay không.
Hy Mẫn, Tiểu Tuệ, Thanh Thanh và Ôn Nghi đều tức cười, nhưng lại lo ngại hộ cho chàng. Hoàng Chân thấy chàng hết ngồi lại nằm như vậy đã hiểu ngay chánh sách đối địch của chàng. Ông ta chịu phục chàng thông minh và táo bạo. Nhưng đến khi thấy chàng nằm úp, không phòng bị như vậy, ông ta phải kêu thầm: "Nguy to!" Vì ông ta nhận thấy, lúc này, trong Ngũ lão, bất cứ người nào ra tay, đột kích sau lưng chàng thì dù chàng là thần tiên trên trời cũng không sao tránh kịp. Không chịu bỏ lỡ thời cơ, Ôn Minh Đạt liền ra hiệu, tay trái phẩy sang bên phải một cái, rồi lại chỉ xuống đất một cái. Thế là bốn chiếc phi đao của Minh Thi nhắm giữa lưng Thừa Chí phóng xuống, đi nhanh như chớp. Sự đột kích bất ngờ ngay giữa lưng Thừa Chí làm mọi người anh em đều khiếp sợ kêu lớn lên vì thấy bốn con phi đao đều cắm trúng vào lưng Thừa Chí. Đau lòng và sợ hãi quá, Ôn Nghi quay đầu ôm mặt, không dám trông thấy thảm cảnh ấy nữa.
Các người bên phái Thạch Lương đều hoan hỉ reo mừng, ồn ào như tiếng sấm vang động. Trong số mười sáu người dàn trận Bát Quái, đã có bảy, tám người ngừng bước. Giữa lúc ấy, Thừa Chí bỗng nhỏm dậy, bốn con dao trên lưng chàng đều bị rũ rơi xuống đất, người chàng tựa như mũi tên bắn vọt lên. Chỉ nghe thấy "bộp" một tiếng, Ôn Nam Dương đã bị chàng nện một quyền vào lưng, mồm phun máu tươi, còn người y thì bị chàng nhấc bổng lên, ném ra khỏi trận Ngũ Hành.
Mọi người không thấy rõ Thừa Chí làm cách nào mà luồn ra khỏi trận Ngũ Hành, chỉ thấy mười sáu tên đệ tử bên ngoài bị chàng lần lượt đấm đá, điểm huyệt, và tung vào trận Ngũ Hành. Trong bọn đó, ông Câm giỏi võ hơn cả cũng chỉ chịu nổi được hai ba miếng của chàng là bị đánh ngã liền. Thế là Ngũ Hành Bát Quái trận đại loạn, trong trận không thấy kẻ địch đâu, mà kẻ ra người vào toàn là người nhà cả. Mọi người không ai ngờ Thừa Chí mặc chiếc áo cánh sợi vàng của Mộc Tang tặng cho, nên phi đao sao đâm thủng lưng chàng được.
- lợi dụng sự bất ngờ đó chàng đã phá tan trận Bát Quái rồi.
Năm anh em họ Ôn kêu rú luôn mồm và hai tay bận tíu tít tiếp đỡ các đệ tử do Thừa Chí ném vào. Không để cho họ có thì giờ bố trí lại trận Ngũ Hành, Thừa Chí tiến lê ba bước dùng ngay ngón tay trái điểm thẳng vào huyệt đạo của Minh Thi. Thấy phi đao không làm gì được chàng. Minh Thi vốn đã sợ hãi, nay lại thấy chàng tấn công tới, cuống lên ông ta cầm cả bốn chiếc phi đao ném vào ngực chàng. Không tránh không đỡ, Thừa Chí cứ nhằm "Hoàn Cơ huyệt" ở dưới yết hầu của ông ta mà điểm. Chỉ nghe thấy "Coong, coong" mấy tiếng, phi đao vừa đụng tới ngực chàng là rơi xuống liền.
Chính lúc đó, ba ngón tay của chàng vừa điểm trúng huyệt đạo của Minh Thi. Ở phía sau, thấy em Tư bị lâm nguy, Minh Sơn vụt luôn một trượng vào đùi bên phải của Thừa Chí. Chàng vừa cười vừa nói:
- Cây quài trượng bữu bối này, hôm nọ đã bị vứt lên khỏi nóc nhà, bây giờ cụ lại nhặt nó về đấy à?
Miệng nói, tay không ngừng, chàng nhấc bổng một tên đệ tử của trận Bát Quái giơ lên đỡ chiếc quài trượng đó. Minh Sơn sợ quá. Vụ trượng đó, tuy không mong đánh trúng người Thừa Chí, nhưng ông ta suy tính, lúc ấy Thừa Chí không thể nào tránh trước né sau được, bắt buộc chàng ta phải dùng khí giới để chống đỡ, mà khí giới của chàng lại là một chiếc trâm bằng ngọc, chỉ khẽ chạm vào chiếc quài trượng bằng théplà vỡ tan tành ngay. Không ngờ chàng lại kéo luôn một tên đệ tử của phái Thạch Lương để chống đỡ. Nếu cây quài trượng này mà đánh trúng thì tên đệ tử ấy sẽ bị gãy xương đứt gân tức thì. Cũng may võ nghệ của Minh Sơn đã tới chỗ tuyệt mức, trong lúc nguy cấp này, ông ta phải nhảy lên, dùng tay trái đè đầu cây trượng xuống, một mặt kêu gọi Minh Đạt đề phòng:
- Đại ca, cẩn thận!
Ông ta vừa nói dứt lời, cây quài trượng theo đà, đã đánh thẳng xuống người Minh Đạt. Ông ta tin tưởng rằng người anh cả của ông ta có thể tránh được cây quài trượng đó. Quả nhiên Minh Đạt giơ ngang song kích lên đỡ. Chỉ nghe thấy "coong" một tiếng thật lớn, sao lửa bắn tứ tung, quài trượng và đoản kích đều bay trở lại. Thừa cơ đó, Thừa Chí tấn công luôn Minh Ngô. Chàng dùng bàn tay trái bổ mạnh xuống và tay phải câm ngọc trâm cứ nhằm mắt địch mà đâm. Minh Ngô vừa tránh vừa lui, múa roi da để phong tỏa khắp người. Nhưng thế công của Thừa Chí mạnh và nhanh lắm, ông ta phong tỏa làm sao nổi. Trong giây lát, ông ta đã bị Thừa Chí liên tiếp tấn công sáu, bảy đợt. Thấy chiếc ngọc trâm cứ lập lờ theo sát đôi mắt ông ta, và đã bị hai chiếc đó chạm tới mí mắt rồi, Minh Ngô sợ hãi mất cả hồn vía, lúc đó mới nhận biết cây trâm ấy lợi hại là ngần nào.
Lần sau cùng, thấy tránh không nổi, ông ta phải vứt roi da đi, hai tay bịt lấy đôi mắt, nằm xuống đất lăn lộn mấy vòng, mới thoát khỏi thế tấn công của Thừa Chí.
Nhưng dù sao, lưng ông ta cũng bị Thừa Chí đá theo một cái.
Hồi xưa, Minh Ngô đã từng dùng roi da để đánh bại một lúc mười hai hảo hán trên lôi đài Triết Nam, oai phong lừng lẫy, nổi tiếng mấy chục năm liền. Ngờ đâu, ngày nay, ông ta lại phải bại dưới tay một thiếu niên vô danh. Không riêng gì ông ta xấu hổ chịu không nổi, mà cả những người đứng xem hai bêncũng phải ngạc nhiên kinh hãi vô cùng.
Hoàng Chân thấy tiểu sư đệ lợi hại vô cùng, đã trổ tài kỳ lạ, bình sanh ông ta chưa từng thấy qua. Ngay như sư phục hồi còn tráng niên, lúc võ nghệ đã cao tột bực, cũng chưa chắc đã có công lực mạnh như thế! Vậy thì võ công tuyệt tác ấy y đã học hỏi ở đâu? Thật không thể tưởng tượng được! Thôi Hy Mẫn đứng bên cạnh cứ hò reo khen ngợi om sòm. Tiểu Tuệ nhích mép cười. Ôn Nghi và Thanh Thanh đều mừng thầm nhưng vì hai mẹ con từng sống dưới cửa độc ác của họ Ôn đã lâu, lúc nào cũng sợ hãi lo âu, nên cả hai đều không dám tỏ vẻ vui mừng ra mặt.
Càng đánh tinh thần càng thấy phấn khởi thêm, Thừa Chí không còn lo ngại gì nữa.
Tay trái sử dụng "Phục Hổ chưởng" của phái Hoa Sơn, tay phải câm trâm ngọc dùng thế Kim Xà trảm pháp trong trận Kim Xà bí kíp. Võ thuật đó dù là Bát Thủ Tiên Viên Mộc Nhân Thanh thân hành tới nơi, Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi phục sanh, mỗi người cũng chỉ biết được một nửa. Như vậy anh em họ Ôn làm sao hiểu nổi? Hạ xong Minh Ngô, Thừa Chí lại quay sang tấn công Minh Nghĩa. Luôn luôn bị miếng hiểm tập kích, Minh Nghĩa cuống cả chân tay. Thấy tình thế bất lợi, Minh Đạt bỗng huýt lên một tiếng còi, rồi đột nhiên dùng tay đẩy lui một tên đệ tử. Còn Minh Sơn thì sử dụng cả chân lẫn tay, hoặc đá hoặc ném, quét sạch tất cả các đệ tử ra ngoài.
Nhân số trong Luyện Võ sảnh ít đi, họ tính bày ngay trận Ngũ Hành lại, nhưng Thừa Chí cứ kềm chặt Minh Nghĩa, khiến anh em họ Ôn không thể nào áp dụng thế liên hoàn được. Minh Nghĩa bị tay của Thừa Chí đánh trúng vào vai trái, Minh Sơn vội nhằm phía sau lưng chàng đánh luôn một quài trượng xuống. Đồng thời, Minh Đạt ở bên trái cũng múa song kích tấn công tới. Vai trái tuy bị đau, Minh Nghĩa vẫn cố chịu để thi hành trận pháp.
Lúc ấy nhân số của phái Thạch Lương đã bị ném hết ra ngoài nên họ càng cố bày lại được trận thế và hết sức chống cự. Dưới sự bao vây tấn công của tám lão, Thừa Chí vẫn đi lại như bay như múa. Đang đấu kịch liệt, chàng bỗng nhảy lên cao, tay phải cầm chiếc trâm ngọc vào đầu, rồi giơ tay níu lấy cái dầm trên nóc nhà.
Đánh đang hăng, tám lão bỗng nhiên thấy biến mất kẻ địch đều ngơ ngác nhìn nhau. Sau thấy trên đầu có tiếng gió, họ biết nguy đến nơi, đang định trốn tránh thì Minh Sơn và Minh Nghĩa đã bị quân cờ ném trúng huyệt đạo, ngã lăn ra đất. Minh Đạt vừa cúi xuống định cứu chữa thì Thừa Chí lại ném luôn một nắm quân cờ xuống. Nhờ ở võ nghệ cao siêu hơn các em, Minh Đạt giơ song kích lên múa, những quân cờ của Thừa Chí đều lác đác rơi xuống. Sợ Thừa Chí lại ném ám khí nữa, Minh Đạt vẫn tiếp tục múa song kích để tự bảo vệ từ đầu đến chân. Bỗng nghe thấy người đứng xem kêu rú lên, ông ta thấy tay rung động một cái, song kích hình như bị một sức mạnh gì cản lại, không sao múa được nữa. Giựt mình sợ hãi, Minh Đạt dùng sức kéo mạnh một cái, ngờ đâu song kích đã rời khỏi tay ông ta bay đi mất. Không kịp nghĩ ngợi, ông ta vội tránh sang bên ba bước, hai bàn tay che lấy đầu, mắt. Lúc ấy ông ta mới hay song kích đã lọt vào tay Thừa Chí rồi. Mỗi tay cầm một kích, Thừa Chí thét lớn:
- Coi này!
Song kích bay xuống, cắm chặt vào hai cái cột lớn ở giữa Luyện Võ sảnh, ngập sâu vào cột đến nửa chiếc kích. Hai cái cột bị rung chuyển, mái ngói đều kêu "rắc, rắc" hình như sắp đổ sập xuống.
Những người đứng cạnh cửa đều hoảng kinh rảo cẳng chạy luôn ra ngoài sảnh.
Năm xưa, khi Mộc Nhân Thanh dạy võ Thừa Chí, đã từng phóng một thanh kiếm cắm phập vào thân cây, Mộc Tang đạo nhân khen là kiếm pháp thiên hạ vô song. Nay Thừa Chí lao hai cái kích cũng căn cứ ở miếng kiếm pháp đó biến hóa ra. Lúc này, Hoàng Chân hớn hở và phục tài tiểu sư đệ, vì ông ta thấy chàng dùng thủ pháp của bổn môn lao kích đến nổi xuyên thủng cột và chấn động cả nhà cửa. Ông ta mừng quá reo lên:
- Viên sư đệ! Chú sử dụng miếng "Thần Long Hiện Vĩ" tài lắm!
Thừa Chí quay đầu lại cười và nói:
- Đệ không dám quên ơn sư phụ đã dạy bảo nhưng vẫn còn mong sư huynh chỉ giáo cho!
Ôn Minh Đạt ngơ ngác nhìn xung quanh thấy bốn người anh em nằm lăn cả dưới đất.
Thừa Chí từ từ đi tới cạnh Hoàng Chân, rút chiếc ngọc trâm cắm trên đầu xuống, trao trả cho Tiểu Tuệ rồi đứng cạnh Hy Mẫn không nói nửa lời. Ôn Minh Đạt nghĩ đến trận thế Ngũ hành Bát Quái của phái Thạch Lương mình từng mang danh thiên hạ vô địch mà nay chỉ trong chốc lát đã bị một thằng nhỏ phá tran quét sạch, đến nỗi toàn quân phải tiêu diệt hết! Nghĩ tới đó, ông ta đau lòng sốt ruột quá, định đâm đầu vào cột trụ tự tử cho xong. Nhưng vốn tánh ác độc xưa nay, ông ta nghĩ thầm rằng: "Tuổi ta sắp mạt kiếp đến nơi, mối thù này tất nhiên ta không thể trả được. Nhưng còn sống sót được ngày nào, thể nào ta cũng không để nó được yên thân!"
Nghĩ xong, ông ta chìa hai tay nói với Hoàng Chân:
- Vàng ở cả đây, các người cứ việc đem đi!
Không chờ cho Minh Đạt nói đến lời thứ hai, Hy Mẫn vội chạy lại nhặt hết các thoi vàng bỏ vào túi da. Phái Thạch Lương tuy có mấy chục người đứng đó, nhưng chỉ trố mắt nhìn người lấy của đi chớ không dám ra tay ngăn cản. Trận đánh vừa rồi, Thừa Chí làm cho họ thất đảm kinh hồn, mất hết cả chí khí đấu tranh.
Thấy bốn người anh em đều bị Thừa Chí ném quân cờ điểm huyệt nằm lăn cả ra đất, Minh Đạt liền bước tới cạnh Minh Nghĩa trước, đệ nhị lão lúc này mắt vẫn nhìn được, nhưng thân thể và chân tay thì cứng đờ.
Minh Đạt cũng là tay điểm huyệt giỏi, liền cúi xuống xoa bóp "Vân Đài huyệt" cho người em để cho huyết mạch được chạy đều. Nhưng ông ta xoa bóp hằng giờ mà Minh Nghĩa vẫn cứ nằm cứng đờ như cũ. Ông ta lại đến giải huyệt cho ba người em kia, nhưng cũng không thấy hiệu nghiệm gì cả. Vì không muốn tự hạ mình cầu cứu kẻ địch, ông ta chỉ quay lại nhìn Thanh Thanh hất hàm ra hiệu. Thanh Thanh tuy biết ý ông Cả muốn nhờ mình cầu cứu Thừa Chí, nhưng nàng giả vờ không hiểu:
- Ông Cả sai bảo gì cháu thế?
Minh Đạt chửi thầm: "Con nhãi này đáo để thật! Lúc này mầy còn làm khó dễ ông! Chờ xong việc ở đây, ông sẽ trị tội mẹ con mày cho mà xem!"
Nghĩ đoạn, ông ta đay nghiến nói khẽ:
- Mày bảo nó giải huyệt cho bốn ông mày đi!
Thanh Thanh tới trước mặt Thừa Chí vái chào, rồi lớn tiếng nói:
- Ông Cả tôi nói nhờ anh giải huyệt dùm bốn ông tôi đấy!
Thừa Chí trả lời:
- Vâng.
Chàng tiến lên đang định cúi xuống giải huyệt cho bốn anh em họ Ôn, bỗng nghe thấy Hoàng Chân gạt bàn tính một cái, chàng vội ngừng tay ngay, Hoàng Chân lớn tiếng nói:
- Viên sư đệ! Chú không biết buôn bán tí nào cả! Hiện giờ món hàng lạ đang hiếm, sao chú không nhân lúc này mà lên giá. Chú cứ mặc rao giá đi, nói thách đến đâu, cũng có người cũng chịu trả kia mà!
Thừa Chí biết ngay sư huynh chàng có ác cảm với phái Thạch Lương, muốn thừa dịp này để báo thù. Dù chàng là người trung hậu thật, nhưng nghĩ tới có sư huynh ở đây thì nên để cho ông ta chủ trì mọi lẽ mới phải, chàng liền ôn tồn đáp:
- Xin đại sư huynh chỉ bảo giúp cho!
Hoàng Chân nói:
- Món hàng thuộc loại trân châu, bảo ngọc đâu thể quà biếu vô cớ cho ai được, tức nhiên phải trao đổi bằng một thứ gì tương xứng với món hàng đó theo sự công bằng của sự mua bán có qua có lại.
Thừa Chí vốn đã hiểu rõ, nhưng vẫn vờ hỏi:
- Đại sư huynh hãy nói rõ hơn, tiểu đệ chưa hiểu gì cả.
Hoàng Chân đáp:
- Có gì lạ đâu. Nếu chư liệt vị kia muốn Viên sư đệ giải huyệt đạo cho các người kia tất nhiên phải bù lại một cái gì giá trị ngang nhau không có bên nào thiệt thòi cả.
Nghe Hoàng Chân và Thừa Chí nói chuyện dài dòng cố kéo thời gian, Minh Đạt nóng nảy:
- Bây giờ các vị muốn trao đổi cái gì cứ nói toạch ra, cần gì phải dùng thứ văn hoa bóng bẩy cho phí mất thời giờ.
Hoàng Chân nhẩm tính rồi nhìn Minh Đạt:
- Chẳng có gì rắc rối cả, giờ chư vị muốn Viên sư đệ giải huyệt cho mấy người nằm kia thì cái giá trị của nó tính thế nào cho tương xứng vậy thôi.
Minh Đạt hỏi mau:
- Tương xứng là bao nhiêu vàng, bao nhiêu bạc cứ nói thẳng ra?
- Bạc vàng thì Viên sư đệ chắc không nhận đâu, giờ chỉ có thể nhận một món khác.
- Món gì?
- Lối chừng một ngàn sáu trăm tạ gạo theo luật mua bán xưa nay.
Minh Đạt giận lắm nhưng vì sinh mạng của bốn anh em họ Ôn nên cố dằn xuống:
- Một ngàn sáu trăm tạ gạo đâu phải là khó mua, nhưng với số gạo nặng nề như thế chuyên chở cách nào?
Hoàng Chân lắc đầu:
- Khỏi phải chuyên đi đâu cả.
- Thế phải làm cách nào?
- Tôi đã có cách rồi, rất dễ dàng, chỉ giải quyết trong vài giờ là đâu đấy yên xong.
- Cách nào?
- Chở một ngàn sáu trăm tạ gạo tới quý gia trang, cho người loan truyền số dân chúng đang đói trong vùng này cùng quy tụ lại. Các hạ có thể làm chuyện này được chăng?
Minh Đạt gật đầu:
- Được, chẳng có gì khó khăn cả, nhưng các hạ định quy tụ số dân chúng nay để làm gì?
Hoàng Chân buông thõng:
- Phát cho họ!
Minh Đạt khẽ sửng sốt đưa mắt nhìn Hoàng Chân:
- Như thế cũng hay, nhưng chừng nào là chuyện này?
- Chuyện muốn chậm hay mau tùy nơi các tại hạ, chúng tôi vô sự bình yên.
- Mặt trời xế qua giải quyết được không?
- Tốt đấy. Tính sớm như vậy rất ổn, chuyện mua bán cần phải sòng phẳng và nhanh lẹ để còn phải tiếp khách hàng khác.
Từ nãy Hoàng Chân nói ra toàn là những câu bông đùa, khinh khỉnh rất là khó chịu nhưng Minh Đạt không biết phải làm sao vì cần phải cứu bốn anh em bị Thừa Chí điểm huyệt nằm kia.
Hoàng Chân nói:
- Vậy mặt trời xế qua chúng tôi sẽ trở lại giao lãnh hàng hóa, chư vị hãy chuẩn bi đâu đó cho thật chu đáo để khỏi phải bị trễ giao hàng nhé.
Hoàng chân phất tay:
- Viên sư đệ, chúng ta về thôi.
Bọn bốn người của Hoàng Chân trở ra ngoài đi thẳng về hướng khách điếm...
Phần Minh Đạt trở vào nhà lấy một số bạc ra thị trấn mua đủ một ngàn sáu trăm tạ gạo thuê xe chở về gia trang.
Hắn sai mười mấy tên gia nhân đi khắp nẻo đường trong vùng loan tin về vụ chẩn bần trong chiều nay.
* * *
Mặt trời vừa nghiêng bóng, Hoàng Chân, Thừa Chí, Thôi Hy Mẫn, và Tiểu Tuệ cùng tới gia trang năm anh em họ Ôn.
Bốn người đi tới nhà họ Ôn đã thấy dân quê tụ họp rất đông đảo. Rồi từng tạ gạo một từ trong thành được gánh tới. Thì ra Ôn Minh Đạt đã sai người vào thành Từ Châu mua gạo từ lúc đêm khuya rồi. Từ Châu là một thành phố lớn ở miền Đông tỉnh Triết Giang sầm uất vô cùng. Nhưng đột nhiên đi mua một nghìn sáu trăm tạ gạo không phải chuyện dễ. Và cũng vì sự nhu cầu đột ngột đó mà giá gạo vọt lên khiến Minh Đạt phải tổn phí thêm mấy trăm lạng bạc nữa.
Mời Hoàng Chân ra kiểm điểm đủ số gạo rồi, Minh Đạt mới bảo người nhà phát chẩn từng đấu một cho các nông dân. Dân chúng các làng bàn tán nghị luận, họ không hiểu tại sao nhà họ Ôn đột nhiên lại cải ác lương thiện như thế? Thấy Minh Đạt làm việc rất cẩn thận, tuy là sự bất đắc dĩ, nhưng cũng vì vậy mà Hoàng Chân không còn nói kháy và chế diễu nữa. Chờ phát hết bốn trăm tạ gạo, Thừa Chí giải huyệt ngay cho Ôn Minh Nghĩa. Tuy đã tỉnh hẳn, nhưng vì chịu đựng ngót một ngày đêm, Minh Nghĩa như người ốm mới khỏi, không còn đủ hơi sức như lúc thường.
Nhộn nhịp đến chiều tối mới chẩn xong 1600 tạ gạo, và bốn anh em họ Ôn cũng đều được giải thoát cả. Thừa Chí vái chào Ngũ lão một cái và nói:
- Có nhiều điều thất lễ, tiểu bối thật áy náy vô cùng.
Hoàng Chân vừa cười vừa nói:
- Các ông đã cho tặng cho nông dân gạo, tuy hơi đau lòng xót ruột một chút, nhưng đã gỡ lại cho Thạch Lương Ôn gia rất nhiều tiếng tăm. Các ông nên rõ, làm việc thiện này rất có lợi cho các ông, chớ không phải cho chúng tôi. Các ông nên nhớ kỹ điều đó!
Bốn người đang định quay trở ra, bỗng từ trong nội đường có hai người đàn bà chạy ra. Người đi trước là Ôn Nghi, người theo sau là Thanh Thanh, con gái bà ta. Khi chạy tới trước mặt Thừa Chí, Ôn Nghi liền hỏi:
- Viên tướng công đi về đấy ư?
Thừa Chí gật đầu trả lời:
- Vâng, cháu đang định vào chào bác đấy ạ.
Ôn Nghi, giọng run run, hỏi:
- Mộ anh ta ở đâu? Tướng công có thể đưa tôi đi thăm viếng được không?
Chưa kịp trả lời, chợt nghe thấy tiếng gió kêu "vù, vù" Thừa Chí biết ngay là có chuyện gì rồi, vội nhảy ra phía trước giơ tay ra với, đã nắm luôn được bốn con phi đao.
Đột nhiên Ôn Nghi rú lên: "Trời ơi!" rồi gục mình nằm phục xuống đất. Một chiếc phi đao cắm trúng giữa lưng bà ta, ngập gần hết chuôi đao. Ôn Nghi ngã xuống bất tỉnh nhân sự ngay.
Tai biến xảy ra quá đột ngột, Thanh Thanh ôm lấy mẹ đỡ dậy và giơ tay định rút phi đao ra. Hoàng Chân vội cản lại:
- Không rút được! Rút ra là chết ngay!
Biết rõ những phi đao đó cho Minh Thi phóng ra, Thừa Chí quay tay ném trở lại, bốn chiếc phi đao đều nhằm thẳng người Minh Thi mà bay tới. Vội nằm xuống đất lăn đi mấy vòng tránh bốn con phi đao, Minh Thi vừa định đứng dậy đã thấy lưng và đùi bên phải bị tê liệt, lại ngã gục xuống đất. Ông ta là tay thiện ném phi đao, Thừa Chí biết rõ bốn con phi đao vừa ném ra, thế nào ông ta cũng tránh được cho nên chàng lại ném tiếp hai con cờ. Vì ghét ông ta quá độc ác, hai con cờ này chàng đều dùng sức nặng ném vào yếu huyệt nên Minh Thi chết giất liền.
Quay đầu lại, Thừa Chí thấy Thanh Thanh ngồi dưới đất ôm lấy mẹ, khóc không ra tiếng. Nhìn kỹ con dao cắm trên lưng Ôn Nghi, Thừa Chí biết không thể cứu được nữa, vội bóp hai bên sườn, bế huyệt đạo nơi đó, để bà ta đỡ bị đau khổ, đồng thời khiến cho máu tạm chạy chậm một chút. Ôn Nghi mỉm cười, nhìn Thanh Thanh nói:
- Thanh, con đừng khóc nữa! Thế là má được đi gặp ba con. Ở cạnh ba con, không ai dám bắt nạt má nữa.
Thanh Thanh vừa khóc vừa gật đầu lia lịa. Ôn Nghi nói với Thừa Chí:
- Viên tướng công, có một việc này, thế nào tướng công phải nói thật cho tôi hay. Đừng có giấu diếm tôi!
Thừa Chí ứa nước mắt trả lời:
- Chẳng hay bác muốn biết chuyện gì ạ?
- Nhà tôi có để lại di chúc không? Có nhắc nhở đến tôi không?
- Thưa bác, Hạ lão tiền bối có lưu lại một tí đồ hình dạy võ công. Hôm qua, sở dĩ cháu phá nổi Ngũ Hành trận là nhờ sử dụng phương pháp di truyền của Hạ lão tiền bối đấy! Như vậy cũng có thể gọi là cháu đã báo thù hộ ông ta, và chắc ông ta ở dưới chín suối cũng được nguôi giận một phần nào.
Ôn Nghi lại nói:
- Nhà tôi có viết thơ để lại cho tôi không?
Thừa Chí lắc đầu, Ôn Nghi thất vọng nói tiếp:
- Vì chàng ta ăn phải bát chè sen có pha thuốc mê nên mới bị mất hơi sức. Mà bát chè đó lại do chính tay tôi đưa cho chàng ăn. Nhưng quả thật, tôi không hề biết một tí gì cả.
Thừa Chí an ủi:
- Hạ lão tiền bối thể nào cũng biết rõ chuyện đó. Chắc ông ta không trách cứ bác đâu.
- Chắc chàng vì đau lòng quá nổi. Thể nào cũng trách tôi hãm hại ngầm chàng.
Bây giờ, tuy đã biết rõ nhưng cũng muộn mất rồi!
Thấy bà ta sắp chết đến nơi mà vẫn còn ân hận chuyện cũ, Thừa Chí định nói thêm vài câu an ủi, nhưng thấy bà ta yếu ớt dần hai tay đã từ từ buông xuôi, Thừa Chí sực nhớ tới tờ bản đồ ghi chỗ chôn của báu ở trong cuốn Bí kíp, trong đó có nhắc tới tên Ôn Nghi, vội móc túi lấy ra và nói:
- Mời bác xem tờ giấy này!
Lúc ấy mắt Ôn Nghi đã nhắm dần, lại từ từ mở to, tinh thần phấn chấn, rú lên:
- Phải chữ của chàng ta đấy! Tôi vẫn nhận được nét chữ của chàng mà.
Thấy bà ta bỗng nhiên hớn hở như đứa con nít, Thừa Chí phải động lòng thương xót. Ôn Nghi khẽ đọc mấy hàng chữ ghi bên cạnh bức bản đồ: "Người được bản đồ này... thể nào cũng xin tới làng Thạch Lương, phủ Từ Châu, tỉnh Triết Giang... tìm kiếm cho được Ôn Nghi... tìm kiếm cho được Ôn Nghi... Phải, Ôn Nghi là tôi đây!... tặng cho nàng mười vạn lạng vàng hộ tôi."
Nét mặt bỗng tươi tỉnh hơn trước, bà ta nắm lấy tay Thừa Chí, rồi nói tiếp:
- Chàng không trách cứ tôi! Tôi không cần lấy vàng, chỉ cần biết... lòng chàng vẫn còn thương nhớ tới tôi thôi! Chàng nhớ tôi!... Bây giờ tôi phải đi đây! Đi gặp chàng đây!...
Biết rằng hơi sức của bà ta đã đến lúc tận kiệt, Thừa Chí đang nói mấy lời an ủi Thanh Thanh, Ôn Nghi bỗng mở trừng đôi mắt, và nói:
- Viên tướng công! Có hai việc này... tôi muốn nhờ tướng công giúp cho... Thể nào tướng công cũng phải nhận lời nhé?
Thừa Chí trả lời:
- Xin bác cứ nói, việc gì sức cháu có thể làm được không bao giờ cháu dám từ chối.
- Việc thứ nhứt là: Tướng công chôn tôi ở cạnh chàng. Việc thứ hai... việc thứ hai...

Hồi 10

Thừa Chí vội hỏi:
- Việc thứ hai là gì? Xin bác nói luôn đi!
Ôn Nghi nói:
- Tướng công, hai người... hai người...
Lấy tay chỉ vào Thanh Thanh, Ôn Nghi đã hết hơi không nói tiếp được nữa, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống, chết liền. Thừa Chí để tay lại gần mũi bà ta thì không thấy thở nữa. Thanh Thanh nằm phục bên cạnh xác mẹ, khóc lóc, rồi vì đau đớn và bị cảm xúc quá nhiều, nàng chết giấc liền. Sợ hãi vô cùng, Thừa Chí vội kêu:
- Chú Thanh, chú Thanh!
Hoàng Chân nói:
- Nàng đau đớn quá nên ngất đi đấy thôi. Không sao đâu!
Rồi phun khói vào mũi Thanh Thanh. Chỉ thấy hắt hơi mấy cái nàng tỉnh lại dần dần, hai mắt lơ láo như người mất hồn vía.
Thừa Chí liền hỏi:
- Chú Thanh, chú đã đỡ chưa?
Nàng không trả lời. Hoàng Chân và Tiểu Tuệ không biết rõ sự quan hệ giữa Thừa Chí và mẹ con nàng ra sao, đều cảm thấy lạ lùng. Mọi người đều nghĩ thầm: "Mẹ con nàng hình như là người của phái Thạch Lương nhưng tại sao họ lại bị người nhà mưu hại như thế?"
Vì không hiểu rõ nông nổi, nên không ai dám thêm ý kiến. Thừa Chí ứa lệ nói:
- Chú Thanh! Chú phải đi với chúng tôi! Không thể ở đây được đâu!
Thanh Thanh vẫn ngơ ngác, chỉ gật đầu chớ không nói năng gì cả. ẵm xác Ôn Nghi lên, Thừa Chí dẫn đầu đi ra, còn Hoàng Chân, Thanh Thanh, Tiểu Tuệ, Hy Mẫn thì theo sau.
Bọn Minh Đạt thấy anh em Thừa Chí tự do thao túng, xử trí mọi việc và tự tiện đem cháu gái mình đi, đều tức giận vô cùng. Nhưng trận đấu hôm qua, đã khiến ai nấy đều kinh hồn, không dám bước ra ngăn cản nữa.
Hoàng Chân dặn bảo Hy Mẫn:
- Một trăm lạng bạc này, con đem tặng người chủ nhà đã cho bọn ta ngủ trọ, và bảo họ phải dọn nhà đi ngay tức thì.
Hy Mẫn không hiểu tại sao liền hỏi:
- Tại sao lại bắt người ta phải dọn nhà đi?
- Với chúng ta, phái Thạch Lương bất đắc dĩ phải chịu nhịn. Tất nhiên họ sẽ "giận cá chém thớt." Thế nào cũng đi kiếm người cho chúng ta ở trọ để hành hạ cho đỡ tức.
Hy Mẫn gật đầu:
- Sư phụ nghĩ chu đáo lắm!
Nói xong, chàng chạy như bay đi liền.
Bốn người chờ tới khi Hy Mẫn quay trở lại mới vòng theo con đường nhỏ, rời khỏi Thạch Lương. Đi được ba mươi dặm, thấy trên sườn núi có một ngôi miếu đã đổ nát, trên đầu cổng có ba chữ lớn "Linh Quan Miếu" nhưng trông rất lờ mờ không rõ.
Hoàng Chân lên tiếng:
- Hãy vào trong miếu nghỉ ngơi đã!
Bước vào căn miếu đó, thấy mạng nhện và cát bụi phủ đầy, đồ đạc mục nát gần hết, cả năm người vào giữa điện ngồi nghỉ. Hoàng Chân nói:
- Di thể của bà này bây giờ tính toán sao? Chôn cất ngay đây, hay là vào thành kiếm phu đòn để khâm liệm?
Thừa Chí cau mày, không nói năng gì cả. Hoàng Chân lại nói tiếp:
- Hay là vào thành mua chiếc quan tài khâm liệm cho bà ta? Quan phủ sẽ tra hỏi tại sao bà ta mất? Chúng ta tuy không sợ, nhưng dù sao cũng vẫn thấy phiền phức lắm.
Ý nghĩa lời nói của ông ta là nên chôn cất ngay tại đó. Thanh Thanh khóc lóc, rồi nói:
- Không được! Má em đã nói muốn được chôn cạnh mộ ba em kia mà!
Hoàng Chân hỏi:
- Di thể của lịnh tôn chôn cất ở đâu?
Thanh Thanh không trả lời được liền đưa mắt nhìn Thừa Chí. Thừa Chí hiểu ý đáp ngay:
- Chôn ở trên núi Hoa Sơn của chúng ta!
Nghe thấy chàng nói, bốn người đều ngạc nhiên, Thừa Chí lại nói tiếp:
- Phụ thân của nàng là Hạ lão tiền bối, xưa kia vẫn lừng danh là giang hồ quái kiệt Kim Xà Lang Quân đấy!
Tuổi Hoàng Chân cũng xấp xỉ tuổi Hạ Tuyết Nghi. Lúc ông bước chân vào giang hồ, oai danh của Kim Xà Lang Quân đã chấn động khắp chốn võ lâm rồi, nên khi nghe thấy Thừa Chí nhắc đến tên Kim Xà Lang Quân, Hoàng Chân ngồi trầm ngâm giây lát, rồi nói:
- Tôi có một ý kiến, cô nương nghe rồi đừng trách cứ tôi nhé?
Thấy Hoàng Chân là người có tuổi, Thanh Thanh đáp:
- Xin bác cứ dạy!
Hoàng Chân chỉ vào Thừa Chí:
- Chú ấy là sư đệ của tôi. Cô gọi tôi là bác, tôi đâu dám nhận. Thôi từ nay cô cứ gọi là đại ca đi!
Hy Mẫn trợn mắt nhìn Thanh Thanh trong bụng nghĩ thầm: "Như vậy ta phải gọi con nhãi ranh này là cô kia à?"
Thanh Thanh đưa mắt nhìn Thừa Chí như thầm hỏi ý kiến, rồi đổi luôn giọng xưng hô ngay:
- Hoàng đại ca đã dạy bảo, tiểu muội xin nghe theo!
Hy Mẫn giựt mình, tự bảo thầm: "Nguy to! Nguy to! Con nhỏ này thật thà quá đổi, đã gọi ngay thầy ta là Hoàng đại ca rồi!"
Thật quả lúc đó Hoàng Chân đâu có ngờ rằng trong đầu óc tên học trò ngốc ấy lại nghĩ lắm chuyện quá tự ái như thế? Ông ta liền nói với Thanh Thanh:
- Nếu ý định lệnh đường truyền lại, muốn được hợp táng với lệnh tôn, thì chúng ta cũng phải hoàn thành đúng như tâm nguyện của bà mới được. Nhưng ta tạm gác bỏ vấn đề khó khăn về sự chuyển vận linh cữu, từ đây tới Hoa Sơn xa xôi hàng nghìn dặm, không nói tới vội. Hãy nói tới vấn đề, dù linh cữu đã tới chân núi Hoa Sơn rồi, cũng không sao khiêng nổi lên trên đỉnh núi kia mà!
Thanh Thanh hỏi:
- Vậy biết làm sao được bây giờ?
Thừa Chí nói:
- Núi Hoa Sơn hiểm trở khó lên lắm, người nào hơi kém võ công là không thể lên được tới đỉnh. Còn vấn đề chuyển vận linh cữu thì không có cách gì làm nổi.
Hoàng Chân nói:
- Ngoài ra, còn có một cách là đem hài cốt của lệnh tôn xuống dưới hợp táng với lệnh đường. Nhưng di hài của lệnh tôn đã an táng bao nhiêu lâu rồi, nay bỗng dưng lại động chạm tới tôi e không tiện.
Thấy lời nói đó hợp tình hợp lý lắm, Thanh Thanh lo quá khóc lóc và hỏi:
- Vậy biết làm thế nào bây giờ?
Hoàng Chân nói:
- Theo ý tôi thì bây giờ chỉ có cách hỏa thiêu di thể của lệnh đường, rồi đưa đống tro hài cốt lên trên đỉnh núi an táng, là thuận tiện và hoàn hảo hơn cả.
Tuy không muốn làm như thế, nhưng Thanh Thanh cũng không nghĩ ra được cách nào khác tốt hơn, đàng phải ngậm lệ gật đầu. Thế là mọi người đi nhặt củi và cỏ khô, hỏa thiêu di hài của Ôn Nghi. Từ thuở lọt lòng mẹ, rồi từ bé đến lớn, Thanh Thanh hoàn toàn sống trong một đại gia đình luôn chỉ độc có những tình cảm lạnh lùng và vô tình bao vây xung quanh. Ngoài người mẹ ra không có một người nào thật tâm thương yêu nàng cả. Suốt ngày, chỉ bị người ta nhạo báng, chế diễu, và khinh khi, vì vậy nàng mới có những tánh nết quái dị như thế. Bây giờ trông thấy người mà nàng yêu mến nhứt đời dần dần tiêu tan trong đống lửa hồng, nàng mới quá thương cảm mà phục xuống đất khóc lóc thảm thiết. Mọi người biết không thể nào khuyên can và an ủi nổi, đành để cho nàng khóc lóc cho thật đã đời, như thế mới có thể làm tan hoặc vơi bớt đi một phần nào những sự tấm tức, nhớ thương trong lòng.
Vào trong miếu đổ nát, kiếm được một cái hũ sành, chờ cho đống lửa tắt hẳn, Thừa Chí nhặt hài cốt bỏ vào, đoạn vái hai vái, miệng lẩm nhẩm khấn:
- Xin bác cứ yên tâm, thế nào cháu cũng đưa tro hài cốt này lên trên đỉnh núi Hoa Sơn an táng, cháu quyết không phụ lời phó thác của bác!
Thấy mọi việc đã xong xuôi, Hoàng Châu bảo Thừa Chí rằng:
- Chúng ta phải đem số vàng này đến trấn Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Sấm Vương đã phái rất nhiều anh em liên lạc khắp các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Giang Tây, Hà Nam, để chờ đợi lúc Trung Nguyên khởi sự là phía Nam cũng khởi nghĩa hưởng ứng. Viên sư đệ cướp lại được số vàng này, thật là công của sư đệ lớn lắm!
Thanh Thanh nói:
- Quả thật tiểu muội không biết số vàng này lại quan trọng như vậy! Nếu không có hai vị đại ca ra cướp lại, có phải đã làm lỡ hết đại sự Sấm Vương rồi không?
Thôi Hy Mẫn nói:
- Quý hồ cô biết được là may mắn lắm rồi!
Không bao giờ chịu thua ai bằng lời nói nào cả, Thanh Thanh trả đũa ngay:
- Nếu Hoàng đại ca không thân chinh hộ tống số vàng này em e rằng dọc đường còn xảy ra nhiều chuyện nữa đấy!
Lời nói đó ám chỉ Hy Mẫn và Tiểu Tuệ đã bất lực, hộ tống không nổi số vàng này, nên mới để cho nàng cướp được. Hy Mẫn định trả lời chỉ trích lại, nhưng Hoàng Chân đã ra lệnh ngầm bằng mắt, cấm không cho hắn được nói nữa. Một lát sau, Hoàng Chân nói với Thừa Chí và Thanh Thanh:
- Viên sư đệ và Ôn cô nương không bận việc gì, cùng đi cả với chúng tôi tới Cửu Giang cho vui?
Thừa Chí đáp:
- Tiểu đệ muốn lên Nam Kinh chào sư phụ, xem sư phụ có sai bảo gì không? Và cũng nhân tiện đi thăm Thôi thúc thúc một thể.
- Sư phụ và chú Thôi Sơn đã trở về Thiểm Tây rồi. Lúc này quân vụ khẩn cấp lắm.
Việc Sấm Vương đại tấn công, chỉ nội nay mai là phát động rồi.
Thừa Chí giựt mình nghĩ thầm: "Đó là thời cơ thuận tiện để trả thù cho cha ta đây!"
Mắt đỏ ngầu, chàng nói:
- Nếu vậy, tiểu đệ phải về ngay Thiểm Tây yết kiến sư phụ, không đi Cửu Giang nữa. Đại ca nghĩ sao?
Chàng rất tôn trọng sư huynh nên việc gì cũng phải hỏi qua ý kiến sư huynh trước.
Hoàng Chân nói:
- Sấm Vương đại cử tấn công, cần dùng rất nhiều nhân tài. Tài ba lỗi lạc như sư đệ, nếu ra phò tá Sấm Vương thì còn gì tốt bằng. Sau này, vì dân diệt trừ gian tặc, chú sẽ phải vất vả nhiều!
- Xin đại sư huynh dạy bảo cho!
- Chú lễ phép quá. Thôi chúng ta hãy tạm biệt nhau tại nơi đây!
Hoàng Chân nói xong, quay đầu đi luôn, Hy Mẫn cũng chào bái biệt sư thúc. Tiểu Tuệ nói với Thừa Chí:
- Thừa Chí đại ca! Chúc anh lên đường mạnh giỏi!
Thừa Chí gật đầu, nói:
- Tôi xin gửi lời hỏi thăm thím An. Chúc cô thượng lộ bình an!
- Má em vẫn nhắc nhở tới anh luôn. Nếu biết anh trở nên vạm vỡ và tài hoa thế này, má em thế nào cũng vui sướng khôn xiết tả. Thôi, em đi đây!
Vái chào Thừa Chí xong, Tiểu Tuệ vội vàng đuổi theo Hoàng Chân và Hy Mẫn, cùng đi về phía Nam. Vừa đi, nàng vừa quay đầu lại vẫy tay chào, Thừa Chí cũng giơ tay chào lại, cho tới khi khuất bóng ba người mới thôi.
Thanh Thanh "hừ" một tiếng rồi nói:
- Sao anh không đuổi theo vẫy tay chào nữa đi?
Thừa Chí đứng ngẩn người giây lát, không hiểu ý nghĩa lời nói móc của nàng.
Thanh Thanh lại nói:
- Sao anh không theo cô ta đi? Mà cứ vẩn vơ luyến tiếc mãi không dứt thế này?
Thừa Chí lúc này mới hay, vì lẽ đó mà nàng tức giận, liền vừa cười vừa nói:
- Hồi nhỏ tôi ngộ nạn, được má cô ta cứu giúp. Tôi và cô ta quen biết nhau từ hồi còn nhỏ và cũng vui chơi một nơi, vẫn quý mến nhau như anh em một nhà.
Thanh Thanh càng tức giận thêm, cầm một hòn đá, cứ đập bừa vào thềm đá, đom đóm lửa bật tung lên. Một lát sau, nàng liền nói kháy rằng:
- Thế mới gọi là "Thanh mai trúc mã", quen biết nhau từ tuổi còn thơ chứ gì?
Cảm thấy tính nết cô nọ bướng bỉnh, không thể dùng lý lẽ khuyên can nổi, Thừa Chí chỉ có cách làm thinh.
Thanh Thanh giận dữ nói:
- Tại sao anh với cô ta chuyện trò tươi cười như thế? Mà với em thì cứ lỳ lỳ chẳng nói chẳng rằng!
- Tôi vẫn vui vẻ trò chuyện đấy chớ!
- Phải, má người ta tốt lắm, lúc anh còn nhỏ đã cứu anh, thương anh. Còn tôi thì không có má như người ta!
Nói tới đó, Thanh Thanh lại để cho giọt lệ tuôn rơi. Thừa Chí vội khuyên giải rằng:
- Thôi, cô đừng nên giở cái tánh tiểu thơ ra nữa. Chúng ta cần phải bàn định xem sau này chúng ta phải làm những gì.
Mặt đang nhợt nhạt, bỗng dưng đỏ liền, Thanh Thanh nói:
- Còn bàn định cái gì nữa? Anh thì đuổi theo em Tiểu Tuệ. Còn tôi, kẻ đau khổ này, sẽ đi phiêu bạt nơi chân trời góc biển.
Thừa Chí không biết trả lời ra sao, trong lòng suy tính, bây giờ làm thế nào mà xếp đặt cho cô bé trẻ tuổi này được yên ổn? Quả thật là nan giải! Thấy chàng khôngnói năng gì cả, Thanh Thanh đứng dậy, bưng luôn cái chĩn đựng tro hài cốt của mẹ, quay đầu đi thẳng. Thừa Chí vội hỏi:
- Em đi đâu thế?
Thanh Thanh nói:
- Anh để mặc tôi!
Nàng cứ theo phương Bắc mà đi. Bất đắc dĩ, Thừa Chí đành phải theo sau. Suốt dọc đường, nàng không nói năng nửa lời, Thừa Chí có ý gợi chuyện, nàng vẫn làm thinh như thường.
Khi tới trấn Kim Hoa, Thanh Thanh mua mũ và quần áo, cải trang đàn ông. Biết nàng ra đi vội vàng, bên người tất không sẵn tiền, nhân lúc nàng đi phố, Thừa Chí nhét hai thoi vàng vào trong bọc áo của nàng. Khi trở về, nàng lại đem vàng sang trả chớ không chịu lấy. Đêm hôm đó, nàng làm đạo chích trộm được năm trăm lạng bạc tại một nhà phú hộ nọ. Sáng hôm sau, vụ án đó đã đồn khắp thành Kim Hoa.
Thừa Chí biết nàng đã ra tay hành động, chỉ có chau mày lắc đầu, chớ không dám trách móc nàng nửa lời. Dù là người có võ công thượng thặng thật, nhưng đối phó với một cô gái khó tánh như vậy, Thừa Chí cũng phải bó tay chịu hàng.
Muốn dùng lời lẽ êm dịu để van lơn nàng, thì chàng không muốn mất sĩ diện như thế! Còn bỏ mặc nàng, không đếm xỉa tới nữa, Thừa Chí không đành nhẫn tâm để cho một thiếu nữ cô đơn phải đi lang bạt giang hồ. Nghĩ lui nghĩ tới, chàng không biết làm thế nào cho phải.
Hôm đó, hai người rời khỏi thành Kim Hoa, đang đi về Thành Nghĩa. Ôn Thanh Thanh hậm hực đi trước, Thừa Chí vẫn lẽo đẽo theo sau. Bỗng mây đen kéo tới, hai người đều biết trời sắp mưa to, vội rảo cẳng đi cho mau. Nhưng mới đi được năm dặm, mưa đổ xuống như thác nước. Thừa Chí tánh cẩn thận, lúc nào cũng đem theo chiếc dù.
Còn Thanh Thanh ngại cầm dù phiền phức, nên không đem theo đành phải giở khinh công ra chạy. Bực nhứt hai bên đường không có đình miếu gì cả. Thấy nàng dùng khinh công phóng chạy, Thừa Chí cũng phải rảo cẳng đuổi theo. Khi tới cạnh nàng, liền đưa dù cho nàng dùng nhưng nàng đẩy dù ra không cầm.
Thừa Chí nói:
- Chú Thanh, chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề sống chết có nhau, họa phúc cùng chịu, tại sao bây giờ chú lại giận anh như thế?
Thấy chàng nói như vậy, Thanh Thanh bớt giận trả lời:
- Anh muốn tôi không giận, phải nghe theo tôi một điều này.
- Chú cứ nói đi, mười điều anh cũng xin theo.
- Từ nay trở đi, anh không được gặp mặt An cô nương và má cô ta nữa. Nếu anh nhận lời, em xin lỗi anh ngay.
Nói xong, nàng nhếch mép cười liền. Thừa Chí khó xử quá, chàng nghĩ thầm: "Mẹ con nàng Tiểu Tuệ có ơn với mình, sau này thế nào ta cũng kiếm cách báo đền. Nay vô duyên, vô cớ tránh mặt không gặp người ta, như thế sao được."
Chàng là người thật thà trung thành, không thể lừa dối nàng mà cứ nhận bừa đi cho được êm chuyện. Vì vậy, chàng phân vân không biết trả lời thế nào cho phải. Thấy thế, Thanh Thanh giở mặt liền:
- Tôi biết mà, có khi nào anh nỡ bỏ em Tiểu Tuệ của anh!
Nói xong, nàng lại quay đầu chạy thẳng. Thừa Chí vội gọi:
- Chú Thanh, chú Thanh!
Thanh Thanh cứ cắm đầu chạy, không chịu đứng lại. Chạy được một quãng, thấy bên đường có cái đình nghỉ mát, nàng chạy thẳng vào. Thừa Chí cũng chạy theo vào.
Trời nóng nực, nàng lại mặc áo đơn rất mỏng, nay bị nước mưa ướt đẫm, áo quần dính sát vào người, trông rất khó coi, nàng xấu hổ quá, gục đầu xuống lan can đình vừa khóc vừa kêu gào:
- Anh cứ bắt nạt tôi! Anh cứ bắt nạt tôi!
Thừa Chí nghĩ: "Lạ thật! Mình có bắt nạt nàng hồi nào đâu?"
Tuy vậy, chàng vẫn chịu đựng không cãi lại, cởi áo dài ra, phủ lên trên người nàng. Nhờ chiếc dù, áo chàng không bị ướt. Nghĩ đến cái chết bi đát của mẹ nàng, nàng lại càng khóc lớn hơn trước. Thừa Chí cuống quít cả lên, không biết làm thế nào cho phải. Một lát sau, mưa tạnh dần, Thanh Thanh vẫn khóc không dứt. Nàng đưa mắt nhìn trộm thì Thừa Chí đang nhìn mình, vội quay đầu tiếp tục khóc như trước. Thừa Chí đành liều không nói gì nữa, và nghĩ thầm: "Thử xem cô có bao nhiêu nước mắt nào?"
Hai người đang cầm cự không ai chịu đấu dịu trước, bỗng có tiếng chân ở phía Bắc đi tới. Một thanh niên nhà nông đỡ một thiếu phụ đi vào trong đình. Thiếu phụ đó đang đau ốm, rên rỉ luôn mồm.
Nông dân nọ hình như là chồng nàng, ra vẻ rất thương vợ, cứ an ủi luôn mồm. Thấy có người lạ vào, Thanh Thanh vội nín ngay.
Thừa Chí sực nghĩ ra một kế: "Ta thử cách này xem."
Một lát sau, đôi vợ chồng nhà nông đỡ nhau đi ra khỏi đình. Thanh Thanh thấy mưa đã tạnh hẳn, đang định sửa soạn đi, Thừa Chí bỗng kêu:
- Ối chà! ối chà!
Thanh Thanh giựt mình sợ hãi, quay đầu lại, trông thấy chàng đang ôm bụng ngồi xụm xuống, vộ chạy lại xem. Nhờ nội công tinh xảo, Thừa Chí chỉ vận hơi một cái là đầu trán mồ hôi chảy ra như tắm. Thanh Thanh sợ quá, vội hỏi:
- Làm sao thế? Anh đau bụng đấy à?
Thừa Chí nghĩ thầm: "Đã giả bộ thì phải giả bộ tới cùng."
Nghĩ đoạn, chàng vận lại hơi làm bế tắc các yếu huyệt lại, Thanh Thanh sờ tay chàng thấy lạnh như sắt đá càng hoảng sợ thêm.
Thấy Thừa Chí bỗng đau nặng, Thanh Thanh sợ hãi quá, vội hỏi:
- Anh làm sao thế? Đau ở đâu?
Thừa Chí chỉ rên ầm ĩ chớ không chịu trả lời nàng. Lo sợ quá, Thanh Thanh lại khóc.
Thừa Chí nói:
- Chú Thanh ơi! Bịnh của tôi không khỏi được đâu. Chú để mặc tôi. Chú cứ lên đường một mình đi!
- Sao bỗng tự dưng anh lại đau thế này!
Thừa Chí làm ra bộ yếu hơi yếu sức trả lời:
- Từ thuở nhỏ, tôi có chứng bịnh là... không thể nào chịu nổi sự tức tối được... nếu ai làm tôi bực mình, lo nghĩ một cái, là đau tim đau bụng liền... ối trời ơi! Đau quá!
chết mất thôi!
Lúc này, không còn để ý tới "nam nữ thọ thọ bất thân" nữa, Thanh Thanh ôm choàng lấy chàng, xoa ngực xoa bụng luôn tay. Bị nàng ôm như vậy, Thừa Chí ngượng quá, đành phải để yên, chớ không dám kháng cự, Thanh Thanh vừa khóc vừa nói:
- Thừa Chí đại ca ơi! Do em mà nên cả. Xin anh đừng giận em nữa!
Thừa Chí nghĩ: "Nếu ta không tiếp tục giả bộ, nàng sẽ cho ta là người không đứng đắn, mượn thế cầu lợi."
Đã cỡi trên lưng hổ, chàng đàng phải cúi đầu rên rỉ:
- Có lẽ tôi chết mất! Chú chôn cất tôi xong, làm ơn báo tin cho đại sư huynh tôi hay!
Càng giả dạng, càng làm như thật, chàng cứ phải cố nhịn cho khỏi phì cười.
Thanh Thanh vẫn khóc:
- Anh không thể chết được! Anh có biết đâu, em giả bộ hờn giận để chọc tức anh đấy chớ! Sự thật, lòng em... lòng em vẫn yêu anh. Nếu anh chết, em cũng không thể nào sống được nữa!
Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: "Thế ra, nàng đã yêu ta!"
Đây là lần đầu tiên mà chàng được hiểu thế nào là hương vị của ái tình, nên trong lòng chàng có một cảm giác lạ lùng là vui mừng và cũng là xấu hổ. Vì vậy, chàng cứ ngây người ra, không nói nửa lời. Tưởng chàng sắp chết đến nơi thật, nàng càng ôm chặt lấy chàng, miệng thì kêu gọi:
- Đại ca! Đại ca đừng chết!
Ngửi thấy hơi thở của nàng thơm của hoa lan, chàng buông nhũn người tựa vào lòng nàng, ngây ngất như kẻ mất hết hồn vía. Nhưng chàng giựt mình tỉnh ngộ ngay, tự bảo thầm: "Thù cha chưa trả, không thể nào nghĩ tới tình yêu được. Vả lạ, ta là đại trượng phu quanh minh chánh đại, không nên lừa gạt một thiếu nữa yếu đuối như thế!"
Lúc ấy, Thanh Thanh lại gọi:
- Em tức giận giả dối đấy, anh đừng có cho là thật.
Thừa Chí cả cười rồi nói:
- Tôi cũng ốm đau giả dối đấy, em đừng có cho là thật!
Thanh Thanh ngẩn người giây lát bỗng đứng dậy, tát luôn một cái. Bị đánh mạnh quá, mắt Thừa Chí hoa lên, chỉ trông thấy những tia lửa. Thanh Thanh ôm mặt, cúi đầu đi liền. Thừa Chí ngơ ngác không hiểu tại sao, nghĩ thầm: "Vừa rồi, nàng nói yêu ta lắm, nếu ta chết nàng cũng không thể sống! Sao bỗng dưng nàng giở mặt đánh ta như vậy?"
Chàng không hiểu thấu tâm sự của nàng, cứ đi theo sau. Tát chàng một cái, cơn giận đã dịu bớt hẳn, nàng cảm thấy khoái vô cùng. Trông thấy má bên trái của chàng đỏ gay và hiện rõ vết năm ngón tay của mình, Thanh Thanh rất ân hận nhưng cũng khoái chí nữa. Nghĩ tới đã vô ý thổ lộ hết tâm sự với chàng, nàng cảm thấy vừa xấu hổvừa khó chịu. Chiều tối hôm đó, đi tới Nghĩa Ô, nàng vào trọ một khách điếm, rồi ra ăn cơm. Thừa Chí cũng ngồi vào bàn ăn đó, Thanh Thanh mỉm cười:
- Cứ mặc đây đi, theo sát người ta thế này thật đáng ghét quá!
Thừa Chí sờ má rồi nói:
- Bụng tôi đau là đau giả hiệu, còn cái má này mới đau thật sự.
Thanh Thanh khoái chí cười ồ, thế là hai người lại hòa hảo như trước. Cơm xong, trò chuyện phiếm một lúc, rồi ai về phòng người nấy ngủ. Thấy chàng đối xử với mình hòa nhã và có lễ độ như vậy, Thanh Thanh mừng thầm.
Sáng ngày hôm sau, vừa ngủ dậy, Thừa Chí nói:
- Chú Thanh, việc thứ nhứt chúng ta phải làm là đưa hài cốt bác gái lên núi Hoa Sơn an táng.
- Vâng, nhưng tại sao anh tìm ra được di cốt của ba em thế?
- Chuyện này để khi đi đường, tôi nói cho mà nghe.
Hai người đi về phía Bắc, Thừa Chí đem chuyện con đười ươi (khỉ đột) làm thế nào tìm thấy hang núi, rồi chàng vào trong hang, trông thấy xương cốt, đào thấy hộp sắt và họa đồ, vân vân, kể cả cho nàng nghe.
Thừa Chí vừa kể tiếp tới chuyện Trương Xuân Cửu và tên hòa thượng, Thanh Thanh liền rùn mình sợ hãi nói:
- Tên Trương Xuân Cửu là đồ đệ của ông Tư em, tánh rất gian ác. Còn tên hòa thượng đó có phải giữa mặt có cái thẹo không?
- Phải chính y đấy.
- Tên y là Ngộ Ân, đồ đệ của ông Hai em. Từ khi ba em mất tích, các ông em phái mười mấy đệ tử đắc lực đi tìm kiếm khắp mọi nơi. Cứ cách ba năm, chúng phải về báo cáo một lần. Hai tên ấy độc ác, gian xảo khôn tả. Chúng chết như vậy thật là đáng lắm!... Ba em mất rồi mà còn dùng kế giết được kẻ địch, thật là tài ba quá!
- Sau khi họ biết tôi có chút liên quan với bác trai, thế nào chúng cũng sẽ lùng kiếm tôi thật ráo riết.
- Nhưng họ có đủ tài hạ nổi anh đâu mà anh phải lo ngại? Nếu ba em còn sống, trông thấy anh đánh họ tơi bời như vậy, thế nào cũng mừng lắm... Ừ, phải đấy, má em đã trông thấy, thể nào cũng kể lại cho ba em hay... anh đưa cho em xem bút tích của ba em!
Thừa Chí đưa bức họa đồ cho nàng xem, rồi nói:
- Đây là vật của ba chú để lại, tôi trao trả cho chú mới phải.
Trông thấy bút tích của Kim Xà Lang Quân, Thanh Thanh vừa đau lòng, vừa vui mừng. Từ đó, hễ đến nơi nào nghỉ chân là nàng lấy bức họa đồ ra xem và vuốt ve. Một hôm, đi tới Tùng Giang, Thanh Thanh bỗng hỏi:
- Đến Nam Kinh, chúng ta hãy đi đào bảo vật trước nhé?
Thừa Chí ngạc nhiên:
- Bảo vật nào?
Thanh Thanh nói:
- Bức họa đồ của ba em chẳng nói rõ: "Trọng bảo chi đồ" là gì? Ba em còn dặn, người nào tìm kiếm được vật báu phải tặng lại cho má em mười vạn lạng vàng. Như vậy, những bảo vật chôn giấu kia tất phải quý giá lắm?
Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí đáp:
- Tuy vậy nhưng chúng ta hãy nên làm việc chánh đáng của ta trước đã!
Lúc này, trong lòng chàng chỉ muốn gặp sư phụ xong là đi báo thù cho cha ngay.
Thanh Thanh nói:
- Bây giờ đã có sẵn họa đồ, chúng ta đi kiếm ngay số châu báu kia, em thiết tưởng chả mất bao nhiêu thời giờ của chúng ta đâu!
- Chúng ta lấy được châu báu, vàng bạc bây giờ để làm gì? Chú Thanh, tôi khuyên chú nên thay đổi hẳn tâm tính, đừng nên tham vọng vào những của báu ấy!
Tiếp theo đó, chàng còn khuyên Thanh Thanh một hồi nữa. Nàng bực mình, bĩu môi, phồng mồm, hờn giận và không ăn cơm chiều.
Thanh Thanh nói:
- Đại ca! Em mới lấy có hai nghìn lạng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sợ đến nỗi phải nhờ đại sư huynh của anh thân chinh đi lấy lại! Tại sao Sấm Vương lại keo kiệt đến thế?
- Sấm Vương có phải là người keo kiệt như chú tưởng đâu! Anh đã được gặp ông ta rồi. Là người rất khinh tài trọng nghĩa, ông ta chỉ lo giải trừ đau khổ cho dân chúng.
Còn riêng ông ta thì rất tiết kiệm. Đó mới thật là đại anh hùng, đại hào kiệt. Số vàng hai nghìn lạng đó, ông ta đang cần dùng tới, tất nhiên không khi nào chịu để cho mất đi một cách dễ dãi như thế!
Thanh Thanh nói:
- Anh nói rất phải. Nếu chúng ta dưng cho ông ta hai vạn lạng vàng, hoặc là hai trăm vạn lạng vàng, hai nghìn vạn lạng vàng. Anh bảo như thế có nên không?
Một lời cảnh tỉnh Thừa Chí, chàng mừng quá, quên cả phép tắc, nắm chặt lấy hai tay Thanh Thanh:
- Chú Thanh, tôi thật u mê quá. May là có chú nhắc nhở cho, thật cám ơn chú quá!
Thanh Thanh rút tay lại, trả lời:
- Em không dám! Sau này chỉ mong anh ít chửi bới là em được mãn nguyện lắm rồi!
Thừa Chí vội cười nịnh:
- Nếu chúng ta đào được số vàng bạc châu báu đó, đem đến cho Sấm Vương thì không khác gì chúng ta đã ban ân huệ cho dân chúng.
Hai người ngồi bên bờ đường, giở họa đồ ra xem cho kỹ, thấy trong họa đồ có vẻ một khuyên đỏ, bên cạnh có chú thích: "Ngụy Quốc Công Phủ" bốn chữ.
Thừa Chí nói:
- Bảo tàng ở dưới đất một căn phòng hoang trong phủ Ngụy Quốc Công, đào xuống khá sâu, mở tấm phản bằng sắt lên, thấy mười chiếc hòm bằng sắt rất lớn. Đó là những hòm vàng bạc châu báu đấy...
- Bây giờ, chúng ta tới Nam Kinh, kiếm được Ngụy Quốc Đồng phủ là lấy được kho tàng đó ngay.
- Ngụy Quốc Công là phong hiệu của Đại tướng quân Từ sử. Ông ta là vị đại thần có công nhứt với bổn triều. Vậy thì phủ của ông ta phải to lớn lắm. Dù vào được trong phủ, chúng ta đào lấy kho tàng kếch sù ấy, cũng không phải là chuyện dễ.
- Bây giờ chúng ta cứ đoán suông, tính hão mãi cũng vô cùng. Chi bằng hãy tới Nam Kinh trước, rồi tùy cơ ứng biến sau.
Mấy ngày sau, hai người đã đi tới thành Nam Kinh. Nơi đây thành phố lớn nhứt nước Trung Hoa, và cũng là chỗ khai cốt kiến lập thủ đô của Minh Thái Tổ. Ngoài thành lại có các lăng tẩm của các vua chúa triều nhà Minh. Lúc này, tuy gặp thời loạn, Nam Kinh vẫn phồn hoa vô cùng. Hai người giả dạng nhân đến Nam Kinh thăm bạn, vào nghỉ chân trong một khách điếm.
Thừa Chí gọi phổ ky vào, hỏi thăm đường lối đi Ngụy Quốc Công phủ. Phổ ky ngơ ngác trả lời là, Nam Kinh không có phủ Ngụy Quốc Công.
Thanh Thanh nổi giận, mắng chửi liền:
- Ngụy Quốc Công là đệ nhất đại công thần của bốn triều, sao lại không có Quốc Công phủ?
Phổ ky trả lời:
- Nếu là có thì mời tướng công cứ đi tìm kiếm, tiểu nhân quả thật không hay biết.
Thấy phổ ky cãi bướng, Thanh Thanh giơ tay định đánh. Thừa Chí vội cản lại.
Phổ ky lẩm bẩm đi ra liền.
Tìm kiếm bảy, tám ngày liền, hai người vẫn chưa tìm thấy Quốc Công phủ. Nóng lòng báo thù, Thừa Chí định tạm gác sang một bên không tìm kiếm nữa. Nhưng Thanh Thanh cứ cương quyết không chịu. Hai người lại dò hỏi thêm năm, sáu ngày, ai ai cũng nói con cháu của Tứ đại tướng quân hiện được lập phong Vương tước, giữ binh quyền thành Nam Kinh, Vương phủ của Vương tước đang ở mới xây dựng mấy năm, chớ không ai biết Ngụy Quốc Công là gì cả, Thanh Thanh liền đề nghị nên vào Vương phủ dò thám xem.
Thừa Chí cực lực phản đối và giải thích rằng: Vương phủ đó mới xây, bảo rằng nhứt định không có ở trong đó. Mà dù kho tàng có ở trong đó đi nữa, sức hai người làm sao lấy nổi số châu báu lớn lao ấy? Lỡ để cho Vương tước biết tin, cho người đào lấy, có phải là mất chỗ kho tàng ấy không? Thấy chàng nói có lý, Thanh Thanh đành phải nghe theo.
Hôm đó, hai người mướn chiếc thuyền đi chơi sông Tần Hoài cho đỡ buồn.
Thừa Chí nói:
- Chúng ta tìm kiếm thêm một ngày nữa. Nếu không thấy là chúng ta phải bỏ đi đấy nhé!
- Không! Phải kiếm thêm ba ngày nữa cơ!
Lúc ấy, trên mặt sông tiếng đàn ca hát nổi lên khắp nơi, Thanh Thanh cao hứng uống vài chén rượu, hai má đỏ bừng, dưới ánh sáng đèn trông nàng càng xinh đẹp thêm.
Thừa Chí cười nói:
- Thôi được, tôi bằng lòng ba ngày vậy!
Thấy thuyền bên cạnh đang có tiếng ca hát véo von, Thanh Thanh cao hứng vì hơi rượu đã bốc, vừa cười vừa nói với Thừa Chí:
- Đại ca, chúng ta cũng gọi hai cô đào đến ca hát cho vui nhé?
Là người quân tử, thấy Thanh Thanh đề nghị gọi kỹ nữ hầu rượu, Thừa Chí mặt đỏ bừng, trả lời:
- Chú uống say rồi phải không? Sao bỗng dưng lại muốn bậy bạ như thế?
Các phu thuyền chỉ mong khách du ngoạn gọi kỹ nữ hầu rượu và ca hát để được kiếm thêm tiền hoa hồng, liền lên tiếng:
- Các tướng công đến sông Tần Hoài chơi đều kêu gọi các cô hầu rượu. Nếu tướng công quen biết cô nào, xin cho biết để cháu đi mời?
Thừa Chí vội xua tay lia lịa:
- Không, không gọi đâu!
Thanh Thanh hỏi:
- Trên sông này có những cô nào nổi tiếng nhứt?
Phu thuyền đáp:
- Thưa tướng công, ở sông Tần Hoài này có bốn cô là: Điền Ngọc Kính, Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển và Lý Hương Quân là nổi danh nhứt. Cô nào cũng giỏi thơ phú, viết chữ đẹp, đều được nổi tiếng là nữ tú tài!
Thanh Thanh nghĩ ngợi giây phút rồi mới nói:
- Bác mời hộ tôi hai cô Liễu Như Thị và Đổng Tiểu Uyển.
Phu thuyền rụt đầu, thè lưỡi đáp:
- Có lẽ tướng công lần đầu tiên đến thành Kim Linh này chắc?
Thanh Thanh hỏi:
- Mới đến thì sao?
- Những cô nổi danh ấy chỉ kết giao với vương tôn công tử và nho sĩ thôi, chớ những nhà buôn muốn gặp mặt các cô ấy dù có cho người gánh núi vàng núi bạc đi thỉnh, chưa chắc đã mời được các cô ấy tới.
Thanh Thanh nổi giận:
- Thân làm kỹ nữ mà họ cũng làm bộ làm phách đến thế à?
Phu thuyền lại nói:
- Sông Tần Hoài này còn nhiều cô khác cũng đẹp, cũng tài ba, để cháu mời hai cô tới hầu hai vị tướng công nhé?
Thừa Chí nói:
- Hôm nay chúng tôi có việc bận sắp phải đi ngay. Mai mốt chúng tôi trở lại du ngoạn, sẽ nhờ bác thỉnh giúp hộ các cô ấy.
Thanh Thanh cười nói:
- Em còn muốn ở lại chơi thêm lát nữa.
Nói đoạn, nàng quay lại dặn bảo phu thuyền rằng:
- Bác cứ đi thỉnh hộ tôi!
Người phu thuyền chỉ mong được khách dặn bảo như vậy. Y liền cất cao giọng gọi vài tiếng. Một lát sau, một chiết thuyền hoa ở bên bờ chèo tới. Hai kỹ nữ vào hạnh có nhan sắc bắc cầu bước sang cúi đầu vái chào Thừa Chí và Thanh Thanh. Tỏ vẻ ngượng ngịu, Thừa Chí vội đứng dậy đáp lễ lại. Thấy chàng có vẻ quê mùa cục mịch như vậy, Thanh Thanh buồn cười quá, nhưng cứ phải cố nhịn. Hai kỹ nữ đó chỉ là hạng tầm thường, một nàng thổi sáo và một nàng ca một bản tiểu khúc, có thế thôi.
Cảm thấy khó nghe, Thanh Thanh cứ cau mày lắc đầu. Thừa Chí khẽ oán trách:
- Chú càng quấy rầy, càng không ra cái thể thống gì?
Thanh Thanh vừa cười vừa khẩn khoản:
- Mắng chửi như thế đã đủ chưa? Để em thổi một bản tiêu anh nghe nhé?
Nói xong, nàng mượn chiếc sáo của nàng kỹ nữ, lấy khăn tay thấm rượu, lau chùi sạch sẽ miệng ống sáo, rồi mới kề miệng thổi. Quả thật âm điệu khác hẳn với nàng kia.
Khi còn ở Thạch Lương, Thừa Chí đã được thưởng thức tiếng thổi ấy rồi. Còn hai nàng kỹ nữ kia, nghe thấy nàng thổi hay quá, đều ngẩn người ra nghe.
Trong lúc mọi người đang nghe Thanh Thanh thổi sáo, không để ý tới một chiếc hoa thuyền lớn vừa chèo đến sát bên, rồi bên có tiếng cười ha hả và tiếng nói thật lớn vọng sang:
- Thổi hay quá! Hay quá!
Vừa dứt lời khen, đã có ba người nhảy sang. Thấy có người đến quấy nhiễu, Thanh Thanh liền nổi giận, để ống tiêu xuống, liếc mắt nhìn thấy người đi đầu cầm quạt phe phẩy, mặc tơ gấm vóc, trạc độ ba mươi tuổi, mày rậm mắt nâu, mặt ngang phè phè. Hai người theo sau là gia đinh, tay cầm đèn lồng, trên đề ba chữ: "Tổng Đốc phủ"
Thừa Chí vội đứng dậy chắp tay chào nghênh đón. Hai nàng kỹ nữ đã quỳ xuống và lạy. Thanh Thanh vẫn cứ ngồi yên như trước. Vừa cười vừa bước vào trong khoang thuyền, người đi đầu lên tiếng nói:
- Tôi sang quấy phá thế này thật không phải!
Nói xong, y bệ vệ ngồi xuống, Thừa Chí hỏi:
- Xin Ngài cho biết quý tánh đại danh?
Người nọ chưa trả lời, một kỹ nữ đã vội vã giới thiệu:
- Thưa tướng công, Mã công tử là công tử Tổng Đốc phủ Phụng Dương đấy ạ!
Mã công tử không thèm hỏi lại tên họ của Thừa Chí, chỉ lim dim đôi mắt, nhìn tròng trọc vào mặt Thanh Thanh, rồi vừa cười vừa nói:
- Cậu ở đâu vào thế? Thổi tiêu hay đến thế là cùng! Sao không lại đây hầu hạ đại gia! Hà! Hà! Hà!
Thấy y cho mình là hạng dọn bát, Thanh Thanh cau mày định giở mặt thì Thừa Chí đưa mắt ra hiệu, bảo nàng hãy nên chịu đựng, rồi nói:
- Chú ấy là em tôi. Chúng tôi đến Nam Kinh này thăm bạn.
Mã công tử hỏi:
- Thăm bạn nào? Hôm nay gặp gỡ nơi đây làm bạn với tôi, cam đoan hai người khỏi phải lo ăn lo mặc.
Tuy trong lòng căm giận vô cùng, nhưng Thừa Chí vẫn cố nén không để lộ ra mặt, liền hỏi:
- Mã Sĩ Anh đại nhân với các hạ là thế nào?
Mã công tử đắc chí đáp:
- Ông ta là chú tôi.
Lúc ấy bên thuyền lại có một người nữa bước sang. Người đó, đầu chồn mắt chuột, để hai cái ria nhỏ, cúi đầu chào xong, liền cười nói với Mã công tử:
- Thưa công tử, chú em này thổi tiêu hay lắm phải không?
Nhìn thấy dáng điệu của y, Thừa Chí đoán ngay người đó là quân sư của họ Mã.
Mã công tử nói:
- Cảnh Đình, anh lại đây nói cho họ hiểu đi.
Người đó, họ Dương tên Cảnh Đình, liền nói với Thừa Chí và Thanh Thanh rằng:
- Mã công tử chúng tôi đây là cháu ruột của Phụng Dương, Tổng đốc Mã đại nhân, là người rất hào phóng, hay kết bạn bè! Mã đại nhân thương yêu công tử, coi như con đẻ vậy. Chú em nên đến Phủ ở với Mã công tử, tôi cam đoan, chú muốn gì được nấy.
Thấy họ ăn nói một cách vô lễ như vậy, Thừa Chí sợ Thanh Thanh nổi giận. Ngờ đau, Thanh Thanh lại hớn hở tươi cười đáp:
- Còn gì tốt hơn thế nữa? Vậy chúng ta lên bờ đi ngay đi.
Như là được vật báu tự trên trời rơi xuống, Mã công tử liền giơ tay ra kéo, Thanh Thanh rụt tay lại, vừa cười vừa đẩy một kỹ nữ vào lòng y. Thừa Chí ngạc nhiên quá, chỉ làm thinh chứ không dám nói năng gì. Thanh Thanh đứng dậy nói với Mã công tử rằng:
- Còn hai cô nàng và phu thuyền đây, đệ muốn tặng cho mỗi người năm lạng bạc...
Mã công tử đáp:
- Vấn đề này để tôi phụ trách. Các người, ngày mai đến phòng chi thu trong Phủ lãnh tiền nhé?
Thanh Thanh nhếch mép cười nói:
- Thưởng cho họ ngay bây giờ có hơn không?
Mã công tử gật đầu, ra lịnh cho gia đinh lấy mười lăm lạng bạc để lên trên mặt bàn. Phu thuyền và hai kỹ nữ chắp tay vái cảm tạ. Mã công tủ cứ đăm đăm nhìn thẳng vào mặt Thanh Thanh. Một lát sau, thuyền đã ghé vào bờ.
Dương Cảnh Đình nói:
- Để tôi đi gọi người đem kiệu tới.
Thanh Thanh bỗng la lớn:
- Ối chà! Tôi còng một thứ rất cần còn để quên ở nơi trọ, phải đi lấy ngay!
Mã công tử nói:
- Chú trọ ở đâu? Để tôi cho gia đinh đi lấy cho?
Thanh Thanh nói:
- Tôi ở nhờ chùa Pháp Hoa, tận ngoài cửa thành Kim Xuyên. Thứ đó không thể nhờ ai đi lấy được.
Dương Cảnh Đình rỉ tai Mã công tử:
- Phải theo dõi nó! Công tử đừng để cho thằng nhỏ này lẻn trốn mất.
Mã công tử gật đầu:
- Phải đấy!
Y quay lại nói với Thanh Thanh rằng:
- Để tôi cùng đi với chú em cho vui nhé!
Nói đoạn, y giơ tay ra quàng vai. Thanh Thanh tránh sang một bên, nàng vẫn tươi cười nói:
- Không, tôi không cần công tử đi với!
Thấy nàng õng ẹo làm nũng, Mã công tử mất cả hồn vía, liền nói với Cảnh Đình rằng:
- Cảnh Đình này, nếu để cho chú em mặc quần áo đàn bà, có lẽ các thiếu nữ thành Kim Xuyên này không ai đẹp bằng.
Thanh Thanh gọi Thừa Chí:
- Thôi chúng ta đi thôi.
Nói đoạn, nàng khoác tay Thừa Chí đi thẳng về phía đằng trước. Công tử đưa mắt ra hiệu và cả bốn người đi theo sau. Y rảo bước đi lên ngang hàng với Thanh Thanh để trò chuyện. Những câu được câu chăng, Thanh Thanh chỉ trả lời lấy lệ để y khỏi bực mình.
Mục đích của Thanh Thanh và Thừa Chí tìm Quốc Công phủ. Mười mấy ngày qua, hai người đã đi khắp nội ngoại thành của thành Nam Kinh này rồi, nên cả haicũng thuộc hết các đường lối phố xá. Thấy Thanh Thanh cứ đi về phía đất hoang vắng người, Thừa Chí biết rằng nàng cố ý hạ sát mấy tên đi theo kia, liền nghĩ: "Tuy tên Mã công tử vô hạnh thật, nhưng tội chưa đến nỗi phải chết. Sư phụ thường nói rằng: Người học võ, không nên lạm sát những kẻ vô tội! Điều đó cũng là luật cấm của môn phái Hoa Sơn ta. Như vậy, sao lại không ngăn cản," nghĩ đoạn chàng ngừng bước nói:
- Chú Thanh, chúng ta đi về đi!
Thanh Thanh cười nói:
- Muốn về thì anh cứ về trước!
Mã công tử cả mừng vội lên tiếng rằng:
- Phải đấy. Anh về trước đi!
Thừa Chí lắc đầu thở dài, miệng lẩm bẩm nói:
- Tên này chết đến nơi mà không tỉnh ngộ!
Vừa đi vừa nói chuyện phím, đi tới một bãi tha ma, Mã công tử đã mệt thở hổn hển, hai chân mỏi nhừ, vội hỏi:
- Sắp đến chưa?
Thanh Thanh cười một tiếng thật dài, rồi đáp:
- Tới nơi rồi!
Mã công tử ngơ ngác bụng nghĩ thầm: "Đến bãi tha ma này để làm gì?"
Thấy khác ý, tên Cảnh Đình tỉnh ngộ ngay.
Nhưng y tin vào bọn y có những bốn người và hai tên gia đinh đi theo đó lại vạm vỡ, giỏi võ, thì dù hai thư sinh yếu ớt kia có giở trò gì cũng không sợ, vừa nghĩ vừa nói:
- Chú em đừng đi đâu xa nữa. Chúng ta trở về Phủ của công tử ăn nhậu có hơn không?
Thanh Thanh cười khinh hai tiếng, Thừa Chí vội đáp:
- Đi về ngay đi! Các ông đừng có nói nhiều nữa!
Ý của chàng là, chỉ con đường sáng cho họ đi nhưng bốn tên túi áo cá cơm ấy làm sao hiểu nổi? Mã công tử còn giả vờ để cầu lợi, mà nói rằng:
- Tôi mỏi mệt quá, chú em làm ơn lại đây đỡ tôi một tí!
Vừa nói y vừa đi tới sát cạnh, đưa tay quàng lên vai Thanh Thanh. Thấy ánh sáng lập lòe một cái, Thừa Chí kêu to thầm: "Nguy to," rồi tiến lên ngăn cản, nhưng đã muộn rồi! Đầu của Mã công tử đã lăn lóc dưới mặt đất, máu tươi ở cổ phun ra như vòi nước. Dương Cảnh Đình và hai tên gai đinh sợ quá, đều ngẩn người như pho tượng gỗ.
Thanh Thanh lại tiến lên cho mỗi tên một kiếm, thế là cả ba tên cùng chết một lúc.
Thấy nàng đã trót giết một tên rồi, không giết nốt mấy tên kia chắc có hậu họa, Thừa Chí đành để yên cho nàng hành động không cản trở nữa. Lau chùi máu dính trên lưỡi kiếm xong, Thanh Thanh khoái trí cười ha hả.
Thừa Chí nói:
- Những quân vô lại này, chú chỉ nên cho chúng một bài học thôi! Hà tất phải giết như thế! Kể chú cũng tàn nhẫn thật!
Thanh Thanh trợn tròn đôi mắt rồi đáp:
- Em không chịu nổi những hành vi bẩn thỉu ấy.
Thừa Chí nghĩ: "Mã công tử vẫn ỷ thế hoành hành. Chắc y cũng hãm hại nhiều người lương thiện rồi. Y có bị giết chết như vậy cũng không oan uổng gì!"
Nghĩ xong, chàng nghiêm mặt nói:
- Những quân khốn nạn này, chú có giết cũng không sao. Nhưng từ nay chú đừng giết bừa như thế này, mà lỡ giết phải một người lương thiện, tình giao hảo của chúng ta sẽ đoạn tuyệt ngay lúc đó.
Thanh Thanh thè lưỡi, lắc đầu, rồi nói:
- Vâng, từ nay em không dám thế nữa!
Hai người đá mấy các xác vào trong bụi lau xong, đang định trở về khách điếm. Thừa Chí bỗng lôi tay áo Thanh Thanh một cái. Cả hai người vội lui vào phía sau một ngôi mộ ẩn núp. Tiếng động của chân người ở xa đưa đến, rồi phía Đông và phía Tây đều có người đi tới. Thừa Chí và Thanh Thanh trông thấy mỗi bên đều có mười mấy người, tay xách đèn lồng. Khi đến gần nhau, người bên phía Đông vỗ tay ba cái, còn người bên phía Tây chỉ có hai cái thôi. Cả hai bên đều im hơi lặng tiếng, rồi ngồi quây tròn trước ngôi mộ, cách chỗ ẩn núp của Thanh Thanh và Thừa Chí độ mười mấy trượng. Vì vậy bọn họ nói những gì, Thừa Chí và Thanh Thanh không sao nghe được.
Lòng hiếu kỳ xúi giục, Thanh Thanh định bò lại gần bọn người ấy, Thừa Chí vội kéo tay nàng và khẽ nói:
- Hãy chờ một lát đã.
- Sao vậy?
Thừa Chí xua tay ra hiệu, bảo nàng đừng lên tiếng.
Thanh Thanh chờ đợi lâu quá, nóng lòng. Lại trải qua một thời gian khá lâu, một trận gió lạnh thổi tới, bốn bề cỏ khô kêu rào rào, những cành cây rụng ở cạnh ngôi mộ đều bay múa. Thừa Chí nâng cánh tay phải của Thanh Thanh giở khinh công ra, không cần nhún nhảy, hai chân tựa như không chạm mặt đất, chỉ một hơi đã chạy được mười mấy trượng, đến phục ở sau một ngôi mộ lớn gần bọn người kia.
Hành động của chàng rất nhẹ nhàng nên bọn kia không hay biết gì cả. Thấy Thừa Chí khom lưng, tay phải nâng cả người mình lên mà chân đi vẫn nhẹ nhàng không có tiếng động, khinh công của chàng đã tới chốn tuyệt bực, Thanh Thanh trong lòng mến phục vô cùng. Hai người vừa phục xuống, Thừa Chí đã vội rụt tay lại, tựa như xa lánh rắn độc, rít độc vậy.
Thanh Thanh nghĩ thầm: "Chàng quả thật là quân tử nhưng phải cái hơi hủ lậu một chút!"
Lúc ấy, chỉ nghe tiếng khàn khàn của một người nói:
- Các vị đại ca bên quý phái không quản ngại đường sá xa xôi tới đây ra tay trợ giúp, chúng tôi thật cảm ơn vô cùng!
Lại nghe một người khác nói:
- Sư phụ chúng tôi mang bịnh đã hơn tháng nay không đi lại được, nên phải nhờ sư thúc chúng tôi là Truy Phong Kiếm Vạn Phương dẫn chúng tôi, mười hai đệ tử tới đây để Mẫn lão sư sai khiến.
Tiếng người nói giọng khàn khàn đáp:
- Lần này được sư Long gia Từ giúp đao tương trợ, anh em chúng tôi thật cảm ơn vô cùng. Vạn sư huynh Truy Phong Kiếm tiếng tăm lừng lẫy khắp trời Nam, bây giờ ông ta thân hành đến đất Nam Kinh này, tất phải mã đáo thành công. Chúng tôi vừa thấy Vạn sư huynh giá lâm, trong lòng đã yên trí ngay.
Một người giọng thỏ thẻ lên tiếng rằng:
- Các bạn quá khen như vậy, tôi chỉ sợ phái Điểm Thương chúng tôi không giúp được gì cho họ Mẫn lão sư thôi!
Thừa Chí giựt mình, sực nghĩ: "Lúc nhàn rỗi, sư phục chàng đàm luận thiên hạ kiếm pháp, có nói bốn đường kiếm phái lớn của thời bấy giờ là: Võ Đang, Côn Lôn, Hoa Sơn, và Điểm Thương, phái nào cũng có đường kiếm bí hiểm lạ thường, và có nhân tài xuất chúng. Tên họ Vạn, biệt hiệu là Truy Phong Kiếm đây, lại là tay cao thủ của phái Điểm Thương. Nay y không quản đường sá xa xôi đến tận Nam Kinh này, không biết mưu đồ đại sự gì? Ta phải nghe rõ biết bí mật của y mới được."
Sau lại nghe hai người khen ngợi lẫn nhau, khách sáo vài câu. Đằng xa lại có tiếng vỗ tay, bên này có người cũng vỗ tay hưởng ứng. Một lát sau, trước sau có thêm ba nhóm người tới. Nghe họ hàn huyên, Thừa Chí mới hay những nhóm người đó là:
Nhóm thứ nhứt là các sư Thiếu Lâm Tự tỉnh Phúc Kiến do Thập Lực đại sư hướng dẫn; nhóm thứ hai là giặc bể ở ven bờ tỉnh Triết Giang và tỉnh Phúc Kiến, do bẩy mươi hai đảo Liên Minh, có ba anh em kết nghĩa, nổi danh là Trường Bạch tam anh: anh cả Sử Bình Quang, anh hai Sử Bính Vân, và em ba Lý Cương Càng. Càng nghe Thừa Chí càng ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Những người tới tụ họp thế? Sao lại nghe người họ Mẫn cảm ơn luôn miệng, và cũng hiển nhiên các người kia là do y mời tới."
Thanh Thanh cũng cảm thấy hành tung của bọn người này rất lừng danh, định lên tiếng hỏi Thừa Chí. Nhưng những người đó đều là võ lâm cao thủ, chỉ hơi có chút tiếng động là họ nghe nay, nên Thanh Thanh đành phải im hơi lặng tiếng.
Lúc ấy lại nghe người họ Mẫn cất cao giọng nói:
- Tôi Mẫn Tử Hoa đây...
Thừa Chí lại ngẩn người ra nghĩ thầm: "Cái tên Mẫn Từ Hoa này nghe quen lắm. Chắc là sư phụ đã nói cho ta nghe nhưng không nhớ ra y là hạng người gì."
Người họ Mẫn nói tiếp:
- Hôm nay được quý vị sư huynh sư đệ không quản ngại nghìn non muôn nước tới đây tương trợ, xin nhận một vái của đệ!
Mọi người đồng thanh đáp:
- Mẫn nhị ca chớ nên vái quỳ như thế! Chúng tôi đâu dám nhận!
ồn ào một lúc, Mẫn Tử Hoa lại nói:
- Trong mấy ngày nay, Trương Tâm Nhứt sư huynh phái Côn Lôn, mấy vị đạo trưởng phái Nga Mi và mấy vị sư huynh phái Hoa Sơn cũng sẽ tới cả.
Có người lên tiếng hỏi:
- Phái Hoa Sơn cũng có người tới ư? Thế thì hay lắm! Chẳng hay là môn hạ của ai thế?
Thừa Chí nghĩ thầm: "Ngươi hỏi vừa lúc quá! Ta cũng muốn hỏi vài câu về tin này!"
Mẫn Tử Hoa đáp rằng:
- Mấy vị sư huynh ấy là môn hạ của Bàn Thạch Sơ Nông.
Thừa Chí nghĩ: "Đó là môn hạ của nhị sư huynh."
Người nọ lại hỏi:
- Mẫn nhị ca quen biết vợ chồng Quy Thân Thụ thì may mắn lắm rồi. Có vợ chồng ông ta đỡ đầu cho, chúng ta không còn sợ tên gian tặc họ Tiêu nữa?
Mẫn Tử Hoa nói:
- Đệ đâu có hân hạnh được kết bạn với vợ chồng ông ta! Đệ chỉ quen thân với đại đồ đệ của ông ta là Mai Kiếm Hoa thôi.
Lại một người khác nói:
ra là đại đệ tử của thần quyền vô địch Quy tân Thọ .
Mẫn Tử Hoa đáp:
- Vâng, chính anh ta đó!
Nghe tới đây, Thừa Chí nhẹ hẳn người, nghĩ thầm: "Nếu có người đồng môn mình tham gia thì việc này tất phải là chánh đáng. Ta hãy tạm giấu mặt chờ có dịp thích đáng, hãy ra tay giúp họ đôi chút."
Lại nghe Mẫn Tử Hoa nói:
- Năm nọ gia huynh bị người ta giết hại một cách bi đát. Đệ đã điều tra mười mấy năm liền mà không biết ai là kẻ thù. Bây giờ, nay nhờ có các anh em họ Sử phái Trường Bạch đây cho hay đệ mới rõ kẻ giết gia huynh là tên gian tặc họ Tiêu. Thù này không trả được, đến thề không làm người!
Bỗng nghe "keng" một tiếng, chắc là tiếng động của y dùng khí giới chém bia đá lập thề. Lại có một người khác nói:
- Thiết bối Kim Ngao Tiêu Công Lễ cũng là một tay hảo hán hữu danh ở giang hồ không ngờ y lại có hành vi hèn hạ đến thế? Không hiểu các anh họ Sử hay tin đó từ đâu?
Lời nói của người đó có vẻ hoài nghi. Không chờ anh em họ Sử giải thích, Mẫn Tử Hoa đã vội đỡ lời:
- Các anh em họ Sử đây đã kể rõ tình hình gia huynh bị gian tặc giết ở tỉnh Sơn Đông, sau đệ được hay. Có đủ bằng cớ hẳn hoi xin Thập Lực đại sư đừng có đa nghi.
Một người khác nói:
- Tiêu Công Lễ lập cơ sở ở Kim Linh đã mấy chục năm rồi. Thế lực của y rất hùng mạnh. Phen này anh em mình ra tay, cần phải cẩn thận lắm mới được?
Mẫn Tử Hoa nói:
- Cũng vì lẽ đó đệ tự biết mình thế cô sức yếu, cho nên mới dám táo gan thỉnh quý vị bạn hữu giáng lâm. Ngày mai đúng giờ dậu, đệ sửa soạn vài mâm rượu nhạt, cơm rau tại tệ xá ở hẻm Tạ Gia phía Nam Thành để tẩy trần và tiết phong quý vị. Mời quý vị thế nào cũng giáng lâm cho.
Mọi người đều lên tiếng cảm tạ và nói:
- Chúng tôi với huynh cũng như anh em trong nhà, hạ tất huynh phải làm khách như vậy!
Mẫn Tử Hoa nói:
- Được các bạn quá độ đến rất nhiều thế nào kẻ địch cũng phải biết chuyện. Vậy ngày mai quý vị tới, lúc vào cửa gặp các chú em tiếp đãi, xin giơ ba ngón tay làm hiệu và khẽ nói câu: "Giang hồ nghĩa khí, rút dao tương trợ!" Làm như vậy để tránh kẻ địch trà trộn lẻn vào phá rối.
Mọi người đều tán thành ý kiến đó, và còn đề nghị lúc giao chiến cũng dùng ba ngón tay làm hiệu, để phân biệt mình và địch. Trước khi giải tán, họ còn bàn tới chuyện phái người đến nhà tên Tiêu Công Lễ dọ thám. Xong đâu đấy, họ mới rút lui dần.
Chờ các người đi xa rồi, Thừa Chí và Thanh Thanh mới nằm lăn ra bãi cỏ nghĩ ngợi.
Vì ngồi xổm lâu quá, Thanh Thanh tê cả hai chân. Giây lát sau, nàng nói:
- Đại ca, ngày mai chúng ta đến nhà người họ Mẫn xem đi!
Thừa Chí đáp:
- Chỉ xem không thì được, nhưng thể nào chú cũng phải nghe lời tôi, cấm không được phá quấy.
- Em có phá quấy bao giờ đâu?
Buổi trưa ngày hôm sau, Mã công tử bị ám sát đã làm sôi nổi cả thành phố Nam Kinh. Suốt ngày ẩn núp ở trong khách điếm, cho tới chiều tối, Thừa Chí và Thanh Thanh mới thay quần áo lững thững đi tới hẻm Tạ Gia. Thấy một tòa nhà lớn, cửa sơn son trên treo đôi đèn lồng, khách đang vào tấp nập. Đi tới cửa, Thừa Chí và Thanh Thanh đều giơ ba ngón tay phải ra, miệng cũng nói:
- Giang hồ nghĩa khí rút dao tương trợ.
Một người mặc áo dài chắp tay vái chào và bảo một tên đạ hán đứng đó, dẫn hai người vào trong phòng khách. Rót nước mời hai người uống, đại hán nọ hỏi tên tuổi, Thừa Chí và Thanh Thanh liền bịa đặt, một người họ Trinh và một người họ Văn.
Đại hán nọ nói:
- Chúng tôi được nghe đại danh ở giang hồ đã lâu, chúng tôi rất lấy làm hâm mộ!
Thanh Thanh bụng cười thầm, và nghĩ thầm rằng: "Đại danh này, ngay chúng ta mới nghe lần đầu mà ngươi dám nói là nghe lâu rồi!"
Khách càng đông, đại hán nọ thấy hai người trẻ tuổi như vậy, chắc là đệ tử của phái nào theo sư phụ đến cũng nên.
Vì vậy, y cũng không trọng vọng lắm, chỉ nói câu "xin lỗi," rồi đi tiếp người khác liền.
Một lát sau, chủ nhân mời khách vào bàn. Thừa Chí và Thanh Thanh được đặt ngồi ở bàn bên cạnh. Khách bàn này đều đệ tử của các môn phái nên người đại diện cũng là đồ đệ thứ năm của Mẫn Tử Hoa. Vì vậy không ai để ý đến hai người.
Sau ba tuần rượu, Mẫn Tử Hoa đến các mâm mời rượu. Khi y mới tới bàn Thừa Chí, để ý nhìn kỹ, chàng thấy Mẫn Tử Hoa trạc độ bốn mươi tám, chín tuổi, tay nổi gân xanh.
Cử chỉ và bước đi của y đều tỏ ra là người võ nghệ khá cao, hai mắt y sưng húp, chắc y thương xót người anh, ngày đêm khóc lóc nhiều quá mà nên. Thừa Chí nghĩ thầm: "Người này trọng tình thủ túc đến thế kể cũng đáng kính thật! Chắc kẻ thù thế lực mạnh lắm, y mới phải mời đến nhiều hảo thủ thế này!"
Mẫn Tử Hoa vái chào mọi người ba lạy và cảm ơn luôn miệng trước, rồi mới mời rượu sau.
Khách cùng bàn Thừa Chí đều là hậu bối, nên ai nấy đứng cả dậy đáp lễ.
Lúc ấy, bỗng có một tên đệ tử hấp tấp chạy tới cạnh Tử Hoa, rỉ vào tai nói vài lời.
Tử Hoa hớn hở, đưa ly rượu cho người đệ đó, rồi vội vàng bước ra ngoài cửa.
Giây phút sau, Mẫn Tử Hoa tỏ vẻ rất lễ phép dẫn ba người đi vào, và mời họ ngồi lên mâm trên nhứt. Thấy ba người đó khệnh khạng ra vẻ ta đây, Thừa Chí chắc họ không phải là những người tầm thường. Người đi trước ăn mặc lối nho sinh, lưng đeo thanh trường kiếm, hai mắt hơi nhìn ngược lên, ngạo nghễ vô cùng. Người thứ hai là một tráng hán trạc độ ba mươi tuổi. Người thứ ba là một thiếu nữa hai mươi hai, ba tuổi, mặt rất xinh đẹp, nhưng có vẻ lạnh lùng.
Mẫn Tử Hoa lớn tiếng đáp:
- Mai đại ca kịp thời đến giúp cho, đệ thật cảm tạ vô cùng!
Người nho sinh cười nói:
- Việc của Mẫn nhị ca, lẽ nào chúng tôi không đến giúp?
Thừa Chí nghĩ: "Thế ra người này là Mai Kiếm Hòa, đệ tử của nhị sư huynh Quy Thân Thụ đây! Sao y lại ngạo nghễ đến thế?"
Lại nghe Mai Kiếm Hòa nói:
- Việc giang hồ này, sư phụ tôi, cụ ta không khi nào chịu nhúng tay vào đâu. Nhưng đệ đã nhiễu sự, mời thêm hộ Nhị ca, hai người giúp sức. Đây là tam sư đệ tôi Lưu Bội Sinh và cô này là Ngũ sư muội tôi, Tôn Trọng Quân.
Mẫn Tử Hoa đáp:
- Đệ ngưỡng một oai danh của Thần Quyền Thái Bảo và Tôn nữ hiệp đã lâu. Ngày hôm nay được hai phái đến giúp, đệ hân hạnh vô cùng.
Sở dĩ Tử Hoa không dám nhắc tới biệt hiệu của Tôn Trọng Quân, vì biệt hiệu đó người ta tặng cho dùng, Phi Thiên Ma Nữ. Nàng được sư mẫu cưng, võ nghệ cao cường mà ta rất độc ác, nên ai nấy đều e sợ nàng.
Tử Hoa giới thiệu ba người với Thập Lực đại sư, Trường Bạch tam anh, Bích Hải Trường Kinh và Truy Phong Kiếm Vạn Phương và các người xong, y mới mời sư huynh muột vào bàn ăn uống.
Mọi người đang cao hứng chén tạc chén thù thì một tên đệ tử của Tử Hoa cầm hai cái thiếp đại hồng bước vào, đưa cho sư phụ coi. Biến sắc mặt, cười gằn mấy tiếng, Tử Hoa nói:
- Lão già họ Tiêu thần thông quảng đại thật! Chúng ta chưa kiếm, mà y đã đến thăm anh em mình trước. Mai đại ca, các anh chị vừa tới mà y đã hay tin rồi.
Cầm hai tấm thiếp lên xem, Mai Kiếm Hòa thấy tấm trên viết "Hậu học giáo đệ Tiêu Công Lễ bách bái", một tấm nữa đề: "Giữa ngọ ngày mai, xin mời chư huynh: Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, Trường Bạch tam anh,... tới tệ xá Tiêu trạch xơi chén rượu nhạt." Trong đó có cả tên ba anh em Mai Kiếm Hòa nữa.
Mai Kiếm Hòa nói:
- Thế này thì lão già họ Tiêu kể cũng cứng đấy. Nhưng cũng phải cho y biết chúng ta không phải là tay vừa!
Tử Hoa nói:
- Mời người bạn đưa thiếp tới vào đây!
Đệ tử nọ vâng lời đi liền. Mọi người đều ngừng chén, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa.
Một phút sau, đệ tử nọ dẫn một người trạc độ ba mươi tuổi, mặc áo dài, thủng thẳng bước vào. Tới trước mặt Tử Hoa, vái chào, người nọ nói:
- Sư phụ cháu hay tin các vị tiền bối đến cả Nam Kinh nên cho cháu tới mời quý vị trưa mai sang xơi chén rượu nhạt.
Mai Kiếm Hòa cười nhạt nói:
- Lão già họ Tiêu đã thiết yến Hồng Môn đấy!
Nói xong, chàng quay lại nói với người tới mời kia rằng:
- Nầy! Tên anh là gì?
Lời nói của chàng rất vô lễ nhưng người nọ vẫn cung kính đáp:
- Tên họ đệ tử là La Lập Như.
Kiếm Hòa quát lớn:
- Tiêu Công Lễ mời chúng ta sang, định giở mưu kế gì? Anh có biết không?
La Lập Như đáp:
- Dạ gia sư hay tin quý vị tiền bối đều giá lâm thành Nam Kinh này, trong lòng rất ngưỡng mộ, nên mới viết thiếp này sau cháu sang mời chớ không có mưu kế gì khác.
- Anh khéo ăn nói lắm! Ta hãy hỏi anh điều này, năm nọ khi Tiêu Công Lễ giết hại đại huynh của Mẫn lão sư đây, anh có mặt tại đó không?
- Câu chuyện này có nhiều uẩn khúc lắm. Cũng vì vậy, gia sư cháu mới mời quý vị ngày mai sang xơi chén rượu nhạt. Trước là tỏ tình ngưỡng mộ quý vị của gia sư và chúng cháu. Sau là giải thích và tạ tội cùng Mẫn nhị gia đây.
Mai Kiếm Hòa lại quát lớn:
- Giết chết người rồi giải thích và tạ tội là xong hay sao?
La Lập Như đáp:
- Lúc bấy giờ, hoàn cảnh bắt buộc gia sư phải ra tay đánh. Sau khi đã lỡ tay giết chết Mẫn đại lão sư, gia sư cứ ăn năn hối hận mãi cho tới bây giờ!
Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân bỗng thét lên một tiếng, rồi quát hỏi:
- Nếu vậy, lúc ấy anh có mặt tại đó phải không?
La Lập Như đáp:
- Cháu tuy không có mặt đó, nhưng gia sư là người chánh phái, quyết không bao giờ giết bừa bãi những người vô tội...
Tôn Trọng Quân lại quát lớn:
- Giỏi lắm, anh còn muốn cãi bướng phải không?
Tiếng nói chưa dứt, đã có một người nhảy ra nhanh như chim bay, tay cầm thanh kiếm sáng quắc, tay trái túm lấy ngực Lập Nhu. Sợ hãi quá, Lập Như giơ cánh tay phải ra gạt ngang để hất tay túm ngực của người nọ.
Thừa Chí khẽ nói với Thanh Thanh rằng:
- Nguy to! Cánh tay phải của y thể nào cũng bị gãy!
Thanh Thanh hỏi:
- Tại sao...
Thừa Chí chưa kịp trả lời, đã thấy Lập Như thét lên một tiếng thật lớn. Cánh tay phải của y đã bị thanh kiếm của người nọ chém đứt. Mọi người đang ngồi ăn uống đều hoảng sợ đứng cả dậy xem.
Mặt nhợt nhạt như hết máu, Lập Như vẫn cố gượng đứng, không chịu gục xuống.
Rồi dùng tay trái xé vạt áo, y tự quấn lấy bả vai phải, xong xuôi cúi xuống nhặt cánh tay gãy, ung dung đi ra. Thấy y can đảm như vậy, ai nấy đền ngẩn người ra nhìn nhau.
Tôn Trọng Quân lau chùi vết máu dính trên lưỡi kiếm xong, ung dung trở về bàn uống rượu.
Mai Kiếm Hòa nói:
- Người này dữ tợn như thế, chắc sư phụ y còn tàn ác và ngoan cố hơn! Vậy, ngày mai chúng ta có nên đi phó hội bữa tiệc đó không?
Truy Phong Kiếm Vạn Phương nói:
- Thể nào cũng phải đi! Chớ không đi họ sẽ khinh rẽ chúng ta!
Bích Hải Trương Kinh Trịnh Khởi Văn nói:
- Tối hôm nay chúng ta nên phái người đi dò thật hư ra sao trước. Và cũng để biết Tiêu Công Lễ đã mời những ai tới giúp và có lập mưu kế gì hại ngầm chúng ta không?
Mẫn Tử Hoa nói:
- Ý kiến của Trịnh đảo chủ rất phải. Đệ chắc bên chúng thể nào cũng phòng vệ cẩn thận lắm. Nếu đi dò thám, thế nào cũng phải nhờ vả đến mấy vị huynh trưởng mới được.
Vạn Phương nói:
- Tiểu đệ xin đi!
Tử Hoa đứng dậy rót một chén rượu, bưng đến trước mặt Vạn Phương nói:
- Mời Vạn đại ca xơi chén này!
Vạn Phương uống một hơi cạn chén rượu đó.
Tiệc xong, mọi người lần lượt cáo từ ra về. Thừa Chí ra hiệu rồi cùng Thanh Thanh đi theo sau Vạn Phương.
Lúc đó đã canh hai, Vạn Phương trở về khách sạn, thay quần áo xong, ra đi về phía đông. Thừa Chí và Thanh Thanh vẫn cứ đi theo sau. Đến sau một tòa nhà lớn, Vạn Phương nhảy qua tường rào. Thấy thân pháp của Vạn Phương rất nhanh, Thừa Chí nghĩ: "Nhanh như thế mới không phụ cái tên "Truy Phong Kiếm" mà người ta ban cho."
Nghĩ đoạn chàng cùng Thanh Thanh cùng nhảy vào theo. Tới một căn phòng có ánh đèn lóe, hai người rón rén tới trước cửa sổ, nhìn vào thấy bên trong có ba người đang ngồi trò chuyện. Người ngồi hướng mặt ra phía cửa sổ trạc độ năm mươi tuổi, cau mày lắc đầu, vẻ mặt lo âu. Người đó thở dài một cái, rồi hỏi:
- Lập Như đã đỡ chưa?
Người ngồi phía dưới đáp:
- La sư huynh ngất đi tỉnh lại mấy lần. Bây giờ vết thương mới chảy máu.
Nghe nói, Thừa Chí đoán ra ngay ba người ngồi trong phòng là thầy trò Tiêu Công Lễ. Họ đang nói chuyện về vết thương của La Lập Như.
Lại nghe người thứ ba nói:
- Sư phụ, chắc thế nào bên đối phương cũng cho người đến đây thám thính. Chúng ta có nên phái mấy người đi tuần tiễu khắp nơi xem xét không?
Tiêu công tử thở dài rồi nói:
- Xem xét hay không cũng vậy thôi! Thầy cho đó là số trời cả! Điều cần nhứt là sáng mai các con đưa sư mẫu, sư muội, và tiểu sư đệ tới nhà họ Ngô ở Hồ Châu tị nạn.
Người đồ đệ đó nói:
- Xin sư phụ chớ có nản lòng vội. Chúng ta có những hơn hai nghìn huynh đệ ở thành Nam Kinh này. Sư phụ cho triệu tập tất cả anh em lại, quyết sống mái với chúng một phen, đã chắc đâu bên ta thua chúng nào?
- Vô ích, kẻ địch mới toàn những hảo thủ lừng tiếng giang hồ. Những anh em của bên ta địch sao nổi họ? Chỉ toi mạng thôi!... Sau khi ta có mệnh hệ nào, các con chịu khó phụng dưỡng sư mẫu, dạy bảo sư muội và sư đệ cho tới khi thành người.
Nói xong, hai hàng lệ chảy xuống má. Một tên đồ đệ nói:
- Xin thấy chớ nên nản lòng vội. Võ nghệ của thầy lừng lẫy khắp Giang Nam, dù thầy không thắng được, nhưng con thiết nghĩ chúng chưa chắc đánh bại được thầy một cách dễ như vậy đâu! Hai mươi lăm sư huynh đệ chúng con, trừ La Sư huynh bị thương ra, còn lại hai mươi bốn người. Hợp sức chúng con lại mà còn không địch nổi chúng thì thầy, giao du khắp thiên hạ, thiếu gì bè bạn, mời vài người tới tái đấu với chúng...
Công Lễ vội ngắt lời:
- Năm xưa, ta còn trẻ, cũng chỉ vì nóng nảy như các con, bây giờ mới gây nên vụ thảm họa này. Nên ta đã quyết định để cho họ giết chết trả lại món nợ máu này cho nó xong đi.
Thừa Chí và Thanh Thanh ở ngoài cửa sổ nghe thầy trò họ nói bi đát quá, nghĩ thầm: "Hình như Tiêu Công Lễ không phải là hung ác. Dù năm xưa y có làm nhầm việc này, nhưng bây giờ y thành tâm hối cải rồi."
Lại nghe một người đồ đệ nói:
- Nếu sư phụ không muốn đối địch với chúng, nhân lúc đêm khuya này, lánh mặt đi nơi khác cũng được chớ sao?
Một người khác vội nói:
- Làm như thế không được. Sư phụ một đời oai danh chẳng lẽ lại sợ chúng hay sao?
Tiêu Công Lễ nói:
- Anh danh hay không, điều đó ta không cần. Nhưng lánh mặt cũng không xong đâu! Sáng sớm mai, các con đi hết đi, để mình thấy ở lại đối phó với họ.
Hai người đồ đệ lo sợ quá, cùng nói:
- Xin phép thầy cho chúng con được hầu cạnh thầy.
Công Lễ nổi giận:
- Cái gì? Họa lớn tới nơi, các con còn không nghe lời ta ư?
Hai người đồ đệ không dám nói nữa. Tiêu Công Lễ nói tiếp:
- Các con hãy đi thu xếp hộ sư mẫu đi. Xem chiếc xe ngựa đã đóng xong chưa?
Cả hai cùng vâng lời, nhưng vẫn chưa chịu đi.
Tiêu Công Lễ lại nói:
- Thôi được, các con ra gọi tất cả sư huynh đệ vào đây!
Hai đồ đệ mở cửa đi ra, Thừa Chí và Thanh Thanh vội lùi vào xó tường. Thoáng tấy xó tường bên Tây có hai người phục ở đó. Một người là Vạn Phương, còn người kia mặc quần áo màu đỏ là Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân.
Giận nàng vừa rồi ra tay quá tàn ác, Thừa Chí định trừng phạt ngầm để cảnh cáo, liền khẽ dặn Thanh Thanh rằng:
- Chú ở yên đây. Đừng động đậy nhé!
Thanh Thanh lắc lư khẽ cười nói:
- Em cứ thích động đậy đấy!
Thừa Chí cười phục mình xuống, thấy Vạn Lương và Trọng Quân đang chăm chú nhìn vào trong phòng, chưa phát giác có người ở cạnh đó. Nhẹ nhàng lướt qua bên ngoài Trọng Quân, Thừa Chí thuận tay rút luôn thanh kiếm mà nàng đang đeo trên lưng ra. Nàng không hay biết tí gì.
Thừa Chí trở lại cạnh Thanh Thanh. Nàng thấy chàng lấy trộm thanh kiếm của một thiếu nữ, tỏ vẻ không vui. Chàng đưa kiếm cho nàng nói:
- Chú hãy giữ lấy!
Lúc này nàng mới tươi cười trở lại. Hai người lại tiếp tục ngó vào trong phòng.
Hơn hai mươi người lần lượt bước vào, người lớn tuổi nhứt đã trên dưới bốn mươi, còn người trẻ tuổi nhứt chỉ độ mười mấy. Hai mươi mấy người đó đều là đồ đệ của Công Lễ. Họ chào xong rồi đứng dậy xếp hàng nghe lời chỉ bảo của thầy. Vẻ mặt ủ rũ sầu não, Công Lễ nói:
- Tới lúc này, ta cũng không còn giấu diếm các con. Hồi còn trẻ ta xuất thân là lục lâm.
Những người đồ đệ đều tỏ vẻ ngạc nhiên, Công Lễ nói tiếp:
- Hiện giờ kẻ thù đã tìm tới nơi, ta cần phải nói rõ nguyên nhân kết thù của ta cho các con nghe.
Hồi 11

Thở dài một tiếng, Tiêu Công Lễ kể hết đầu đuôi câu chuyện kết thù xưa kia cho các đồ đệ nghe.
Công Lễ nói:
- Năm đó, ta đang làm tướng cướp ở Song Long Cương. Nghe các em báo cáo: Có quan Đạo Đài rất giàu có về hưu, đưa gia quyến đi qua chân núi Song Long Cương này.
Nghề của giới lục lâm là cướp bóc, và nhứt là gặp những tham quan ô lại càng hay. Vì tham quan bóc lột của dân chúng nhiều. Cướp tiền bạc của một tên tham quan còn hơn cướp của cả trăm khách thương. Hơn nữa tiền bạc của tham quan là bất nghĩa chí tài.
Cướp được tiền bạc đó yên trí và không tổn hại âm đức. Các em ta đã thám thính rõ ràng, tên Đạo Đài đó họ Khấu. Nhưng có điều đáng ngại là tên tham quan đó mướn Tế Nam phủ Hội Hữu tiêu cục, Tổng tiêu đầu Mẫn Tử Diệp bảo tiêu. Người đó tức là anh cả của Mẫn Tử Hoa...
Nghe tới đây, Thừa Chí và Thanh Thanh đã biết rõ nguyên nhân của câu chuyện rồi, nghĩ thầm: "Thì ra mối thù của họ do thế mà nên. Tiêu Công Lễ định cướp của, Mẫn Tử Diệp là Tiêu Đầu tất phải bảo vệ. Hai bên vì thế mà đánh nhau, Mẫn Tử Diệp địch không nổi bị giết."
Tai nghe Công Lễ nói, mắt Thừa Chí vẫn để ý hành động của Vạn Phương và Trọng Quân. Lúc ấy Trọng Quân giơ tay về phía sau, bỗng nhảy phắt lên, phát giác bảo kiếm bị rút mất, sợ quá, vội rủ Vạn Phương vượt tường chạy luôn.
Thừa Chí bấm bụng cười thầm, rồi lại để ý nghe Công Lễ kể. Công Lễ nói:
- ... Mẫn Tử Diệp ở giang hồ cũng có chút danh vọng, là cao thủ của phái Võ Đang...
Thừa Chí gật đầu nghĩ thầm: "Phải rồi, anh em Mẫu Tử Hoa thuộc phái Võ Đang. Sư phụ ta nói phái Võ Đang là phái Chánh Tông của thiên hạ, người trưởng môn phái đó vẫn liên lạc với các môn các phái luôn. Cho nên Mẫn Tử Hoa mới mời được nhiều người giỏi đến giúp như vậy."
Tiêu Công Lễ nói tiếp:
- Hay tin ấy, ta không dám ra lịnh hành đồng ngay. Đêm hôm đó, ta thân hành xuống núi dò xét, đến chỗ họ ngủ trọ là khách điếm nọ. Ta trông thấy một chuyện có thể tức vỡ bụng ngay được. Có ai ngờ, Mẫn Tử Diệp là kẻ tham hoa hiếu sắc, thấy nhị Tiểu thơ của quan Khấu Đạo Đài xinh đẹp liền lập ngay mưu kế, y hẹn Trương trại chủ ở Phi Hổ trại. Chờ khi đi qua chân núi trại đó, Trương trại chủ xuống cướp, y giả vờ kháng cự, giả vờ thua chạy, để Trương trại chủ cướp hết của cải, giết hết gia đình Khấu Đạo Đài, và bắt sống Nhị tiểu thơ thoát hiểm. Lúc ấy Nhị tiểu thơ trơ trọi một mình, lại có người cứu thoát khỏi tay giặc, tất phải bằng lòng lấy y. Tham được của cải lớn, và lấy được lòng Tử Diệp, Trương trại chủ vui lòng nhận lời ngay. Hai người đang bàn tán ở trong phòng ngủ, không ngờ bị ta nghe hết. Giận quá ta trở về sơn trại đem hết lâu la đến cạnh Phi Hổ trại mai phục. Tới giờ hẹn ước, quả nhiên nhóm người Khấu Đạo Đài đi tới...
Nghe tới đây, Thừa Chí và Thanh Thanh mới biết vừa rồi đã đoán sai câu chuyện. Công Lễ lại nói tiếp: "Ta nén không nổi lòng tức giận, trong lòng nghĩ rằng: "Chúng ta người trong võ lâm, vì đói rách quá mới phải lập sơn trại để làm nghề không vốn liếng này. Nhưng nói tới chữ sắc thì thể nào cũng phải đường đường chánh chánh, mới khỏi mất tư cách con người hảo hán. Ngờ đâu, Mẫn Tử Diệp lại vô liêm sỉ đến thế? Là một tiêu đầu, y lại có hành vi hèn mạt như vậy?"
Lúc ấy, ta giận quá không nhịn được, nhảy ra đánh luôn.
Kiếm pháp của y cũng lợi hại. Chính thật ra, ta không địch nổi y đâu. Nhưng vì ta nói toạc mưu kế của y ra khiến y tối cả mặt mày, mới thất cơ bị ta chém chết."
Một tên đồ đệ nói:
- Thưa sư phụ, con người như thế đáng giết lắm rồi. Chúng ta hà tất phải sợ chúng? Chờ ngày mai chúng tới nơi, sư phụ nói rõ đầu đuôi câu chuyện, thì dù em y có muốn trả thù những người khác chưa chắc đã chịu a dua, không phân biệt thị phi, mà ra tay giúp em y.
Thừa Chí nghĩ: "Phải đấy. Nếu vì bất bình mà tên họ Tiêu này giết chết Mẫn Tử Diệp, võ lâm phải có công luận. Nhưng chỉ sợ còn có ẩn tình khác thì trong đó, chưa chừng?"
Lại nghe Công Lễ thở dài, và tiếp tục nói: "Sau khi giết chết Mẫn Tử Diệp, ta biết đã mang họa lớn vào thân rồi. Vì y là người có địa vị ở phái Võ Đang, thầy y là Hoàng Mộc đạo nhân và các sư huynh đệ y kiếm ta trả thù, ta địch sao nổi. Cũng may đàn em của ta chận giữ Trương trại chủ lại.
Rồi ta bắt y viết hết gian mưu của Mẫn Tử Diệp vào một tờ giấy, và còn bắt hai tiêu đầu có mặt tại đó ký vào làm chứng cho ta. Quan Khấu Đạo cũng viết giấy cảm ơn và có nhắc cả mưu mô của Tử Diệp vào trong đó, tặng ta. Hai tiêu đầu biết rõ chuyện Tổng tiêu đầu của họ làm bậy mà bị giết, không những không thù ta mà còn cảm ơn và xin làm bạn với ta. Sau vụ đó, ta biết không thể sống ở trong lục lâm được nữa, liền giải tán đàn em. Rồi ta cầm hai tờ giấy nói trên lên núi Võ Đang kiếm Hoàng Mộc đạo nhân để tường trần mọi lẽ. Nhưng các môn hạ phái Võ Đang đã hay tin, rủ nhau xuống núi đón đường giết ta. May có một vị giang hồ phái hiệp cứu giúp, bảo vệ ta lên tận núi Võ Đang và được gặp Hoàng Mộc đạo nhân nữa.
Hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện rồi, Hoàng Mộc đạo nhân liền ra lịnh cho các đồ đệ không được gây thù gây hấn với ta. Nhưng vì thanh danh của phái họ, Hoàng Mộc đạo nhân bảo ta không được đem chuyện này ra phô trương bên ngoài. Ta cũng nhận lời ngay. Từ đó trở đi, ta không hề nói tới chuyện đó nữa nên trên giang hồ rất ít người biết tới. Lúc ấy, Mẫn Tử Hoa hãy còn nhỏ, nên không biết anh y tại sao mà chết."
Một môn đồ hỏi:
- Thưa sư phụ chẳng hay hai lá thư đó sư phụ có còn giữ được không?
Tiêu Công Lễ trả lời:
- Điều này chỉ trách ta "có mắt không ngươi", không biết phân biệt người tốt kẻ xấu. Mùa thu năm ngoái, có người bạn của ta cho hay, em ruột Mẫn Tử Diệp đã khổ công luyện tập võ nghệ, và nay đã thành tài, và biết ta là người giết chết anh y, nên định kiếm ta để báo thù. Sau ta dò la biết Trường Bạch tam anh, bạn cũ của ta, có quen biết Mẫn Tử Hoa, ta liền đi kiếm anh em họ Sử trong nhóm Tam anh...
Một môn đồ nói xen vào:
- Thảo nào! Cuối năm ngoái sư phụ đi Liêu Đông, qua Tết năm nay mới về, chuyến đó sư phụ chỉ vì việc này mà đi chắc?
- "Phải, ta đi Liêu Đông thăm anh em họ Sử, yên trí năm hết Tết đến, thế nào anh em y cũng có nhà. Ngờ đâu, anh em y được Cửu vương gia ở Kiến Châu Vệ triệu đi. Ở đó, chờ đợi ngót tháng trời, ta mới thấy anh em y trở về. Ta liền đem câu chuyện này nói cho anh em y hay, Sử lão đại vỗ ngực bảo đảm với ta là chuyện này thế nào cũng xong. Ta nhờ y đưa hai lá thơ đó cho Mẫn Tử Hoa xem qua. Y bảo làm như thế Tử Hoa không mặt nào dám kiếm ta báo thù nữa. Chưa chừng, Tử Hoa còn nhờ người đến xin lỗi ta và yêu cầu ta đừng đem chuyện xấu đó tuyên dương ra ngoài là khác.
Thấy anh em tiếp đã tử tế quá, ta lại dễ dãi, Sử lão đại bỗng nói với ta rằng: "Vận nước của Triều đình nhà Minh sắp tận đến nơi. Anh em ta đều là người có tài. Tại sao chúng ta không nhân cơ hội này bầu Minh chủ, để mong được phong thê án tử, làm một vị khai quốc công thần?"
Ta ngẩn người giây lát, mới hỏi y có phải định đi đầu quân Sấm Vương đấy không? Y cười ha hả một hồi mới nói: "Sấm Vương là giặc cỏ, trở nên vua chúa sao được? Bây giờ chỉ có quân Thanh, binh tinh nhuệ, lương đầy đủ, sắp đánh vào trong Quan ải. Nếu Tiêu huynh bằng lòng phò chúa Thanh, anh em tôi xin bảo đảm với Cửu vương gia là xong ngay."
Nghe y nói như vậy, ta nổi giận, bảo y là người vong quốc vong bản, sẽ đắc lợi muôn thuở với nòi giống!"
Thấy Tiêu Công Lễ có khí tiết như vậy, Thừa Chí cũng phải tấm tắc ngợi khen thầm.
Tiếp theo đó, Tiêu Công Lễ lại nói: "Sau đó ta cãi nhau với anh em y một trận thật kịch liệt.
Nhưng sáng ngày hôm sau, anh em y vẫn ân cần tiếp đãi như trước. Và Sử lão đại còn xin lỗi ta, vì hôm trước y quá say lỡ lời nói bậy bạ. Tình bạn hữu quen biết lâu năm, ta cũng vui lòng bỏ qua chuyện đó. Ngờ đâu, sau khi ta về tới đây, anh em họ Sử thật chó má quá, không giải thích cho Mẫn Tử Hoa hiểu thì thôi, anh em y còn đặt điều xúi giục, mời người ra tay giúp sức, chuẩn bị ngót nửa năm trời. Ta không hay biết một tí gì. Đột nhiên, thấy rất nhiều hảo thủ giang hồ đến cả Nam Kinh, ta ngạc nhiên quá.
Ta hỏi ra mới hay, hai anh em tên chó má kia đã thiêu hủy hai lá thơ nọ, để cho ta mất hết chứng cớ biện bạch. Xét hiện tình, hình như anh em họ Sử vì vụ cãi lộn nọ, định dồn ta vào con đường diệt vong cũng nên?"
Các đệ tử nghe Công Lễ nói rõ đầu đuôi sự thể, đều chủ trương thí mạng với anh em họ Sử.
Tiêu Công Lễ xua tay nói:
- Các con cả ngoài kia, Câu chuyện ta vừa nói, cấm các con tiết lộ ra ngoài. Đành rằng, chúng vô nghĩa, chớ ta không chịu mang tiếng là đã nói rồi mà bất tín.
Nói tới đó, y thở dài một tiếng rồi bảo các môn đồ gọi con gái và con trai vào.
Các môn đồ hậm hực đi ra. Chúng vừa đi khỏi, một thiếu nữ 16, 17 tuổi và một em nhỏ 8, 9 tuổi vén màn cửa bước vào. Thiếu nữ mắt còn ngấn lệ, cất tiếng gọi "cha," rồi gụcđầu xuống dưới chân Tiêu Công Lễ. Em nhỏ nọ trố mắt nhìn cha nức nở khóc. Công Lễ hỏi thiếu nữ:
- Má con đã sửa soạn xong chưa?
Thiếu nữ gật đầu, Công Lễ nói tiếp:
- Ra khỏi nơi đây, con phải lãnh trách nhiệm nuôi nấng, dạy bảo em con. Con bắt nó học sách, cày cấy. Nhưng con đừng cho nó đi thi cử, và cũng không được học võ nữa.
Thiếu nữ nọ nói:
- Thưa cha, phải để cho em nó học võ. Sau này nó mới báo thù cho cha được.
Tiêu Công Lễ nổi giận quát lớn:
- Mầy muốn chọc tức tao trước phải không?
Một lát lâu, ông ta lại ôn tồn nói:
- Trong làng võ, oan oan tương báo, bao giờ mới kết liễu? Thà làm một người dân lương thiện, ta sống yên ổn cho tới ngày mãn kiếp có hơn không? Sức vóc của em con kém lắm. Có cho võ giỏi lắm nó chỉ bằng nửa ta thôi. Dù nó giỏi bằng ta đi chăng nữa cũng vô ích. Như ngày hôm nay đây, con không thấy người đến hà hiếp ta hay sao? Rốt cuộc, ta cũng không tránh khỏi... hà! Duy có điều ta không được trông thấy con thành gia thất là ta ân hận mà thôi... Con ra dặn bảo các sư huynh đệ rằng: Khi ta chết, tất cả anh em phải tuân theo mạng lịnh của Phó bang chủ Cao thúc thúc, vì ta đã giao phó tất cả công việc của Kim Long bang này cho chú Cao rồi.
Thừa Chí giật mình nghĩ thầm: "Chuyến này ta xuống miền Nam, đã được nghe khách giang hồ đồn đại, Kim Long bang là một Bang Hội lớn. Không ngờ, Tiêu Công Lễ lại là Bang chủ của bang đó. Họ người nhiều thế mạnh như thế, lại chịu lép vế như vậy?"
Chàng lại nghe thiếu nữ nọ nói:
- Vâng, con xin đi mời Cao thúc thúc ngay.
Công Lễ quát lớn:
- Tại sao con còn chưa biết ý nghĩ của ta? Con mời chú Cao đến làm gì? Tánh nóng như lửa, khi nào chú ấy chịu để yên cho người khác huy động anh em để đối phó. Như vậy, ít ra cũng sẽ phải chết không biết bao nhiêu nhân mạng mới kết liễu nổi vụ này. Dù ta thoát được chết đi chăng nữa mà để cho mấy chục hay mấy trăm anh em thiệt mạng vì ta, thì ta phải nhẫn tâm sao được? Thôi, con đi mau lên!
Thiếu nữ rọ ủ rũ dắt em đi ra.
Thừa Chí ra hiệu bảo Thanh Thanh đi theo mình. Cả hai cùng đi tới vườn hoa lớn.
Thấy không có người, Thừa Chí bỗng phi thân tiến lên và nói:
- Tiêu cô nương, cô không nghĩ cách cứu cha cô hay sao?
Thiếu nữ nọ ngẩn người giây lát, đột nhiên rút kiếm ra quát hỏi:
- Ngươi là ai?
Thừa Chí đáp:
- Cô muốn cứu cha cô, thì phải theo tôi!
Nói xong, chàng nháy mắt ra ngoài tường. Thanh Thanh nhảy liền ba cái mới qua được bờ tường. Không ngờ khinh công của chàng giỏi đến thế, thiếu nữ nọ ngẩn người ra rồi cũng xách kiếm phi theo.
Được một quãng đường, thiếu nữ nọ thấy Thừa Chí đi nhanh quá, trong lòng sanh nghi, định quay trở về. Ngờ đâu, nàng vừa quay mình, bỗng có một luồng gió lướt qua, vải áo bay lên, cổ tay tê liệt, và thanh kiếm của nàng lọt vào tay Thừa Chí rồi. Khí giới bị tước, đường rút lui bị cản trở, thiếu nữ nọ sợ hãi quá. Thừa Chí liền nói:
- Cô nương đừng sợ. Tôi muốn giết cô, thật dễ như trở bàn tay. Như thế, cô đã đủ hiểu tôi là bạn chớ không phải thù. Vậy, cô phải nghe theo những lời của tôi sau đây.
Thiếu nữ gật đầu. Thấy nàng vẫn còn bán tín bán nghi, Thừa Chí liền nói:
- Cha cô hiện đang có nạn lớn. Chẳng hay cô có chịu mạo hiểm để chứ cha cô không?
Thiếu nữ họ Tiêu mắt đỏ ngầu đáp:
- Cứu cha tôi thoát nạn, dù phải thịt nát xương tan tôi cũng vui lòng!
Thừa Chí nói:
- Cha cô tốt bụng lắm! Đành hy sinh tính mạng của mình chớ cha cô không muốn giao tranh chết chóc nhiều. Người như cha cô thật hiếm có, tôi đã quyết định giúp một tay.
Trong lúc vô kế khả thi, bỗng thấy có người chịu ra tay cứu cha mình, thiếu nữ khi nào lại bỏ lỡ dịp may mắn ấy, liền quỳ ngay xuống van lạy. Thừa Chí nói:
- Xin cô nương bình thân và chớ ngại. Sự thể thành công hay không, tôi chưa dám chắc.
Thấy cánh tay phải bị người ta khẽ đỡ, tựa như một sức mạnh nâng mình lên, nàng không thể quỳ được nữa. Nên nàng mới tin tưởng chàng nọ có thể giúp cha mình.
Thừa Chí lại nói:
- Cô làm ơn dẫn chúng tôi đến thư phòng để tôi viết mấy chữ cho cha cô.
- Hai vị đã biết đại danh? Hai vị đích thân vào khuyên cha tôi có hơn không?
- Cô cứ yên trí. Thấy thơ của tôi, cha cô không tự tử nữa đâu. Thôi, cô đưa chúng tôi đi ngay. Việc này chậm trễ một tí là hỏng hết.
Không hiểu tại sao, Tiêu cô nương lại chịu nghe lời Thừa Chí đến thế! Thấy Thừa Chí nói vậy, nàng liền đáp:
- Mời hai vị đi theo tôi!
Thừa Chí lại dặn bảo:
- Việc này phải giữ bí mật, cô đừng để cho ai trông thấy!
Tiêu cô nương gật đầu. Ba người lại vượt qua tường vào bên trong. Nàng dẫn hai người vào một thư phòng nhỏ, lấy giấy, bút, mực ra, rồi ngồi một bên xem. Chỉ trong giây phút, Thừa Chí đã viết xong rồi. Thanh Thanh đứng cạnh tỏ vẻ kinh ngạc. Bỏ lá thơ vào phong bì, dán kín, Thừa Chí đưa lá thơ đó cho nàng và nói:
- Cô đưa ngay lá thơ này cho cha cô, và cô phải y theo lời tôi sau đây.
- Xin nhị vị cứ dạy.
- Bất cứ cha cô hỏi thế nào, cô cũng đừng tả hình dạng của tôi cho cha cô hay.
Tiêu cô nương ngơ ngác hỏi:
- Tại sao thế?
- Nếu cô nói ra, tôi không giúp cô nữa.
- Vâng, tôi xin vâng lời.
Thừa Chí kéo tay Thanh Thanh nói:
- Thôi chúng ta đi về.
Thấy hai người nhảy ra ngoài tường, nhanh như chim cắt, Tiêu cô nương trong lòng phân vân, không biết cát hung ra sao, vội chạy tới phòng của cha. Thấy cửa phòng đóng kín, nàng gõ mấy tiếng không thấy Tiêu Công Lễ trả lời, sợ quá nàng vòng ra ngoài cửa sổ, đập vỡ cửa kính, nhảy vào trong phòng.
Thấy cha nàng chén rượu để vào tới môi, nàng hãi sợ vô cùng, la lớn:
- Cha! Cha hãy coi lá thơ này trước đã!
Thấy Tiêu Công Lễ ngẩn người không nói năng gì cả, Tiêu cô nương vội bóc lá thơ chìa vào mặt cho cha coi. Thấy trên thơ vẽ một thanh bảo kiếm, Công Lễ mừng quá đánh rơi chén rượu bể tan tành, Tiêu cô nương giật mình hoảng sợ nhưng thấy cha vui vẻ, hai tay hơi run, liền hỏi:
- Gì thế hở cha?
Tiêu Công Lễ hớn hở quay lại hỏi con:
- Cái thơ này ở đâu tới? Ai đưa cho con? Ông ta lại tới đấy ư? Có thật không?
Tiêu cô nương đến cạnh cha xem, thấy lá thơ đó không có chữ, chỉ vẽ một cây kiếm đầu rắn. Nàng không biết cây kiếm ở trên tờ giấy có ý nghĩa gì khiến cha nàng mừng rỡ như vậy liền hỏi lớn:
- Cái gì thế cha?
Tiêu Công Lễ đáp:
- Ông ta tới, cha sẽ khỏi chết. Con đã gặp ông ta đấy à?
- Ai hở cha?
- Kim Xà Lang Quân!
- Nhưng cha đã nghe Kim Xà Lang Quân chết rồi, sao bây giờ lại còn sống là thế nào?
Tiêu cô nương nhớ lại lá thư Thừa Chí trao cho nàng, trong lòng cảm thấy lo ngại không yên, vì trong thư chỉ vẽ một con rắn ngoài ra không một dòng chữ nào cả.
Nhưng nhớ lời dặn của Thừa Chí nên thiếu nữ đứng yên không nói năng gì nữa cả.
* * *
Thừa Chí sang phòng Thanh Thanh cất tiếng gọi:
- Chú Thanh! Chú đi với tôi.
Thanh Thanh đang nằm nghe gọi nhỏm người lên:
- Đi đâu thế anh?
- Chúng ta đến nhà Tiêu Công Lễ.
Thanh Thanh hỏi:
- Để thăm Tiêu cô nương à?
- Chú Thanh lạ thật. Chúng ta đã hứa giúp đỡ cho Tiêu Công Lễ rồi đâu thể nuốt lời.
- Nhưng đại huynh đi giờ này để làm gì?
- Tôi muốn biết lời của lão Tiêu Công Lễ nói có thật hay không?
- Vậy đại huynh tới đó bàn bạc với Tiêu cô nương đủ rồi, cần chi đến tiểu muội.
- Tiêu cô nương là người ngoài, còn tôi với chú là tình bằng hữu chi giao, không có chú tôi không hăng hái gì cả.
- Anh nói có thật không?
- Tôi dối chú làm gì.
- Thôi cũng được, tiểu muội đi với đại huynh đây.
Hai người ra khỏi khách điếm thẳng tới tòa bảo trang của Tiêu Công Lễ. Trong nhà còn thức nên thấy ánh sáng đèn lọt qua cánh cửa sổ.
- Chúng ta đi ngả này!
Thừa Chí nắm tay Thanh Thanh cho nàng nương sức rồi cùng phóng qua tường lọt vào trong.
Thừa Chí và Thanh Thanh tiến ngay lại cánh cửa sổ khép hờ, phóng mình vào trong.
Chợt nghe phía bên trong có tiếng nói của Tiêu Công Lễ:
- Không hiểu Kim Xà Lang Quân có còn sống thật không sao, cha nghi quá con ạ!
Giọng nói của Tiêu cô nương nổi lên:
- Thật mà, cũng chắc chắn Kim Xà Lang Quân sẽ tới đây can thiệp, không thất hứa đâu.
Thì ra Tiêu Công Lễ vẫn còn hoài nghi trong lá thư Thừa Chí đã gửi.
Mãi sau không thấy nói gì thêm, Thanh Thanh bảo:
- Chúng ta đi thôi!
Thừa Chí giật lại:
- Hãy khoan đã!
Nói xong, chàng dùng ngón tay trỏ viết lên bàn sáu chữ: "Đệ Tiêu Công Lễ bách bái." Những chữ sâu lõm vào mặt bàn chừng hai, ba phân. Viết xong, hai người nhảy ra ngoài cửa sổ. Thấy có làn gió đưa tới, một thanh kiếm đã đâm đến trước ngực, Thừa Chí giơ cánh tay ra bắt luôn cổ tay kẻ địch. Kiếm pháp địch cũng nhanh. Lúc ấy mũi kiếm đã đâm trúng ngực chàng rồi. Nhờ có áo lót sợi vàng của Mộc Tang đạo nhân mà chàng mặc bên trong, nên không bị mảy may.
Thấy kiếm đã đâm trúng ngực đối phương rồi, nhưng không sao xuyên được vào da thịt, kẻ địch sợ hãi vô cùng, cổ tay bị nắm như kềm sắt kẹp. Đồng thời, thấy chưởng phong nổi lên, một chưởng đã đánh tới mặt, y vội bỏ kiếm giằng co. Đối phương không muốn giết y, rút chưởng cướp luôn thanh kiếm, vượt tường nhảy ra ngoài.
Thì ra người ở ngoài cửa sổ phục kích Thừa Chí và Thanh Thanh, là Truy Phong Kiếm Vạn Phương. Y được Tử Hoa nhờ vả đến nhà Tiêu Công Lễ thám thính. Không ngờ Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân hiếu thắng vô cùng, cũng lén lút theo tới. Hai người mới nghe trộm được vài câu, kiếm của Trọng Quân bị người lấy trộm lúc nào không biết. Cả hai cùng hoảng sợ liền bỏ về ngay. Vừa mới ra tay đã bị thất thế, cả hai cùng xấu hổ và tức giận. Nhứt là Vạn Phương, suốt đêm không ngủ được, ra ngoài vườn bách bộ, thấy trong phòng anh em họ Sử có ánh sáng, biết có kẻ địch tới, liền đến trước cửa sổ đợi chờ phục kích. Khi thấy kẻ địch nhảy ra, y tưởng một kiếm tất phải thành công, ngờ đâu bảo kiếm lại bị đối phương cướp đi. Y là đệ nhất cao thủ của phái Điểm Tang. Sáu mươi tư miếng Truy Phong Kiếm đã xuất thần nhập hoá, oai trấn trời Nam, võ công của y giỏi hơn cả trưởng môn phái Điểm Tang Long Trực, là đại sư huynh của y. Ngờ đâu tối hôm nay, y liên tiếp bị thất thế, trong lòng nghĩ thầm: "Chẳng lẽ người đó là quỷ quái hay sao mà đao kiếm đâm không lọt."
Nghĩ đoạn, y vội vỗ tay báo cho các người biết.
Hãy nói Thừa Chí và Thanh Thanh vượt tường nhảy ra bên ngoài nghe tiếng vỗ tay nổi lên tứ phía, biết kẻ địch bố trí khá cẩn mật, liền nằm yên dưới chân tường ẩn núp, chỉ nghe trên mái nhà có tiếng chân người đi lại tuần tiễu.
Thanh Thanh bỗng nói:
- Anh thử rờ xem cái này là cái gì?
Nói đoạn, nàng kéo tay Thừa Chí đến chỗ chân tường mà nàng đang phục. Thừa Chí rờ thấy chân tường bằng đá có khắc chữ. Chữ đầu là chữ Đệ, chữ thứ hai là Tứ, thứ ba là Công, thứ tư là Quốc, thứ năm là Ngụy. Đọc ngược trở lại là "Ngụy Quốc Công Tứ Đệ." Ngờ đâu tìm kiếm mười mấy ngày không sao kiếm thấy nơi Ngụy Quốc Công Phủ, mà bây giờ tình cờ lại kiếm ra được, hai người hớn hở vô cùng. Thanh Thanh vui mừng múa chân múa tay, Thừa Chí vội kéo nàng xuống khẽ bảo:
- Hãy yên lặng! Kẻ địch đã đến kìa!
Vừa dứt lời, đã thấy bóng ba người vượt tường nhảy vào trong nhà, Thừa Chí vội nói:
- Đi thôi!
Hai người giở khinh công chạy thẳng một mạch về khách điếm, lúc ấy đã canh tư, trong khách điếm, ai nấy đều yên ngủ cả. Thanh Thanh thắp nến lên, Thừa Chí lấy giấy tờ ra xem. Trước hết, chàng lấy hai lá thơ cũ nhứt ra xem, quả nhiên một tờ là giấy nhận lỗi của Trương trại chủ và một lá thơ cảm ơn của Khấu Đạo Đài.
Thanh Thanh vừa cười vừa nói:
- Phen này anh cứu cha nàng thoát chết, không biết nàng lấy gì tạ ơn anh nhỉ?
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
- Nàng nào cơ chớ?
- Đại tiểu thơ của Tiêu Công Lễ ấy mà!
Biết nàng nói chơi, Thừa Chí không trả lời, cúi đầu đọc kỹ hai lá thơ, rồi nói:
- Lời nói của Tiêu Công Lễ là sự thật cả. Nếu ông ta có chút nào bịa đặt là anh khoanh tay không cứu giúp nữa, khỏi phải gây thù gây hận với các tiền bối trong giang hồ. Huống hồ trong bọn họ lại còn các đệ tử của nhị sư ca.
Thanh Thanh nửa đùa nửa thật nói:
- Cái cô tên là Phi Thiên Ma Nữ gì đó đẹp đấy nhỉ?
Thừa Chí đáp:
- Người đó có thủ đoạn độc ác, làm việc không suy nghĩ, bỗng dưng chặt đứt một cánh tay người ta. Nếu không nể vị sư, anh đã ra tay trừng trị nó rồi. Cũng vị sợ mất lòng sư huynh mà anh phải hẹn Tiêu cô nương đến đây kiếm anh để khỏi lộ tông tích của chúng ta.
Thấy chàng nói rất hợp tình hợp lý, Thanh Thanh không đùa nữa. Lại mở tiếp mấy thơ khác ra coi, không nén nổi tức giận, Thừa Chí lớn tiếng nói:
- Chú xem coi!
Chưa thấy chàng tức giận như thế này bao giơ, Thanh Thanh kinh ngạc, vội chạy lại giở những lá thơ đó ra xem. Thì ra những thơ đó là mật thơ của Cửu Vương Đa Nhĩ Cổn nước Mãn Châu gởi cho anh em họ Sử. Trong thơ dặn anh em y giết Tiêu Công Lễ xong, thừa cơ đoạt lấy bang Kim Long, để làm nội ứng cho Mãn Thanh. Công việc đầu tiên là anh em y phải dò thám tin tức, liên lạc giang hồ hảo hán, rồi chờ quân Thanh đánh vào Quan ải, là khởi binh nổi loạn liền. Thấy vậy Thanh Thanh cũng ngẩn người ra, không nói được nửa lời. Tuy nàng còn ít tuổi hay tinh nghịch, nhưng dù sao nàng vẫn là con người biết yêu nước, yêu nòi. Nên khi xem xong, cơn giận nổi lên, nàng định xé nát các giấy tờ đó.
Thừa Chí vội cản lại và nói rằng:
- Sao chú lại hồ đồ đến thế?
Thanh Thanh tỉnh ngộ ngay liền đáp:
- Phải đấy, ta phải để lại làm bằng cớ chớ!
- Chú có biết anh em y không hủy bỏ ngay hai lá thơ là tại sao không?
- Em biết rồi. Chúng giữ lại để uy hiếp Mẫn Tử Hoa phải không?
- Phải! Không ngờ bên trong lại có thêm một chuyện lớn nữa. Bây giờ tôi tha hồ ra tay cứu giúp mọi người không sợ mất lòng nhị sư huynh nữa!
- Anh nói rất phải. Nếu sư phụ có biết chuyện này cũng trách nhị sư huynh anh nữa là khác. À, đại sư ca này, em đã lầm, xin lỗi anh đó!
- Sao tự dưng chú lại xin lỗi tôi?
Thanh Thanh cúi đầu, khẽ đáp:
- Tại em cứ nói bậy nói bậy hoài...
Thừa Chí cười nói:
- Thôi chú đừng nghĩ vẩn vơ nữa, đi ngủ ngay đi! Tôi còn phải nghĩ cách đối phó với bè lũ gian tặc này.
Sáng ngày hôm sau, tỉnh dậy ngồi trên giường luyện nội công, Thừa Chí cảm thấy công lực tiến hơn trước nhiều, trong lòng hớn hở mừng thầm. Vừa luyện xong, Thanh Thanh đem hai bộ quần áo màu lam vào và nói:
- Chúng ta đã giết Mã công tử, nên thay quần áo khác màu này ra ngoài tiện hơn.
Thừa Chí nói:
- Chú nghĩ cũng chu đáo đấy.
Hai người ăn điểm tâm xong, thấy phổ ky dẫn Tiêu cô nương vào. Chờ phổ ky ra khỏi phòng, Tiêu cô nương liền quỳ xuống vái lạy. Thấy người thanh niên đẹp trai nắm tay mình, Tiêu cô nương e thẹn, mặt đỏ bừng nhưng người ta có ơn cứu cha mình, nàng không tiện co tay lại. Thanh Thanh hỏi:
- Quý danh cô là gì?
- Tên em là Uyển Nhi. Còn đại danh hai vị là gì?
Thanh Thanh chỉ Thừa Chí vừa cười vừa nói:
- Anh ấy dữ lắm, không cho tôi nói. Cô thử hỏi anh xem.
Biết Thanh Thanh nói đùa, Uyển Nhi mỉm cười nói:
- Hai vị cứu cha tôi khỏi chết. ¥n đức này tôi không biết lấy gì báo đền!
Thừa Chí nói:
- Cha cô là giang hồ tiền bối chẳng may gặp chuyện bất bình, chúng tôi là hậu bối bổn phận phải ra tay cứu giúp. Cô hà tất phải nói đến hai chữ ơn nghĩa làm gì! Cô về thưa với cha cô rằng: "Trưa hôm nay, cho cô cứ thiết tiệc như thường." Còn hai gói giấy này, cô đưa cho cha cô, và dặn tới lúc khẩn cấp, ông ta mở ra cho mọi người xem, sẽ có công hiệu kỳ lạ. Hai gói này quan trọng lắm, cô phải đề phòng kẻo giữa đường có thể bị người ta cướp mất.
Chờ Uyển Nhi đi rồi, hai người khóa cửa ra đi. Vừa tới bên ngoài, thấy Uyển Nhi đang ngồi ở phòng khách, hai người vội lùi lại, xem nàng ngồi đó chờ ai. Thấy Uyển Nhi nói với phổ ky rằng:
- Gọi ông Quản lấy ra đây cho tôi. "Kim Long thám trảo, ô vân mãn thiên!"
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
- Nàng nói gì thế?
Thanh Thanh tuy ít tuổi hơn, nhưng trên bước giang hồ lại biết nhiều hơn, nàng khẽ nói:
- Có lẽ cô ta nói tiếng riêng của bang Kim Long đấy.
Phổ ky đi ra một lát, người quản lý vào cúi chào rất lễ phép, và hỏi:
- Có việc gì dặn bảo, xin cô cho biết ạ!
Uyển Nhi nói:
- Tôi là Tiêu đại cô nương. Ông làm ơn đến nhà tôi, bảo tôi có việc cần, mời các sư huynh tôi lại đây ngay.
Nghe Uyển Nhi tự xung là Tiêu đại cô nương, ông quản lý giựt mình, vội vâng dạ đi liền. Vài phút sau, đã thấy hơn hai mươi võ sĩ tay cầm khí giới tới nơi. Rồi họ bảo vệ Uyển Nhi ra về.
Thừa Chí nói:
- Không ngờ thanh thế của bang Kim Long ở đây lại lớn đến thế! Bây giờ, chúng ta không phải đi theo nàng nữa. Chờ lát nữa, chúng ta sẽ đến nhà nàng dự tiệc.
Thừa Chí và Thanh Thanh thủng thẳng đi tới Tiêu phủ, thấy khách đã đến tấp nập.
Hai người theo mọi người đi vào. Tiêu Công Lễ tưởng hai người là môn đồ của kẻ địch, chỉ chắp tay chào qua thôi, chớ không để ý coi trọng. Chờ khách tới đông đảo rồi, Tiêu Công Lễ ra lịnh cho bày bàn. Vì Tiêu Công Lễ là Bang chủ ban Kim Long, nên thức ăn và rượu quý giá và ngon lành hơn tiệc của Mẫn Tử Hoa nhiều.
Khách được mời ngồi mâm trên nhứt là: Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, anh em Trường Bạch tam anh, Mai Kiếm Hòa, và Tôn Trọng Quân, do Tiêu Công Lễ ngồi tiếp. Mới uống xong tuần rượu đầu, Mẫn Tử Hoa đã đánh rơi chén rượu xuống đất vỡ tan tành, rồi quát lớn:
- Họ Tiêu kia, hôm nay các bạn hữu võ lâm đều nể ngươi tới dự tiệc đông đủ. Còn mối thù giết chết anh ta, ngươi định tính toán sao?
Thấy Tử Hoa nói trắng ngay ra như vậy, Tiêu Công Lễ không biết trả lời thế nào phải. Đại đệ tử của ông ta là Ngô Bình đứng dậy đáp:
- Họ Mẫn kia, ngươi có biết anh ngươi thấy nữ sắc, nảy ác ý, làm xấu cả anh em võ lâm không? Sư phụ ta...
Chàng chưa nói hết lời, đã thấy một luồng gió mạnh tạt tới, vội cúi đầu xuống tránh. Chỉ nghe "cọc" một tiếng, một cây đinh thép ba cạnh dài năm tấc cắm sâu xuống mặt bàn. Chàng rút dao ra, gọi:
- Giỏi thật! Mi hại ngầm La sư đệ của ta, và còn chặt đứt cánh tay y. Nay mi còn ném trộm đinh thép định hại ta, con mụ kia!
Nói xong, chàng sấn lại định giao chiến với Trọng Quân, Tiêu Công Lễ vội quát lớn cản lại, rồi vừa cười vừa nói:
- Tôn cô nương là cao thủ trong phái Hoa Sơn, chấp nhứt tiểu đồ làm gì?...
Mẫn Tử Hoa mắt đỏ ngầu, nắm luôn đôi đũa trên bàn, nhắm mắt Công Lễ lao tới, miệng quát lớn:
- Ngày hôm nay, ta phải thí mạng với tên lão tặc này.
Tiêu Công Lễ cũng cầm đũa giơ lên, khẽ gắp đôi đũa của địch lao tới, rồi để xuống bàn và nói:
- Sao Mẫn huynh nóng nảy thế. Có chuyện gì cứ thong thả mà nói. Bây đâu! Lấy đôi đũa khác cho Mẫn nhị gia.
Thấy võ công của Công Lễ cao siêu như vậy, Tử Hoa cũng phải giựt mình sợ hãi, trong lòng nghĩ thầm: "Thảo nào anh ta bị giết chết là phải."
Thấy Mẫn Tử Hoa thua một miếng, Mạt Ảnh Tử Mai Kiếm Hòa giơ tay phải ra định nắm lấy bả vai Công Lễ và nói:
- Tiêu đại gia bản lãnh cao cường lắm. Anh em của ta hãy thân thiện nào!
Thấy y vừa nói vừa nhanh nhẹn giơ cánh tay ra, Công Lễ liền né mình đứng dậy tránh luôn. Mai Kiếm Hòa nắm hụt vớ phải thành ghế. Chỉ nghe "cắc, cắc" hai tiếng, thành ghế bằng gỗ nọ bị gãy ngay làm hai.
Thấy đối phương càng áp bức càng mạnh, và tên nào tên nấy đều sửa soạn ra tranh đấu, Tiêu Công Lễ nhìn lại người bên mình cũng đã thấy chuẩn bị cả. Không khí rất căng thẳng, Kim Xà Lang Quân chưa thấy tới giải vây, ông ta chỉ sợ chiến tranh bộc phát, không biết bao nhiêu người sẽ bị thương hay chết, đưa mắt nhìn con gái ra hiệu.
Lúc ấy Uyển Nhi đang bưng hai gói đồ, nóng ruột vô cùng, thấy đưa mắt ra hiệu, lập tức mở ngay cái gói đồ hình dài ra, thì là hai thanh kiếm, bèn đem tới để trước mặt cha. Thấy con đưa hai kiếm tới, không hiểu dùng để làm gì. Công Lễ đang nghi ngờ nghĩ ngợi. Truy Phong Kiếm Vạn Phương và Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân đều nhận ngay ra hai thanh kiếm đó, khí giới của mình mất trộm và bị cướp ngay đêm hôm qua. Vạn Phương mặt đỏ bừng, hùng hổ đến lấy hai thanh kiếm nọ, giao trả một thanh kiếm cho Tôn Trọng Quân.
Mở lấy thanh kiếm, Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân cất tiếng chửi đổng rằng:
- Có giỏi thì ra đây đấu dao đấu kiếm. Chớ ăn cắp ăn trộm vặt như vậy, không phải là hảo hán!
Công Lễ ngạc nhiên, không hiểu gì cả, chỉ thấy Tôn Trọng Quân tiến lên hai bước, cầm kiếm đâm thẳng vào ngực mình, liền lùi lại hai bước tránh. Đồng thời, nhị đệ tử đưa ngay thanh đao cho ông ta. Cầm lấy thanh đao, ông ta vẫn chưa trả miếng.
Thấy thế kiếm "Hành Vân Lưu Thủy" đâm không trúng kẻ địch, Trọng Quân tiếp luôn miếng nữa đâm vào vai trái đối phương. Bất đắc dĩ, Công Lễ phải giở thế "Trường Không Lạc Nhạn" dùng đao bổ xuống thanh kiếm của địch. Nếu để cho đao của đối phương bổ trúng kiếm của mình tất phải rời khỏi tay. Trọng Quân thấy thế đao rất độc, trầm khí giới xuống, hình như để tránh đao kia. Ngờ đâu, khi đao trấn tới hạ bộ, đột nhiên nàng hất nhanh thanh kiếm lên và đâm thẳng vào bụng dưới của địch. Thế kiếm này vừa nhanh vừa đúng. Dù Công Lễ có mấy mươi năm kinh nghiệm võ công, cũng không kịp thu đao để đỡ. Đành phải nhún một cái, ông ta nhảy quay đầu các người, tránh ra bên ngoài.
Tuy vậy, ống quần của ông ta đã bị mũi kiếm móc toạt một mảnh rồi. Ông ta nghĩ thầm: "Hiểm thật!"
Quay đầu nhìn xem Trọng Quân có đuổi theo hay không? Ông ta thoáng thấy con gái mình tay cầm gói đồ còn lại là hai lá thơ của mình, mà bị Trường Bạch tam anh giấu đi.
Lúc ấy, hai người đồ đệ cản Tôn Trọng Quân lại. Gọi con đưa hai lá thơ đó cho mình xong, Công Lễ vội lớn tiếng kêu gọi:
- Các ngươi hãy ngừng tay! Tôi có vài lời thưa cùng tất cả các vị có mặt tại đây!
Thấy sư phụ kêu gọi, hai người đồ đệ vội thu đao lui xuống. Một người lui hơi chậm bị Trọng Quân đá bổ một đá trúng ngực, hộc ngay một đống máu tươi, mặt tái mét như gà cắt tiết. Vì mất bảo kiếm, Trọng Quân cho là bị sỉ nhục vô cùng, nên lần này ra tay, miếng nào cũng chí mạng.
Tiêu Công Lễ cố nén tức giận, lớn tiếng nói:
- Thưa các bạn, Mẫn Tử Hoa trách tôi đã giết chết anh ruột y. Tôi xin công nhận là đúng. Anh bạn ấy là Mẫn Tử Diệp chết trong tay tôi thật!
Mẫn Tử Hoa nức nở nói:
- Vay nợ phải trả tiền, giết người phải đền mạng, luật trời đã định!
Bạn của y đều đồng thanh lên tiếng:
- Phải, giết người phải đền mạng.
Tiêu Công Lễ đáp:
- Đây tôi có hai lá thơ. Xin mời mấy vị tiền bối đầy đủ đức vọng ra đây xem lá thơ này. Nếu các vị tiền bối quyết định phải đền mạng, tôi Tiêu Công Lễ xin tự vận ngay trước mặt quý vị. Tôi mà hơi cau mày cũng không phải là hảo hán.
Mấy lời đó gợi lòng hiếu kỳ của mọi người, ai nấy đều muốn tiến lại xem.
Tiêu Công Lễ nói:
- Hãy khoan! Xin Mẫn nhị gia giới thiệu ba vị tiền bối ra đọc trước.
Mẫn Tử Hoa không biết trong thơ nói là gì nhưng cũng vui lòng cử: Thập Lực đại sư, Trịnh Khởi Văn, và Mai Kiếm Hòa ba người ra. Cả ba cầm lấy lá thơ lên khẽ đọc.
Anh em Trường Bạch tam anh mặt xám lại đứng một bên thủ thỉ bàn thầm. Thập Lực đại sư đọc xong lá thơ liền nói:
- Theo ý bần tăng, Mẫn nhị gia nên dĩ hòa vi quý xóa mối thù đi, hóa địch làm bạn!
Thập Lực đại sư là giám viện, viện Đạt Ma chùa Thiếu Lâm, ngoại công đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa. Thấy ông ta nói như vậy, ai nấy đều ngạc nhiên. Mẫn Tử Hoa bán tín bán nghi, giằng lấy hai lá thơ xem mới được một nửa, đã xấu hổ vô cùng, lịm đi không nói được nửa lời.
Bỗng thấy Mai Kiếm Hòa nói:
- Thơ này giả tạo không thể lừa ta được!
Vừa nói chàng vừa giằng lấy lá thơ xé làm muôn mảnh.
Không ngờ trước mặt mọi người, Mai Kiếm Hòa lại dám hủy mất lá bùa hộ thân của mình, Tiêu Công Lễ tức giận đến nỗi mặt đỏ tai tía, không thể giữ nổi sự trầm tĩnh nữa, múa đao quát lớn:
- Họ Mai kia! Ngươi có biết xấu hổ không?
Mai Kiếm Hòa lạnh lùng đáp:
- Không biết ai mới xấu hổ, giết anh ngưòi ta còn làm thơ giả để đổ oan cho người đã khuất. Loại thơ này một ngày ta có thể viết hằng trăm lá.
Thập Lực đại sư và Trịnh Khởi Văn cũng đâm ra bán tín bán nghi, không biết ai thật ai giả. Lúc bấy giờ trong phòng khách yên lặng như tờ.
Đại đệ tử của Tiêu Công Lễ là Ngô Bình thấy sư phụ bị khi thị như vậy, tức quá nhảy ra múa đao chém Kiếm Hòa. Vội né mình rút kiếm ra đỡ, chỉ có một thế, Kiếm Hòa đã gạt rơi đơn đao và dí mũi kiếm vào yết hầu Ngô Bình, quát lớn:
- Ngươi quỳ xuống. May đại gia sẽ tha chết cho tánh mạnh nhỏ xíu của mi khỏi chết!
Các sư đệ khác khi nào chịu để Ngô Bình bị nhục như vậy. Ai nấy đều rút khí giới xông cả vào trong phòng khách. Các bạn của Mẫn Tử Hoa cũng rút giở khí giới ra đối địch. Thế là tiếng va chạm khí giới "loảng xoảng" náo nhiệt vô cùng. Ngô Bình liền lùi ba bước, mà mũi kiếm của kẻ địch vẫn đi liền cổ họng. Mai Kiếm Hòa lại quát hỏi:
- Mi không quỳ ta đâm chết ngay?
Ngô Bình cứng cỏi đáp:
- Đành chết chớ ta không chịu nhục! Ngươi cứ đâm ta đi!
Tiêu Công Lễ nhảy lên trên ghế lớn tiếng nói:
- Mọi người hãy ngừng tay, coi ta đây!
Ông ta kề lưỡi đao vào cổ nói tiếp:
- Oan hữu đầu, trái hữu chủ! Ngày hôm nay vui lòng đền mạng cho Mẫn Tử Diệp cho xong chuyện. Tất cả đồ đệ của ta hãy mau lui xuống.
Các môn đồ nghe lời lui ra tới cửa. Ai nấy đều buồn rầu, đăm đăm nhìn sư phụ.
Tiêu Công Lễ đang ra tay tự vận, Uyển Nhi bỗng kêu lớn:
- Cha, cái thơ nó đâu? Ông ta bảo thể nào cũng đến cứu cơ mà?
Tiêu Công Lễ lấy thơ ra xem, chỉ thấy vẽ cây thanh kiếm Kim Xà thôi, giơ lên cho mọi người coi. Ai nấy đều không hiểu tờ giấy đó có dụng ý gì.
Lại nghe Tiêu Công Lễ nói lớn:
- Kim Xà đại hiệp, ông ta đến chậm một bước rồi!
Nói đoạn, ông ta liền giơ đao lên cứa cổ.
Ngờ đâu, nghe "keng" một tiếng, con đao của ông ta bị cái quái gì đụng mạnh rơi xuống đất, bên cạnh ông ta bỗng có thêm một người. Người đó mi thanh mục tú, là một thiếu niên trạc độ hai mươi. Chàng tới bằng cách nào không một ai hay. Thì ra người đó là Viên Thừa Chí. Chàng khoanh tay đứng cạnh xem, thoạt tiên tưởng hai láthơ nọ có thể giải vây cho Tiêu Công Lễ được, thì mình khỏi phải lộ diện, có thể miễn xung đột với môn đồ của nhị sư huynh. Ngờ đâu Mai Kiếm Hòa lại giở thủ đoạn đê hèn đến thế, bất đắc dĩ chàng phải lộ mặt dùng quân cờ đánh rơi con dao của Công Lễ, và tung mình nhảy tới lớn tiếng nói với mọi người rằng:
- Khi chúng tôi lên đường tới đây, Kim Xà đại hiệp có nói qua loa nội dung hai lá thư đó cho chúng tôi nghe. Còn hai lá thơ bị xé nát đây, hai vị đại sư và đại gia đây đã đọc qua rồi.
Vừa nói chàng vừa chắp tay vái chào Thập Lực đại sư và Trịnh Khởi Văn rồi nói:
- Bây giờ tôi xin đọc qua nội dung của hai lá thơ đó, là thật là giả, sẽ thấy rõ ngay.
Thập Lực đại sư và Trịnh Khởi Văn đều đáp:
- Phải đấy. Cậu cứ đọc đi!
Nhìn Mẫn Tử Hoa, Thừa Chí nói:
- Nếu tôi đọc ra, e mất sĩ diện của lịnh tiên huynh. Chẳng hay có nên đọc không?
Mẫn Tử Hoa đầu lộ hết gân xanh, la lớn:
- Anh tôi không phải là hạng người tồi bại như thế? Hai cái thơ này nhứt định là giả.
Thừa Chí liền nói với Thanh Thanh rằng:
- Chú Thanh, chú đọc nội dung hai lá thơ đó ra xem.
Đằng hắng một tiếng, Thanh Thanh dõng dạc đọc.
Nàng thông minh khác thường, ở khách sạn đọc qua hai lá thơ một lần mà bây giờ, nàng đọc lại không sót một chữ nào. Mới nghe hết cái thơ đầu, mọi người rỉ tai thì thầm bàn tán. Mẫn Tử Hoa không thể nhịn được nữa, lớn tiếng quát tháo:
- Im mồm, thằng nhỏ kia, mi là ai?
Thanh Thanh chưa kịp trả lời, Mai Kiếm Hòa đã lên tiếng nói trước:
- Có lẽ thằng nhỏ này là thủ hạ của tên họ Tiêu kia cũng nên? Bằng không, nó cũng là người được mời đến đánh giúp. Ai dám chắc chúng không xếp đặt trước để làm ra như vậy?
Mẫn Tử Hoa tỉnh ngộ, kêu la:
- Mi bảo mi là người của Kim Xà Lang Quân phái đến. Thật hay giả ai biết đâu chỗ đó.
Thừa Chí hỏi:
- Phải thế nào các người mới tin?
Mẫn Tử Hoa rút kiếm ra rồi đáp:
- Trên giang hồ người ta đồn đãi võ công của Kim Xà Lang Quân tài giỏi kinh người nhưng chưa ai thấy qua. Nếu mi là hậu bối của Kim Xà Lang Quân võ nghệ tất phải hơn người. Vậy mi địch nổi thanh kiếm này của ta thì ta mới tin được.
Thấy Thừa Chí ít tuổi, Mẫn Tử Hoa khinh thường mới thách chàng như vậy và yên trí thế nào cũng thắng một cách dễ dàng. Như vậy, mọi người sẽ không tin hai lá thơ kia là thật nữa.
Thừa Chí ngồi xuống bưng chén rượu uống, và gắp một miếng thịt ăn, vừa cười nói:
- Muốn thắng kiếm của ngươi hà tất ta phải dùng tới võ nghệ chân truyền của Kim Xà Lang Quân. Ngươi bị người ta lợi dụng mà không hay biết tí gì! Tội nghiệp thật!
Mẫn Tử Hoa nổi giận nói:
- Ta bị ai lợi dụng? Thằng nhỏ kia, mi dám đấu thì ra đây, không dám thì cút ngay đi!
Thừa Chí lại uống một hớp rượu, rồi nói:
- Nghe kiếm pháp phái Võ Đang nổi tiếng giang hồ đã lâu, vậy hôm nay âu là ta thử một chút xem. Nhưng ta phải nói trước, nếu ta thắng, ngươi không được nhắc nhở đến mối thù với Tiêu võ sư. Nhược bằng ngươi vẫn khăng khăng không chịu thì đã có các vị tiền bối võ lâm ở đây giàn xếp cho.
Mẫn Tử Hoa tức giận nói:
- Cái đó lẽ tự nhiên rồi, ở đây có Thập Lực đại sư và Trịnh đảo chủ các người làm chứng. Còn mi thua ta thì sao?
- Ta sẽ quỳ lạy xin lỗi. Việc ở đây ta sẽ bỏ không dám dính vào nữa.
- Ta tưởng bang Kim Long có tổ chức quy mô như thế, tất phải có những hảo thủ xuất sắc. Không ngờ toàn là những tên mảnh khảnh như đàn bà con nít cả.
Tiêu Uyển Nhi la lớn:
- Đàn bà con nít đã sao? Ta đánh cuộc với mi đây!
Tôn Trọng Quân nói:
- Hay lắm. Trịnh đảo chủ làm nhân chứng hộ em nhé?
Lúc ấy có mấy sư huynh đệ của Uyển Nhi cũng đòi cá theo, nhưng gạt đi không cho cá.
Trịnh Khởi Văn tuy là hải tặc giết người không chớp mắt nhưng với cuộc thử thách này y cũng phải nhật thấy là rùng rợn, là ghê sợ, liền khuyên rằng:
- Hai cô sao không đánh cuộc son phấn lại thử thách giết chóc nhau tàn nhẫn như vậy làm gì?
Uyển Nhi đáp:
- Y đã chặt gãy một cánh tay của La sư ca cháu thì cháu phải khoét được hai mắt của y mới hả dạ.
Trịnh Khởi Văn không tiện khuyên nữa. Với giọng lạnh lùng, Mai Kiếm Hòa nói:
- Kể ra thì Tiêu cô nương cũng si tình với môn nhân của Kim Xà Lang Quân đấy? Chẳng thế sao cô lại chịu đem tánh mạnh ra hy sinh cùng y như vậy?
Uyển Nhi mặt đỏ bừng đáp:
- Còn ông, ông có muốn đánh cuộc gì không?
Thanh Thanh nghe Mai Kiếm Hòa nói như vậy tức giận vô cùng, la lớn:
- Tôi vui lòng đánh cuộc với tên Mạt Ảnh Tử này?
Mai Kiếm Hòa nói:
- Mi muốn cuộc gì?
Thanh Thanh trả lời:
- Ta cùng cuộc với ngươi, ba chấp một, nếu bạn ta thua, ta sẽ gọi ngươi ba tiếng "Cha." Trái lại ngươi phải gọi ta một tiếng "Cha" như vậy!
Mọi người không nhịn được cười, đều cảm thấy lời lẽ thanh niên này thật khôi hài.
Mai Kiếm Hòa nói:
- Ai thèm đùa giỡn với mi, ta chờ đợi ở đây nếu y có thắng ta sẽ lãnh giáo với mi vài hiệp.
Thanh Thanh trả lời:
- Ngươi nói như vậy, khúc kiếm cụt này lại còn lợi hại hơn "Lưỡng Nghi kiếm pháp" của phái Võ Đang hay sao?
Mai Kiếm Hòa nói:
- Ta là phái Hoa Sơn, hai bạn kia là phái Võ Đang, phái nào cũng thế kiếm trác tuyệt riêng, ngươi khá câm mồm chớ khiêu khích như thế.
Thấy mấy người cãi lý luôn miệng, Đồng Huyền đạo nhân nóng ruột kêu lên:
- Đừng nói nữa. Nầy thằng nhỏ kia, coi kiếm.
Vừa dứt lời, y múa kiếm đâm Thừa Chí, bên này Mẫn Tử Hoa cũng múa kiếm xông vào. Một người, tay trái cầm kiếm, một người, tay phải cầm kiếm, cả hai đều theo bát quái, tám tám sáu mươi tư quẻ, sinh sinh diệt diệt, tiêu tiêu chương chương, thế nào cũng có ẩn gió sấm trong đó.
Trước kia, Kim Xà Lang Quân luận kiếm với Hoàng Mộc đạo nhân đã biết Lưỡng Nghi kiếm pháp có nhiều chỗ sơ hở, và đã đề nghị với Đạo nhân rồi. Nhưng Chưởng môn của phái Võ Đang có tánh kiêu ngạo, không chịu mới trả lời rằng:
- Kiếm pháp của tôi, dù có sơ hở đi chăng nữa, nhưng tôi dám chắc, trong thiên hạ không ai phá nổi.
Vì thế Kim Xà Lang Quân không tiện nói thêm. Sau Ôn thị Ngũ lão mời hảo thủ các phái đến địch với Kim Xà Lang Quân, trong đó cũng có kiếm khách phái Võ Đang.
Lúc đối địch, Kim Xà Lang Quân đã nhằm những chỗ sơ hở mà chỉ mấy hiệp đã phá tan được kiếm pháp Lưỡng Nghi. Trong Kim Xà bí kíp, ông ta cũng viết rõ cách phá kiếm pháp đó, nên Thừa Chí không sợ hãi gì cả. Trông bóng kiếm của hai kẻ địch, chàng xuyên đi xuyên lại, ung dung vô cùng.
Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa hết sức đánh thật nhanh mà không sao đụng được vào người Thừa Chí. Những người đứng cạnh càng xem càng lạ. Trịnh Khởi Văn nói với Thập Lực đại sư rằng:
- Kinh công của thiếu niên này đẹp tuyệt, có lẽ là đệ tử của Kim Xà Lang Quân thật cũng nên?
Thập Lực đại sư gật đầu đáp:
- Trong phái hậu sinh, người tài ba như y kể cũng hiếm có lắm.
Đánh đến nổi khùng, Mẫn Tử Hoa tiến vào trong cung, cầm kiếm đâm thẳng vào ngực Thừa Chí. Đồng thời, Đồng Huyền cũng sử dụng một thế "Tả Hữ Khai Cung", tả đâm một kiếm, hữu đâm một kiếm. Hai người hợp sức tấn công khiến Thừa Chí không còn chỗ tránh. Chàng bỗng phi thân tiến thẳng vào chui qua đáy kiếm, đầu húc vào bụng Mẫn Tử Hoa. Chàng mới dùng có ba phần sức mà Mẫn Tử Hoa đã loạng choạng suýt ngã. Đồng Huyền sợ quá, liên hoàn đâm liền ba kiếm, hết sức cản trở. Mẫn Tử Hoa nhờ vậy mới đứng vững liền lên tiếng chửi:
- Quân mất dạy này, mầy dám húc đầu vào bụng ông mầy à?
Lần này ra tay, Thừa Chí muốn giải hòa, chớ không muốn mất lòng các nhân vật trên chốn giang hồ, và cũng không muốn gây thù chuốc oán với họ. Nhưng lúc này Mẫn Tử Hoa đã lên tiếng chửi như vậy, nhục đến người trên, Thừa Chí nổi giận, trong lòng tính toán hôm nay không dỡ chút võ công để khuất phục họ, thì việc này khó kết liễu được. Vì lát nữa xử trí hai tên giặc mãi quốc Trường Bạch tam anh, chỉ sợ người khác không phục. Nghĩ đoạn, chàng nhảy đến cạnh bàn, cầm chén rượu ngửng đầu uống cạn, rồi la lớn:
- Đánh mau lên, ta còn chưa ăn no đâu.
Thấy khinh mình quá đáng như vậy, Mẫn Tử Hoa càng tức giận, múa kiếm càng nhanh, xong lại gần Thừa Chí. Đồng Huyền vội khẽ nói:
- Mẫn sư đệ chớ quá nóng nảy, đừng trúng kế khiêu khích của y.
Mẫn Tử Hoa tỉnh ngộ ngay. Hai người lại chia làm tả hữu vây Thừa Chí ở giữa.
Gỡ được mấy thế, Thừa Chí bỗng nhảy ra ngoài vòng để chén xuống bàn la lớn:
- Chú Thanh rót rượu cho tôi!
Thanh Thanh nói:
- Vâng!
Thừa Chí cầm cái ghế, đứng cạnh bàn, cả hai mũi kiếm của địch đánh tới, chờ rượu rót xong, để ghế xuống, cầm chén rượu lại nhảy vào giữa. Ngoạm đùi gà, vừa nhai vừa nói:
- Lưỡng Nghi kiếm pháp đã có nhiều chỗ sơ hở, hai người lại không khéo sử dụng thì đánh ta bị thương sao nổi?
Chàng uống một hớp rượu lại nói tiếp:
- Hồi nhỏ sư phụ ta bắt ta làm văn. Bây giờ hứng văn của ta nổi lên, ta phải làm văn đây.
Đồng Huyền quát lớn:
- Thằng nhãi, coi kiếm!
Thừa Chí lớn tiếng nói:
- Đầu đề bài văn hôm nay của ta là Sứ giả Kim Xà cười đấu hai ngốc tử ký.
Thanh Thanh cười nói:
- Đại ca, thế là nghĩa gì?
Thừa Chí đáp:
- Đó là đầu đề của bài văn.
Thanh Thanh lại nói:
- Hay đấy, anh làm mau lên, chỉ nhớ cho, lát nữa sẽ chép ra tờ giấy.
Thừa Chí nói:
- Ô hô! Bảo kiếm gia, là lợi khí giết người. Ngốc tử gia là biệt hiệu của kẻ ngu, một ngốc tử để giải buồn cho người, hai ngốc tử làm cho người ta ôm bụng cười bò, mà nay hai ngốc tử tay cầm bảo kiếm muốn mưu sát người, khiến ta phải phun rượu cười chảy nước mắt!
Thanh Thanh lớn tiếng nói:
- Phun rượu cười chảy nước mắt, câu này đáng khuyên.
Thừa Chí tránh liền ba miếng hiểm, lại nói tiếp:
- Ngã là Sứ giả Kim Xà, vui lòng làm Lễ Trọng, mà chư quân cứ chấp nê. Không quấy nhiễu luôn luôn: bốn phương quân tử, ngừng chén coi chiến, ba tên gian tặc lòng lo ngay ngáy có cách gì mà giải được mối nguy này! Duy chỉ có đánh ngã nó!
Vừa dứt lời, chàng đột nhiên quay mình, đùi gà ở trong tay ném thẳng vào mặt Mẫn Tử Hoa, và tiện tay gắp luôn mũi kiếm của Đồng Huyền vận sức vào đầu đũa, quát lớn:
- Buông kiếm!
Quả nhiên thanh kiếm của Đồng Huyền bị giựt rơi xuống đất. Võ công tinh cường giơ tay phải, chân trái quét tới, Đồng Huyền muốn cầu thắng trong khi bại. Thừa Chí nhún mình nhảy lên tránh cái đá của địch, chén rượu trong tay bay ra tức thì. Chén rượu đó ném trúng huyệt "Khúc Xích" của Mẫn Tử Hoa. Cảm thấy tay tê liệt, Mẫn Tử Hoa không cầm vững thanh kiếm bỏ rơi xuống đất. Dùng thế "Hàn Nhà Phó Thủy", Thừa Chí nhảy xổ xuống nhặt lấy song kiếm và nói lớn:
- Các ngươi chưa được thấy một người sử dụng "Lưỡng Nghi kiếm pháp" thì đây lưu ý mà xem.
Chàng múa song kiếm, tả công hữu thủ, hữu tiến tả lui, một thế một thức, quả nhiên không sai Lưỡng Nghi kiếm pháp tí nào, chàng hai tay sử dụng kiếm thuật phức tạp như vậy, mà kiếm nào công lực cũng rất mạnh, các người đứng xem xung quanh những bọn trẻ không nói làm gì, còn Thập Lực đại sư, Truy Phong Kiếm Vạn Phương, Trịnh Khởi Văn, Côn Lôn phái Chương Tâm Nhứt, và Hoa Sơn phái Mai Kiếm Hòa vân vân, đều ngơ ngác nhìn.
Chàng sử dụng xong 64 miếng Lưỡng Nghi kiếm pháp, thét lên một tiếng, hai kiếm thoát khỏi tay bay ra cắm lên xà nhà ngập sâu đến tận cán.
Thế võ đó là tuyệt chiêu của Mục Nhân Thanh phái Hoa Sơn sáng chế ra. Vừa giở tuyệt kỹ xong, Thừa Chí buông tay, lùi ra một bên. Lúc bây giờ, tiếng vỗ tay nổ lên như pháo ran.
Trong khi mọi người đang khen ngợi, Thanh Thanh lớn tiếng nói:

- Ha, ha có người sắp phải gọi ta "cha" đây.
Mai Kiếm Hòa mặt sầm lại, đưa mắt nhìn Thanh Thanh, tay để lên cán kiếm.
Trịnh Khởi Văn cười nói:
- Tiêu cô nương, cô đã được cuộc rồi. Cô đến đây nhận số tiền này đi!
Nói đoạn, y đẩy mấy thoi vàng lại đầu bàn đằng này. Tiêu Uyển Nhi nhận lấy số vàng, cúi chào cảm ơn, và nói:
- Cám ơn bác, tôi lấy số vàng này thưởng người nhà hộ bác!
Nói tới đây, nàng nói với các người nhà của Trịnh đảo chủ rằng:
- Số tiền chín ngàn lạng bạc này đây là tiền được giữa tôi với Trịnh đảo chủ đánh đố với nhau. Các vị ở xa tới, bang Kim Long chúng tôi tiếp đãi thiếu chu đáo. Tôi rất lấy làm hổ thẹn. Hiện giờ, tôi mượn hoa hiến Phật. Ở đây có rất nhiều anh em theo hầu các chú bác, huynh tỷ tới dự tiệc. Vậy tôi lấy số tiền này chia ra, tặng mỗi anh em một trăm lạng. Ngày mai, tôi xin sai người đưa đến tận chỗ ở.
Các người thấy trận oán cừu đã vô hình giải tán. Bang Kim Long xử trí rất khéo léo, ai nấy đều vui vẻ. Chỉ có Mẫn Tử Hoa và Đồng Huyền bại trận mất hết sĩ diện.
Tiêu Công Lễ nói:
- Năm xưa, tánh đệ quá nóng, làm việc lỗ mãng, để đến nỗi lỡ tay giết chết huynh trưởng của Mẫn nhị ca. Đệ ăn năn vô cùng. Bây giờ trước mặt các vị anh hùng, đệ xin tạ lỗi Mẫn nhị ca. Uyển Nhi con đến chào Mẫn thúc thúc đi.
Vừa nói ông ta vừa cúi đầu chào Tử Hoa. Uyển Nhi cũng tiến đến quỳ xuống vái lạy. Đã có lời nói trước, và lại đọc qua hai lá thơ, Tử Hoa biết lỗi ở mình, muốn tiếp tục báo thù, sức mình làm không nổi, thì nhân lúc này xử hòa cho xong. Nghĩ xong, y liền đáp lễ lại, nhưng nghĩ đến anh mình, nước mắt lại chảy quanh. Tiêu Công Lễ nói:
- Mẫn nhị ca đã xóa bỏ hiềm thù cũ, đệ cảm ơn vô cùng. Còn câu chuyện đánh cuộc cái nhà, chỉ là một câu chuyện nói đùa, xin đại gia này đừng nhắc nhở đến nữa. Ngày mai tôi sẽ cất một căn nhà khác biếu hai vị nhé?
Thanh Thanh lắc đầu nói:
- Điều đó không được. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy. Lời đã nói ra không thể hồi được.
Mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ thầm: "Tiêu Công Lễ đã nhận lời cất cho căn nhà khác, nhà đó tất phải lớn rộng gấp mười lần nhà của Mẫn Tử Hoa mà tại sao thanh niên nọ lại cứ khăng khăng bắt buộc như vậy?"
Tiêu Công Lễ cúi chào Thanh Thanh và nói:
- Thưa chú em, ân tình của hai vị, tôi biết không sao đền bù xuể. Bây giờ, tôi lại xin lão đệ giúp đỡ một lần nữa. Ở cửa Nam thành, tôi có một biệt thự lớn, có cả vườn hoa. Nếu hai vị vui lòng nhận cho, tôi cam đoan hai vị phải hài lòng.
Thanh Thanh đáp:
- Vị Mẫn gia này vừa rồi muốn giết ông báo thù. Nếu ông nói đừng giết tôi nữa, tôi kiếm người khác thay thế để cho bạn giết, cam đoan bạn phải hài lòng. Ông thử nghĩ xem, liệu Mẫn gia có chịu không?
Bị nàng hỏi lại, Tiêu Công Lễ không sao trả lời được, quay đầu nói với Uyển Nhi rằng:
- Đại gia này đã thích căn nhà ấy thì lát nữa con sai người nhà đem so tính, giá mua căn nhà đó là tám nghìn ba trăm lạng bạc, sang gởi trả Mẫn nhị thúc.
Mẫn Tử Hoa nói:
- Thôi thôi, tôi lấy tiền làm quái gì! Đại trượng phu, nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Thù oán giữa tôi với Tiêu gia từ đây là xong. Ngày mai tôi sẽ về quê ở, và cũng không còn mặt mũi nào ở giang hồ làm ăn nữa. Cái nhà đớ cứ để hai vị này lấy đi mà ở.
Nói xong, y quay chào mọi người một vòng, và nói tiếp:
- Quý bạn hữu không quản ngại đường sá xa xôi đến đây ra tay trợ giúp. Ngờ đâu, đệ không ra gì, võ nghệ lại kém người, không thể trả thù cho người anh đã khuất. Và còn làm quý vị mất công đi một chuyến, đệ xin báo đền một ngày sau này.
Thấy y nhanh nhẩu và trực tánh như vậy, Thừa Chí liền kêu gọi:
- Mẫn nhị gia tuy bại trong tay tôi. Nhưng sự thật võ nghệ của tôi còn kém hai vị xa. Xin hai vị chớ có quan tâm đến điều đó. Tôi là hậu bối, xin cung cẩn tạ lỗi cùng hai vị.
Mọi người đều ngạc nhiên, rõ ràng chàng đã thắng một cách vinh dự, tuy không đánh bại hai người, sao chàng lại bảo là võ nghệ kém người?
Thừa Chí lại nói:
- Hai vị thua, là thua Kim Xà Lang Quân, chớ không phải thua tôi bởi ông ta đã đoán đúng những thế võ của hai vị, cho nên mới bảo tôi phải cố ý làm ra vẻ ung dung kiêu ngạo, để chọc tức hai vị rồi thừa cơ mà chiến. Kim Xà Lang Quân là đệ nhứt cao thủ trong võ lâm hiện nay. Võ công của ông ta cao siêu không thể nào đo lường được. Hậu bối không phải là môn đồ của ông ta, chỉ vì một trường hợp gặp nhau ngẫu nhiên, tôi may mắn được ông ta dạy bảo cho ít thế, để đến đây giải vây mà thôi. Hai vị bại trong tay ông ta, như thế chưa phải là gì nhục cho lắm. Hậu bối nói mấy lời đây, tuy hơi sỗ sàng, nhưng đó là sự thật! Dù tôn sư Hoàng Mộc đạo trưởng còn sống, cũng không địch nổi ông ta, thì hai vị làm sao mà thắng nổi.
Lời nói của Thừa Chí khiến Mẫn Tử Hoa và Đồng Huyền đạo nhân bán tín bán nghi. Nhưng cả hai người đã nguôi cơn giận rồi. Đồng Huyền vái chào Thừa Chí rồi nói:
- Thí chủ đã khiến sư huynh đệ của bần đạo khỏi mất sĩ diện, bần đạo rất cảm ơn. Xin thí chủ cho biết cao tánh đại danh?
Thừa Chí chỉ Thanh Thanh nói:
- Vị này là triết tự của Kim Xà đại hiệp, họ Hạ, còn hậu bối đây họ Viên.
Mẫn Tử Hoa vái chào Tiêu Công Lễ nói:
- Đệ quấy nhiễu đại gia nhiều quá. Chúng ta từ nay xa biệt.
Tiêu Công Lễ nói:
- Ngày mai, đệ sẽ đến quý phủ thỉnh tội!
Mẫn Tử Hoa vội nói:
- Đệ không dám.
Mọi người đang định cáo lui, Thanh Thanh liền lớn tiếng hỏi:
- Còn việc đánh cuộc khúc kiếm gãy thì sao?
Thấy cha đã thoát khỏi tai nạn, Uyển Nhi không muốn có gì lôi thôi nữa, vội nói:
- Hạ gia, xin đừng nói tới câu chuyện nhỏ mọn ấy nữa. Mời Hạ gia vào xơi nước.
Thanh Thanh nói:
- Xin cô hãy để cho tôi chờ một thằng nhỏ gọi tôi là cha đã.
Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân không thể chịu đựng nữa cùng nhảy ra giữa sảnh. Mai Kiếm Hòa chỉ Thừa Chí nói:
- Người là môn đồ phái nào? Vừa rồi, thế võ lao song kiếm cắm lên xà nhà là thế võ của phái Hoa Sơn chúng ta. Chẳng hay ngươi học lóm ở đâu thế?
Lúc đó đứng sau sư huynh, Lưu Bội Sinh cũng bước ra, lớn tiếng hỏi:
- Tại sao vừa rồi ngươi lại dám sử dụng Phục Hổ chưởng của chúng ta? Ngươi học trộm ở đâu? Nói mau?
Thừa Chí cười nói:
- Việc gì ta phải học trộm?
Tôn Trọng Quân hỏi:
- Hừ! Tiểu tặc, học trộm còn không nhận phải không?
Mai Kiếm Hòa nghiêm nét mặt nói:
- Vậy ngươi học những thế võ ấy ở đâu?
Thừa Chí đáp:
- Ta là môn hạ của phái Hoa Sơn.
Tôn Trọng Quân tiến lên một bước, chỉ vào mặt chàng mắng chửi:
- Vừa rồi, ngươi đem nhãn hiệu cái Kim Xà Lang Quân ra khoe khoang giỏi lắm! Bây giờ ngươi lại giở phái Hoa Sơn ra dọa người! Người có biết bà cô người là môn phái nào không? Hà, hà! Bây giờ thật là Lý Quỳ giả hiệu gặp Lý Quỳ chánh tông nhé? Nói thật cho ngươi biết, ba anh em chúng ta mới chánh là môn phái Hoa Sơn.
Thừa Chí điềm tĩnh trả lời:
- Tôi đã nói ngay lúc đầu rồi. Tôi với Kim Xà đại hiệp không có liên can gì, chỉ là bạn hữu của hiền lang ông ta thôi. Còn ba vị là môn đồ của phái Hoa Sơn, tôi đã biết từ trước kia rồi. Chúng ta cùng người nhà cả.
Trong ba sư huynh đệ nọ, Lưu Bội Sinh là người thận trọng hơn cả, liền nói:
- Các môn đồ Đồng Bút Thiết Toán Bàn Hoàng sư bá, ta đều biết mặt cả. Nhưng không có anh bạn đó. Tôn sư muội có nghe thấy Hoàng sư bá gần đây thu nhận người đồ đệ nào không?
Tôn Trọng Quân đáp:
- Người cẩn thận và tự trọng như Hoàng sư bá có bao giờ thèm nhận những quân bịp bợm làm đồ đệ đâu.
Viên Thừa Chí vì đánh gãy thanh kiếm của nàng, nên nàng căm giận vô cùng, hơn nữa tánh đàn bà hẹp lượng, mới ăn nói sỗ sàng như vậy.
Thừa Chí vẫn điềm tĩnh nói:
- Phải, Hoàng sư huynh Hoàng Chân rất tự trọng. Không bao giờ anh ta lại thâu nhận đồ đệ bậy bạ.
Thấy chàng gọi Hoàng Chân là sư huynh, mọi người đều kinh ngạc. Lưu Bội Sinh quát hỏi:
- Sự thật ngươi học võ của phái Hoa Sơn ở đâu? Phải nói mau?
Thừa Chí đáp:
- Sư phụ ta họ Mộc! Tên ông ta chữ trên là "Nhân", chữ dưới là "Thanh." Các người trên giang hồ đều tôn ông ta là "Bát Thủ Tiên Viên."
Thấy Thừa Chí võ nghệ xuất chúng lại tự xưng là môn hạ phái Hoa Sơn, Mai Kiếm Hòa bán tín bán nghi. Thoạt tiên, y tưởng chàng là môn đồ của phái khác, gần đây mới chuyển sang học võ của Hoàng Chân. Bây giờ y lại nghe chàng nói là đồ đệ của sư tổ, tất nhiên là nói láo. Y nghĩ: "Hành tung của sư tổ rất phiêu phất, chính ta đây cũng chỉ được gặp mắt một, hai lần thôi. Sư phụ ta Quy Tân Thụ năm nay đã năm mươi tuổi rồi, tên thiếu niên này tuổi trẻ như thế, mà dám mạo nhận là sư thúc. Y không biết cái chết là gì!"
Nghĩ xong, y khinh khỉnh nói:
- Theo lời ngươi nói, thì người là sư thúc chúng ta đấy?
Thừa Chí đáp:
- Tôi đâu dám nhận làm sư thúc của ba vị đại anh hùng, đại hào kiệt cơ chớ!
Thấy giọng nói của chàng có vẻ châm biếm, Mai Kiếm Hòa lại hỏi:
- Thưa sư thúc đại nhân, chẳng lẽ chúng ta đã làm nhục mạ thanh danh của phái Hoa Sơn hay sao? Hà, hà... Ngươi hãy dạy bảo ba đứa tiểu sư điệt tội nghiệp này vài miếng võ thử xem?
Tuổi của Kiếm Hòa đã ba mươi bảy, tám rồi. Thấy y nói như vậy, Mẫn Tử Hoa và những bạn cùng tới đều ôm bụng cười ồ.
Thừa Chí nghiêm nét mặt nói:
- Nếu Quy Tân Thụ sư huynh ở đây, anh ta sẽ tự dạy bảo các người.
Bỗng đứng phắt dậy, Mai Kiếm Hòa rút kiếm ra rồi mắng chửi liền:
- Thằng ngu kia, ngươi còn ở đấy nói bậy phải không?
Thấy mọi việc yên ổn cả, nay vì một việc nhỏ mọn lại khơi tranh đấu, Tiêu Công Lễ rất lo ngại, vội nói:
- Viên gia đây nói đùa đấy. Xin Mai gia hãy nguôi cơn giận. Nào, tất cả lại đây, chúng ta uống cạn một chén.
Ngay cả Tiêu Công Lễ cũng không tin Thừa Chí là sư thúc của Mai Kiếm Hòa.
Mai Kiếm Hòa lớn tiếng nói:
- Thằng ngu kia, mi quỳ xuống lạy ta ba lạy, gọi bằng sư thúc, ta cũng lắc đầu không thèm nhận những hạng như mi làm sư điệt. Mi đã biết chưa?
Bên này, Thanh Thanh lại lên tiếng:
- Này tên Mạt Ảnh Tử kia, ngươi phải gọi ta là cha trước đi!
Thừa Chí quay đầu lại bảo Thanh Thanh:
- Chú Thanh, chú đừng có quấy nữa.
Rồi chàng lại nói với Mai Kiếm Hòa:
- Tôi chưa gặp Quy sư huynh bao giờ. Hơn nữa ba vị lại lớn tuổi hơn tôi, theo lý ra, xưng là sư thúc thật. Nhưng hành vi của ba vị ngày hôm nay cũng quá đáng lắm!
Cau mày, ngửng mặt lên cả cười, Mai Kiếm Hòa đã tức giận vô cùng, liền quát lớn:
- A, tên nhỏ này, mi còn dám dạy bảo chúng ta phải không? Ba anh em ta đã làm điều gì lầm lỗi nào? Chẳng lẽ chúng ta ra tay giúp bạn cũng không nên hay sao?
Thừa Chí nói:
- Mười hai giới điều của Tổ sư phái Hoa Sơn chúng ta truyền lại. Trong đó điều thứ ba, thứ năm, thứ sáu, và thứ mười một là những gì?
Mai Kiếm Hòa ngẩn người ra chưa dám trả lời, Tôn Trọng Quân đã cầm thanh kiếm gãy, nhắm mặt Thừa Chí ném tới, và quát lớn:
- Mi hay, hãy giở võ Hoa Sơn của mi ra xem đã?
Chờ thanh kiếm gãy tới gần, Thừa Chí dùng hay bàn tay trên dưới chập lại "bốp" một tiếng. Mẩu kiếm đã nằm yên trong hai bàn tay, chàng liền nói:
- Miếng này gọi là "Hoành Bái Quan Âm" phải không?
Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh ngạc nhiên, cùng nghĩ thầm: "Miếng ấy là chưởng pháp của bổn môn thật. Y sử dụng tài quá! Sư phụ mình chưa chắc đã làm giỏi như y!"
Nghĩ đoạn, Lưu Bội Sinh tiến lên một bước nói:
- Phải, miếng vừa rồi đúng là chưởng pháp của bổn môn rồi. Để ta thỉnh giáo thử trước.
Thừa Chí nói:
- Lưu đại ca biệt hiệu là Thần Quyền Thái Bảo, chắc hai thế "Phách Thạch" và "Phá Ngọc" trong "Phục Hổ chưởng" của đại ca tất phải thạo lắm phải không?
Lúc này Lưu Bội Sinh đã không dám khinh chàng như trước, vội nói:
- Võ của tôi mới học được chút ít bên ngoài của sư phụ thôi. Chớ tôi đâu dám nhận là thuần thục các thế võ đó.
Thừa Chí nói:
- Lưu đại ca không nên khiêm tốn như vậy. Lúc đại ca đấu tay đôi với Quy sư huynh tôi mà sư huynh sử dụng "Hồn Thiên công" thì đại ca có thể tiếp được mấy hiệp?
Lưu Bội Sinh đáp:
- Tôi chỉ tiếp được mười hiệp đầu thôi, còn mười hiệp sau thì tôi chịu không nổi.
Thừa Chí lại hỏi:
- Nghe nói Quy sư huynh tôi biệt hiệu là Thần Quyền Vô Địch, chắc quyền pháp của anh ta phải tinh xảo lắm. Lưu đại ca có thể đỡ được trên mười hiệp, như thế kể cũng hiếm lắm. Bốn chữ Thần Quyền Thái Bảo đại ca có thể dùng mà không hổ thẹn.
Lưu Bội Sinh nói:
- Biệt hiệu đó người ta bông đùa ban cho đấy. Chớ sự thật võ nghệ của tôi kém lắm.
Thấy Lưu Bội Sinh càng nói càng cung kính thiếu niên nọ, hình như anh ta có ý muốn nhận thiếu niên kia là sư thúc, Tôn Trọng Quân nổi giận nói:
- Lưu sư huynh anh làm gì thế? Người ta mới nói khoác vài câu, anh đã sợ mà phải vội nhận xẵng ư?
Thừa Chí hỏi:
- Vậy phải thế nào, ba người mới tin tôi là sư thúc?
Lưu Bội Sinh đáp:
- Xin dùng bổn môn quyền pháp đấu với tôi vài hiệp thắng tôi.
Thừa Chí nói:
- Tưởng gì, chớ thế thì dễ lắm. Nếu anh tiếp được tôi năm hiệp, hết hiệp thứ năm mà không thua, thì tôi là giả hiệu. Như thế đã được chưa?
Mai Kiếm Hòa nghe chàng nói, chỉ cần năm hiệp là thắng nổi Lưu sư đệ, một tay giỏi quyền nhứt trong công môn mình, trong lòng vẫn cho là nói khoác, liền nói xen vào:
- Được để tôi đếm cho.
Lưu Bội Sinh cúi chào rồi nói:
- Võ nghệ tôi còn non kém lắm làm ơn nhẹ tay cho.
Thừa Chí từ từ bước lại gần vừa nói vừa ra tay đánh:
- Hiệp thứ nhứt, tôi dùng thế "Thạch Phá Thiên Kinh" liệu mà đón đỡ!
Lưu Bội Sinh đáp:
- Vâng!
Vừa đỡ y vừa nghĩ: "Có ai đấu võ lại nói trước tên thế võ cho kẻ địch biết như thế này bao giờ chưa? Thế nào chàng ta cũng đánh lừa mình. Cố ý nói tên thế võ để mình chú ý bên trên rồi chàng ta xuất kỳ bất ý tấn công phía dưới mình cũng nên?"
Nghĩ vậy, dùng bàn tay phải đỡ hờ cái mặt, tay trái nắm quyền để ngang giữ bụng dưới, chờ Thừa Chí tấn công phía dưới là trảm quyền đánh xuống.
Ngờ đâu, Thừa Chí xông tới, tay trái vuốt hờ, tay phải nhân lúc thâu hồi, tay trái một chưởng đánh thẳng vào người Lưu Bội Sinh. Thế võ này đúng thế là võ tuyệt cú của môn phái Hoa Sơn. Lưu Bội Sinh vội giơ bàn tay phải ra cản, khi chĩa tới mặt đối phương, bỗng ngừng tay lại, Thừa Chí hỏi:
- Tại sao anh không tin tôi? Một tay trái của anh chống sao nổi tay phải của tôi.
Thấy thế đánh của Thừa Chí quá hùng mạnh, Lưu Bội Sinh cũng một tay không sao cản nổi, đang sợ bị đánh vỡ mũi, ngờ đâu Thừa Chí bỗng ngừng tay lại. Lưu Bội Sinh vộ giơ tay trái lên, đang nắm quyền liền đổi ra chưởng, hợp cùng tay phải, song chưởng đẩy mạnh một cái, mới đẩy lui được tay phải của đối phương. Thu quyền lại, Thừa Chí nói:
- Ba thế sau đây là: "Lúc Phách Tam Quan", "Phao Chuyên Dẫn Ngọc", và "Kim Cương Chế Vĩ" (ba thế trên nghĩa là: Bỏ mạnh ba quan ải, Ném gạch dụ ngọc, và Kim Cương kìm chế đuôi). Tôi sẽ đánh cả một lúc thì anh đỡ bằng những thế võ nào?
Không phải nghĩ ngợi, Lưu Bội Sinh trả lời ngay rằng:
- Tôi sẽ dùng ba thế như sau: "Phong Bế Thủ" (tay phong tỏa kín đáo), "Bạch Vân Xuân Tụ" (mây trắng ra tụ trong rặng núi), và "Bàng Hoa Phất Liễu" (dựa hoa phủi cành liễu).
Thừa Chí nói:
- Anh sử dụng hai thế đầu đúng đấy, còn thế sau thì sai. Anh nên biết thế võ "Bàng Hoa Phất Liễu" là thế thủ mà có cả thế công nữa. Nếu anh dùng nó đấu với người ngang sức thì không thế võ nào thích hợp bằng. Nhưng vì thế này nửa công nửa thủ, tất nhiên anh phải chia sức lực ra làm đôi. Như thế anh tiếp sao nổi "Kim Cương Chế Vĩ" của tôi.
Lưu Bội Sinh nói:
- Nếu vậy, tôi dùng luôn thế tấn "Thiên Cân Trụy Địa" (nghìn cân rơi xuống đất).
Thừa Chí nói:
- Phải! Anh đón đánh nhé!
Vừa dứt lời, chàng giơ tay phải lên, Lưu Bội Sinh vội dùng những thế võ đã định ra đỡ. Ngờ đâu Thừa Chí giơ tay phải lên đến lưng chừng, tay phải bổ thẳng xuống, đồng thời nói rằng:
- Võ nghệ không nên cố chấp quá. Sư phụ anh dạy thế "Bách Tam Quan" phải dùng chưởng tay phải. Nhưng anh tùy cơ ứng biến, sử dụng chưởng tay trái cũng có thể được.
Miệng nói, tay vẫn không ngừng. Không chờ Lưu Bội Sinh phong bế, Thừa Chí nhanh nhẹn nắm lấy cổ tay đối phương kéo mạnh về phía trước. Lưu Bội Sinh vội dùng thế "Bạch Vân Xuất Tụ" ra gỡ và lấy tấn đứng lên ngay chớ y không dám thừa cơ tấncông lại. Nhưng y đã bị Thừa Chí giơ tay trái đẩy mạnh chưởng lực lại, hắn ngã về phía trước một bước và phải chạy quanh một vòng mới đứng vững lại được.
Thừa Chí nói:
- Khá đấy, còn thế thứ năm, tôi dùng kiểu cách bắt đầu ra tay của thế "Phá Ngọc quyền."
Thấy chàng không sử dụng cả thế đó mà chỉ lấy kiểu cách bắt đầu thì đánh gì, Lưu Bội Sinh rất lấy làm lạ, lẳng lặng không nói gì. Thấy Lưu Bội Sinh nghi ngờ, Thừa Chí liền giải thích rằng:
- Anh tưởng kiểu cách bắt đầu của thế võ chỉ là lề lối chào nhau mà thôi sao, còn khi lâm trận thì vô dụng phải không? Anh nên rõ, Tổ sư sáng tạo ra pho quyền này, nhứt cử nhứt động đều là những miếng võ lợi hại đánh thắng kẻ địch cả. Anh coi đây!
Vừa nói vừa khom lưng, hữu quyền hợp với tả chưởng, Thừa Chí vái chào. Nhân cai vái đó, chàng nhảy xổ lạ, cả quyền lẫn chưởng đều đánh vào hạ bộ bên trái của Lưu Bội Sinh. Không sao đứng vững được, Lưu Bội Sinh bỗng bay người lên cao, rồi lại rơi xuống. Khi y sắp rơi xuống đất, Thừa Chí đã chạy tới đỡ luôn và đặt đứng vững xuống đất.
Lưu Bội Sinh vội vàng quỳ xuống vái lạy và nói:
- Hậu bối không biết sư thúc, vừa rồi đã vô lễ xúc phạm. Xin sư thúc nể mặt sư phụ cháu xá lỗi cho.
Thừa Chí vội đáp lễ và nói:
- Lưu đại ca lớn tuổi hơn tôi. Chúng ta coi nhau như anh em thì hơn.
Lưu Bội Sinh nói:
- Điều này cháu không dám. Quyền pháp của sư thúc thật là thần diệu vô cùng. Vừa rồi tuy gọi là đấu chơi nhưng sự thật sư thúc đã chỉ bảo cho cháu những quyền pháp tinh vi của bổn môn, cháu thấy cảm ơn vô cùng. Cháu thể nào cũng ôn tập những thế võ ấy luôn luôn.
Thừa Chí mỉm cười không nói năng gì. Nhờ năm thế quyền pháp đó mà sau này quyền thuật của Lưu Bội Sinh càng cao siêu hơn trước nhiều. Vì vậy y suốt đời cung kính Thừa Chí không kém gì sư phụ.
Lúc này Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân không còn nghi ngờ gì nữa. Riêng Kiếm Hòa tự thị đã học được tinh túy kiếm pháp của bổn môn nghĩ thầm: "Quyền pháp của ngươi tuy cao siêu thật nhưng kiếm pháp chắc đâu ngươi đã thắng nổi ta?"
Y đang nghĩ ngợi thì Tôn Trọng Quân đã lớn tiếng gọi:
- Mai sư huynh đấu thử kiếm pháp của y xem.
Mai Kiếm Hòa gật đầu, rồi nói với Thừa Chí:
- Tôi muốn lãnh giáo các hạ mấy thế kiếm.
Lúc này giọng nói của y đã khiêm tốn nhiều nhưng mặt y vẫn còn vẻ vênh váo, kiêu ngạo vô cùng. Thừa Chí nghĩ: "Chắc tên ầy đã học được kiếm pháp chân truyền của bổn môn. Sau khi ra giang hồ hành đạo, y chưa gặp địch thủ nên được người ta khen ngợi quá đáng, mới có thái độ kiêu ngạo và hành vi hỗn xược như vậy. Người này không có tinh thần phục thiện như Lưu Bội Sinh, ta phải cho y một bài học, sau này y mới khỏi làm nhục đến môn phái Hoa Sơn mình."
Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
- Đấu kiếm cũng được, nhưng sau khi biết thắng bại rồi anh phải lắng tai nghe mấy lời trung ngôn nghịch nhĩ của tôi.
Mai Kiếm Hòa kiêu ngạo đáp:
- Bây giờ còn chưa biết ai thắng ai bại, ngài nói như vậy hơi sớm quá.
Thấy Mai Kiếm Hòa đã rút kiếm ra đứng phía trái sửa soạn đấu. Lưu Bội Sinh vội gọi:
- Mai sư huynh phải đứng ở phía dưới mới phải.
Mai Kiếm Hòa làm như không nghe vẫn đứng yên nghênh địch. Theo quy luật của phái Hoa Sơn, người dưới thủ kiếm học võ với bề trên phải đứng phía dưới. Như vậy tỏ ra mình không dám đối địch, chỉ xin tôn trưởng chỉ bảo cho vài thế võ mà thôi.
Lúc này Mai Kiếm Hòa đứng ở phía trái, hiển nhiên y vẫn chưa chịu nhận Thừa Chí là sư thúc, chưa sửa soạn gì, Mai Kiếm Hòa liền thúc giục:
- Mời các hạ dùng kiếm!
Thừa Chí nghĩ ngợi giây phút, liền nói với Tiêu Công Lễ:
- Tiêu lão bá, xin cho mượn mười thanh kiếm ra đây.
Tiêu Công Lễ vội nói:
- Viên tướng công chớ gọi tôi như vậy. Tôi đâu dám nhận.
Tiêu Uyển Nhi ra hiệu cho mấy người môn đồ bưng mười thanh kiếm vào. Mấy người môn đồ vội ra lựa chọn mười thanh kiếm thật tốt đem vào bày la liệt trên bàn.
Mọi người đều nhìn cả vào Thừa Chí để xem chàng tuyển dụng thanh kiếm nào. Ngờ đâu, chàng chỉ lấy thanh kiếm gãy của Tôn Trọng Quân, vừa cười vừa nói:
- Tôi dùng thanh kiếm gãy này vậy.
Nghe thấy chàng nói như vậy, ai nấy đều ngạc nhiên nghĩ thầm: "Nửa thanh kiếm này lại không có cán xem chàng sử dụng bằng cách nào?"
Thừa Chí dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp lưỡi kiếm gãy kia, rồi lên tiếng gọi:
- Mời anh tấn công!
Mai Kiếm Hòa cả giận, nghĩ thầm: "Mi khinh thường ta như vậy, chứ đừng có cáu ta nhé!"
Nghĩ xong, y cầm kiếm phất một cái, thanh kiếm như làn sóng điện, ánh sáng lập lòe và tiếng kêu "vo vo." Lên oai xong, y liền nói:
- Coi kiếm!
Nhắm cổ tay phải của Thừa Chí, Kiếm Hòa đâm thẳng mũi kiếm. Thừa Chí phản công linh hoạt. Tấn công vào nhược điểm đó đối phương tất phải lúng túng. Lúc ấy tầm mắt của hơn hai trăm người có mặt tại đó đều nhìn vào lưỡi kiếm của Kiếm Hòa, ai nấy đều im hơi tiếng lo thay cho Thừa Chí. Thấy kiếm của Kiếm Hòa đâm tới, Thừa Chí không nhảy ra ngoài tránh, mà bỗng giơ lưỡi kiếm cụt ra đỡ thanh kiếm của địch. Hai thanh kiếm vừa va chạm nhau, người ta chỉ nghe "cách" một tiếng và tiếp theo đó la tiếng "keng." Thanh kiếm trong tay Mai Kiếm Hòa đã bị gãy đứt. Mà chỗ gãy lại ở liền ngay đốc kiếm. Trong tay y chỉ còn cầm cái cán kiếm thôi. Ai nấy đều ngơ ngácnhìn nhau không biết chàng dùng thế võ gì mà lại rung gãy khí giới của Kiếm Hòa như vậy.
Chỉ mặt bàn, Thừa Chí nói:
- Tôi đã gọi người lấy sẵn mười thanh kiếm cho anh, mau ra mà đổi đi!
Đến lúc này mọi người mới hay chàng đòi lấy mười thanh kiếm như vậy là để sẵn cho đối phương thay dùng.
Mai Kiếm Hòa vừa sợ vừa giận, nhặt luôn một thanh kiếm ở trong bàn và đâm ngay vào hạ bộ Thừa Chí. Biết miếng đó là hư, chàng không thèm gạt đỡ. Quả nhiên miếng đó đâm tới lưng chừng, Mai Kiếm Hòa đã xoay sang miếng khác đâm vào bụng chàng. Thừa Chí dùng lưỡi kiếm gãy giơ ra đỡ "cách" một tiếng, thanh kiếm của Kiếm Hòa đã bị chấn gãy làm đôi.
Thay liền ba thanh kiếm, thanh nào cũng bị Thừa Chí đánh gãy đôi, Mai Kiếm Hòa đứng ngẩn người ra không nói được nửa lời. Tôn Trọng Quân lớn tiếng nói:
- Đấu kiếm mà dùng yêu thuật thì đấu làm gì?
Thừa Chí vứt lưỡi kiếm gãy đi, mỉm cười cầm hai thanh kiếm ở trên mặt bàn lên, ném một thanh cho Mai Kiếm Hòa rồi quay đầu lại nói với Tôn Trọng Quân rằng:
- Uổng cho chị là người trong bổn môn. Tôi sử dụng "Hổ Thiên công" mà không biết còn dám bảo là yêu thuật.
Thừa dịp chàng đang quay đầu nói với Tôn Trọng Quân, Mai Kiếm Hòa bỗng đâm một nhát kiếm nhanh như chớp vào sau lưng, chờ mũi kiếm sắp đâm tới người, y mới thét lên:
- Coi kiếm!
Thừa Chí né mình tránh và cũng quát lớn:
- Coi kiếm!
Thế kiếm của Mai Kiếm Hòa vừa đâm trộm là chiêu thức "Thương Ưng Cầm Thố" (con ó bắt thỏ) Thừa Chí liền tránh khỏi cùng bắt chước đối phương, cũng sử dụng thế kiếm đó đâm lại kẻ địch. Mai Kiếm Hòa cũng bắt chước đối phương né tránh.
Ngờ đâu, kiếm của Thừa Chí lại vòng trở lại, dí ngay vào lưng Mai Kiếm Hòa. Hoảng sợ toát mồ hôi, Mai Kiếm Hòa nhảy về phía trưóc và nhảy tiếp lên cao, nhưng mũi kiếm của Thừa Chí như bóng theo hình, dù Mai Kiếm Hòa tránh thế nào, nhảy thế nào, mũi kiếm vẫn dính sát vào lưng, nếu Thừa Chí không nể nang, chỉ khẽ đâm một cái, Mai Kiếm Hòa đã bị toi mạng rồi. Biệt hiệu của Mai Kiếm Hoa là "Mạt Ảnh Tử" tất nhiên khinh công của y phải cao siêu lắm nên mới được người ta ban cho tôn hiệu đó.
Lúc này, trong lòng Mai Kiếm Hòa hoảng sợ vô cùng, y đã dùng bảy, tám thân pháp, mà không sao tránh thoát khỏi mũi kiếm Thừa Chí.
Thấy y sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, ướt đẫm như tắm. Thừa Chí mới chịu buông tha, thâu kiếm lại, mỉm cười nói:
- Thế kiếm tôi sử dụng cũng là kiếm pháp của bổn môn. Anh chưa học qua thế võ đó hay sao?
Mai Kiếm Hòa định thần một lúc mới cúi đầu khẽ nói:
- Tôi có biết thế kiếm đó. Nhưng vì ngài sử dụng quá nhanh, tôi không thể nào tránh nổi.
Đằng này, Thanh Thanh lại lớn tiếng nói:
- Biệt hiệu của anh là "Mạt Ảnh Tử" tức là người không bóng. Hà! Hà! Tại sao anh lại để cho mũi kiếm của người ta theo sát nút như thế. Nếu là tôi, tôi đành để cho chiếc bóng theo sau còn hơn là không, như anh bây giời chẳng hạn!
Bị Thanh Thanh chọc tức, Mai Kiếm Hòa cứ phải cố nén không dám gây sự như trước, liền đánh trống lảng nói với Thừa Chí rằng:
- Những môn võ tạp học của các hạ nhiều quá, tôi không thể biết rõ chiêu thức nào chánh, chiêu nào phụ để sử dụng võ công bản môn ra chống đỡ.
Thừa Chí đáp:
- Những môn võ tôi vừa sử dụng đều là võ công chánh Hoa Sơn môn phái, sao anh bảo là tạp học? Thôi được, coi đây!
Nói xong, chàng múa kiếm đâm thẳng vào ngực đối phương. Mai Kiếm Hòa giơ kiếm lên đờ và đâm trở lại một kiếm, Thừa Chí hồi kiếm lại gạt ngang. Mai Kiếm Hòa đang định thu kiếm đâm lần nữa, ngờ đâu kiếm của y hình như bị kiếm của đối phương dính chặt. Thừa Chí quay ngược tay lại hai vòng, Mai Kiếm Hòa ngượng tay không thể nào theo nổi, đành phải buông kiếm ra, thanh kiếm bay bổng đi nơi khác.
Thừa Chí hỏi:
- Anh có cần thử nữa không?
Đánh liều, Mai Kiếm Hòa không trả lời, mà vơ vội một thanh kiếm khác ở trên bàn, lẹ chân xông tới đâm thẳng vào vai trái đối phương. Lần này đã khôn nhiều không dám để cho kiếm mình đụng vào kiếm của Thừa Chí, Mai Kiếm Hòa thấy kiếm đối phương gạt tới, vội thâu ngay thế kiếm lại. Ngờ đâu kiếm của Thừa Chí thừa cơ đi thẳng vào ngực Mai Kiếm Hòa. Nếu không giơ kiếm lên đỡ thì sẽ bị trúng ngực, Mai Kiếm Hòa đành phải giơ ngang kiếm gạt. Hai kiếm vừa va chạm nhau, tay lại bị đối phương kéo quay vòng, thế là kiếm của y lại bị bay bổng lên trời một lần nữa. Mai Kiếm Hòa định đi nhặt kiếm, Thừa Chí quát lớn:
- Đến nước này anh còn chưa chịu phục ư?
Vừa nói chàng vừa đâm liền hai kiếm. Mai Kiếm Hòa định phải ngửa người về phía sau để tránh, để hở hạ bộ, bị đối phương dùng chân khẽ vai y bị ngã ngửa người ra phía sau. Thừa Chí dí mũi kiếm ngay yết hầu của y rồi.
- Anh đã chịu phục chưa?
Từ ra đời đến nay, Mai Kiếm Hòa chưa từng bị thua một trận nào nhục nhã. Thấy Mai Kiếm Hòa hai mắt trợn ngược nằm lăn dưới đất, Tôn Trọng Quân tưởng y bị Thừa Chí giết chết, tay không nhảy tới kêu la:
- Có giỏi thì giết cả tôi đi một thể?
Thấy Mai Kiếm Hòa, Thừa Chí cũng phải sợ hãi, nghĩ thầm nếu ta lỡ tay giết chết y thôi. Sau này biết trả lời sư phụ và sư huynh ta ra làm sao? Vội cúi mình xuống lấy tay rờ ngực hắn, thấy trái tim còn đang đập. Thừa Chí mới yên lòng, vỗ vào huyệt đạo bên hông và cổ của Mai Kiếm Hòa mấy cái.
Lúc ấy Tôn Trọng Quân mím môi nghiến răng dẫm vào lưng chàng một kiếm vòng vây, Thừa Chí cứ mặc vẫn tiếp tục chữa cho Mai Kiếm Hòa. Thanh Thanh và Lưu Bội Sinh vội nhảy xổ tới khuyên ca. Tôn Trọng Quân ức quá, ngồi phệt ngay xuống đất, khóc xòa. Một lát sau Mai Kiếm Hòa từ từ tỉnh dậy, miệng khẽ quát:
- Giết chết ta đi!
Lưu Bội Sinh vội khuyên:
- Mai sư huynh, đừng có cứng đầu như vậy, chúng ta nên nghe sư thúc dạy bảo.
Thanh Thanh nhìn Tôn Trọng Quân vừa cười vừa nói:
- Còn khóc lóc làm gì, y chưa chết đâu.
Tôn Trọng Quân nổi giận, nhảy lên đấm vào vai Thanh Thanh một cái. Quả đấm vừa nhanh vừa mạnh, Thanh Thanh không tránh được bị đòn đau quá, định đánh trả lại.
Tôn Trọng Quân bỗng kêu la "Ối trời ôi, ối trời!"
Vừa kêu, nàng vừa dúm lưng lại, Thanh Thanh thấy vậy ngẩn người ra nổi giận nói:
- Ngươi đã đánh ta, ta không kêu đau thì chớ, trái lại ngươi lại kêu la, thế là nghĩa lý gì?
Thừa Chí đưa mắt ra hiệu bảo yên, Thanh Thanh không hiểu gì cả vẫn cứ phải vâng lời. Lúc ấy lưỡng quyền của Tôn Trọng Quân sưng húp và đỏ ngầu, đau quá chịu không nổi. Thì ra lúc nàng ra sức đấm lưng Thừa Chí, Thừa Chí đã vận hơi lên lưng, nên sức đánh của nàng bị bật ngược lại, vận vào hai quyền của chính mình. Lúc đầu, nàng còn chưa thấy gì, đến khi đấm vào vai Thanh Thanh mới cảm thấy tay mình đã sưng và đau buốt đến tận xương tủy, nước mắt tuôn ra tràn trề.
Vì Thừa Chí ghét nàng tâm địa và thủ đoạn quá ác độc mới ra tay đã chặt đứt cánh tay của tên họ La, nên định tâm cho nàng chịu đau khổ một phen. Có nhiều người đứng đó không hiểu gì cả, lại tưởng Thanh Thanh là con của Kim Xà Lang Quân võ nghệ tất phải giỏi hơn Thừa Chí, Tôn Trọng Quân đấm nàng một quyền mà chịu đau khổ, đó là lẽ tự nhiên. Còn Thập Lực đại sư, Trịnh Khởi Văn, Vạn Phương,... thì biết Tôn Trọng Quân bị sức vận nội công của Thừa Chí mà bị đau, chỉ vần xoa bóp và giải huyệt là đỡ đau và khỏi sưng ngay. Mấy người này, tự biết không phải là địch thủ của Thừa Chí nên không dám tự ý ra giải huyệt cho Tôn Trọng Quân, Mai Kiếm Hòa đứng dậy vái chào Thừa Chí ba lạy và nói:
- Viên sư thúc, cháu không biết đại gia giáng lâm, đã xúc phạm rất nhiều, xin sư thúc giải cứu cho Tôn sư muội.
Thừa Chí nghiêm nét mặt hỏi:
- Anh đã biết rồi đấy à?
Mai Kiếm Hòa không dám bướng bỉnh nữa, cúi đầu khẽ nói:
- Nay cháu đã biết rồi. Không nên xé hai lá thơ của Tiêu đại gia và không nên binh Mẫn nhị ca một cách vô lý.
Thừa Chí nói:
- Sau này, bất cứ việc gì anh nên thận trọng thì hơn.
Mai Kiếm Hòa đáp:
- Cháu xin nghe lời sư thúc dạy bảo.
Thừa Chí nói:
- Mẫn nhị gia chưa hiểu chuyện xưa, đến đây trả thù cho anh, chính ra thì không lầm lỗi gì. Còn các vị anh hùng hào kiệt mời đến tương trợ đều bởi nghĩa khí mà tới. Bây giờ tất cả mọi người đều biết rõ tiền nhân hậu quả, xóa bỏ câu chuyện vừa qua, hóa địch làm bạn, xóa bỏ hiềm thù cũ, đủ thấy ai nấy đều có nghĩa khí cao cả. Về điểm này tôi không trách anh, nhưng còn một điểm anh đã lầm lỗi rất lớn mà anh không hiểu.
Mai Kiếm Hòa ngơ ngác hỏi:
- Điểm nào, xin sư thúc cho hay?
Thừa Chí đáp:
- Điều thứ năm trong mười hai địa giới của phái Hoa Sơn là gì?
- Vừa rồi sư thúc hỏi đệ tử bốn điều giới luật, điều thứ ba là: "Lạm sát vô cớ" (giết bừa những người oan uổng) Tôn sư muột quả thật đã phạm lỗi lớn, bây giờ chỉ có cách xin lỗi và đền tội cùng La đại ca. Đồng thời chúng ta cũng bồi thường cho anh ta một chút tổn thất.
Một đệ tử của Tiêu Công Lễ lớn tiếng nói:
- Ai thèm lấy những tiền xấu xa đó, tiền bạc có thể đền bù được một cánh tay đã đứt hay sao?
Mai Kiếm Hòa biết lỗi, chỉ làm thinh không dám cãi lại, Thừa Chí quay lại nói với người đệ tử đó rằng:
- Quả thật hành vi của sư điệt tôi quá lỗ mãng, tôi rất ân hận, chờ vết thương của La đại ca lành mạnh, tôi sẽ cùng anh ta nghiên cứu một môn võ để riêng cho người một tay sử dụng. Võ đó không phải của phái Hoa Sơn nên tôi không cần phải xin phép sư tôn.
Thấy Thừa Chí võ nghệ kinh người, mới biết chàng đã bằng lòng truyền dạy võ nghệ tuyệt tác cho La Thập Như. Như vậy La Thập Như tuy mất cánh tay "Nhân họa đắc phú", sau này sẽ tài ba hơn tất cả đồng môn. Đã có sư huynh đệ đem tin mừng đó vào báo cho La Thập Như biết ngay. Thấy Thừa Chí nhận biết tội lỗi của Tôn Trọng Quân gây ra, không ai dám nói gì nữa.
Mai Kiếm Hòa lại nói:
- Điều thứ sáu là "bất kính Tôn trưởng", điều này đệ tử biết tội. Điều thứ mười một là "bất biệt thị phi", đệ tử cũng biết tội. Nhưng còn điều thứ năm là "Kết giao gian đồ." Điều này đệ tử không hiểu vì Mẫn nhị ca là một người hảo hán...
Nghe tới đây, Mẫn Tử Hoa la lớn:
- Cái gì? Bảo tôi là gian đồ ư?
Thừa Chí nói:
- Xin Mẫn nhị gia chớ có điều lầm, tôi không nói anh đâu.
Mẫn Tử Hoa nói:
- Vậy Viên đại gia nói ai?
Thừa Chí đang định trả lời, bỗng thấy hai người đệ tử của Tiêu Công Lễ đỡ La Lập Như ra vái chào chàng. Chàng vội đáp lễ. Tuy mặt nhợt nhạt không có sắc máu, La Lập Như vẫn cứng cỏi nói:
- Viên đại hiệp đã cứu sư phụ cháu, lại nhận dạy võ cho cháu, cháu cảm ơn vô cùng.
Thừa Chí khiếm lên định la lớn, Trịnh Khỏi Văn đã cười nói:
- Lão Tiêu, đồ đệ của anh khôn ngoan thật sợ người ta nghĩ lại từ chối, gã vội ra cảm ơn ngay rồi.
Tiêu Công Lễ càng cười nói:
- Trịnh đảo chủ khéo pha trò thật.
Chào xong, La Lập Như trở vào bên trong. Lúc này Tôn Trọng Quân đau đến nỗi đầu trán đầy mồ hôi lạnh, Thừa Chí thấy nàng chịu khó khá lâu rồi, tiến đến định cứu chữa, Tôn Trọng Quân tức giận nói:
- Đừng rờ vào tôi, có đau đến chết đi nữa cũng không cần ngươi cứu chữa.
Thừa Chí mặt đỏ bừng định bảo cách cứu chữa cho Thanh Thanh giúp hộ, nhưng thật ra cũng chẳng tiện hơn, quay lại định nhờ Uyển Nhi
Bỗng nghe thấy "Pằng, pằng" hai tiếng, hai cánh cửa khách sảnh này đã bị đánh bật ra tung lên.
Mọi người đều giật mình quay lại xem, thấy hai người từ từ bước vào. Một người ngoài năm mươi tuổi, ăn mặc kiểu nông dân, một người nữa là đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, tay ẵm thằng bé.
Tôn Trọng Quân la lớn:
- Sư phụ, sư mẫu!
Vừa nói, nàng vừa chạy lại gần hai người đó. Thấy nàng xưng hô như vậy, mọi người mới biết vợ chồng Quy Tân Thụ đã tới. Quy nhị nương đưa đứa nhỏ cho chúng giữ, mặt xạm lại xoa bóp cho Tôn Trọng Quân...
Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh cũng vội tiến lên chào, Thừa Chí cũng tiến lại chào. Quy Tân Phụ đỡ chàng dậy, chỉ nói một câu:
- Tôi không dám!
Quy nhị nương vừa xoa bóp cho đồ đệ vừa liếc mắt quan sát Thừa Chí thấy vừa đau. Tôn Trọng Quân vừa khóc vừa kể lể rằng:
- Y bảo, y là các sư thúc của chúng con, còn làm tay con đau như thế này. À, y còn làm gẫy cái kiếm của sư mẫu cho con đấy.
Thấy nàng nói như vậy, Thừa Chí ăn năn thầm nghĩ: "Sớm biết thanh kiếm đó của nhị sư phụ tặng cho nó, thì dù sao ta cũng không đành làm gãy như vậy."
Nghĩ đoạn, chàng vội nói:
- Tiểu đệ không biết, đã trót lỡ tay, xin sư huynh, sư tẩu thứ lỗi cho.
Quy nhị nương nói với Quy Tân Thụ rằng:
- Nầy nhị ca, nghe nói sư phụ mới nhận một tiểu đồ đệ, có phải là y không? Tại sao y lại vô lễ đến thế.
Quy Tân Thụ đáp:
- Tôi chưa thấy y bao giờ.
Quy nhị nương nói:
- Phải biết, bể học vô bờ, ngoài trời lại có trời, người giỏi lại có người giỏi hơn, mới học có một chút võ nghệ mà đã dám tự tiện đi bắt nạt người. Hừ! Đồ đệ ta mất dạy đã có ta dạy bảo, không cần sư thúc phải bận tâm hộ!
Thừa Chí vội nói:
- Dạ, dạ! Tiểu đệ có phần lỗ mãng.
Quy nhị nương nói:
- Ngươi làm gãy kiếm của ta, ngươi có còn coi tôn trưởng là gì không, dù sư phụ có cưng ngươi thật, chẳng lẽ người lại xử sự với sư ca như thế à?
Thấy nàng càng nói càng dữ tợn, mọi người đều biết lời nói của nàng khiếm lý, Thừa Chí chỉ cúi đầu chịu đựng. Tiêu Công Lễ và những người bên ông ta đều tỏ ra bất bình. Mẫn Tử Hoa, Đồng Huyền, và Vạn Phương các người đều khoái chí thầm.
Tôn Trọng Quân nói:
- Thưa sư phụ, sư mẫu, y bảo y có một người tên là cái gì... Kim Xà Lang Quân đỡ đầu cho y nên y mới đánh cả Mai sư ca và Lưu sư ca.
Vợ chồng Quy Tân Thụ, vì đứa con một ốm nặng, đi khắp nơi để tìm danh y điều trị, vợ chồng họ Quy nghe mấy tay y sĩ giỏi đều nói, đứa nhỏ đó bị nội lực trong từ khi ở trong bụng mẹ. Vì khi Quy nhị nương mang thai đứa bé đó, thường đánh nhau với người, bị động nên bây giờ phải bế chúng đi tìm phương cứu chữa khắp nơi. Hôm nay tình cờ tới đây, vợ chồng Quy Tân Thụ bỗng gặp Tôn Trọng Quân là vị nữ môn đồ yêu quý.
Nghe Tôn Trọng Quân nói, Quy nhị nương nhìn Thừa Chí gay gắt:
- Ngươi có nghe nữ đồ đệ ta nói chưa? Sao ngươi dám bẻ gãy thanh kiếm của ta lại còn cả gan đánh nữ đồ đệ ta như thế?
Thừa Chí cúi đầu:
- Đây là chuyện bất ngờ, tiểu đệ không được rõ, xin đại tỷ hãy thứ tha cho, sự thật tiểu đệ đâu muốn thế.
Quy nhị nương thét:
- Ngươi bảo ngươi không muốn mà lại hành động như thế à. Nếu ta không dạy cho ngươi một bài học thì làm sao ngươi biết ăn năn hối cải.
Quy nhị nương trao hai đứa bé cho Tôn Trọng Quân:
- Nữ đồ đệ hãy bồng hai đứa bé để ta trừng trị tên tiểu tử này.
Tôn Trọng Quân đón lấy hai đứa bé lui ra ngoài đứng nhìn trận đấu giữa Quy nhị nương và Thừa Chí sắp diễn ra.
Cầm thanh kiếm gãy nửa khúc trong tay, Quy nhị nương đưa tới một nhát ngay yết hầu Thừa Chí. Mới ra chiêu đầu ả đã hạ độc thủ rồi đủ rõ lòng dạ ả ác độc đến dường nào.
Thừa Chí bước sang nghiêng mình tránh khỏi kiếm hiểm ác của Quy nhị nương.
Nhưng lưỡi kiếm của ả như hình với bóng phạt ngang qua lưng Thừa Chí nhanh tợ chớp. Quy nhị nương quyết tâm hạ cho bằng được Thừa Chí để rửa nhục cho nữ môn đồ mình.
Thừa Chí thừa biết rõ thâm tâm của Quy nhị nương như chỉ tránh né mà không có phản công. Chỉ vì dù thế nào Quy nhị nương cũng là sư tỷ của chàng, theo quy luật môn phái, chàng không được gây tổn thương.
Mười mấy nhát kiếm dùng toàn tuyệt chiêu, Quy nhị nương vẫn không sao hạ nổi Thừa Chí.
Quy nhị nương thét:
- Ngươi chạy đi đâu?
Tả chưởng của ả vỗ ra một hư chiêu, trong khi lưỡi kiếm chớp tới trước ngực Thừa Chí nhanh tợ sét.
Theo ý định của Quy nhị nương, ra chiêu này sẽ không cho Thừa Chí tránh né đi đâu được nữa nhưng ả đã lầm. Một tiếng "keng" nổi lên âm thanh thật thanh thai.
Thanh kiếm vuột khỏi bàn tay của Quy nhị nương bay bổng lên xây theo vòng tròng trông thật ngoạn mục.
Đồng thời ả bị tháo lui ba bước vì sức đẩy quá mạnh của kình lực do Thừa Chí đưa ra. Ả sửng sốt cả người đứng trố mắt nhìn Thừa Chí một lúc như không ngờ công phu của đối phương cao thâm đến thế.
Với hai bàn tay không chống trả lại thế kiếm của ả một cách hết sức ung dung, tự tại. Bỗng Quy nhị nương thét lên một tiếng, lấy trong mình ra một thứ võ khí quái lạ.
Đó là khí giới "Táng Môn đinh" rất nên lợi hại vì trên đầu nó có sáu mũi hắc đinh khi ra cùng lượt bay tới tấn công kẻ địch qua sáu phía.
Quy nhị nương huy động cây Táng Môn đinh một cái, nhiều làn sáng chớp tới Thừa Chí. Thừa Chí bốc mình lên cao tránh khỏi, thân mình vừa hạ trở xuống liền gặp ngay loạt ánh sáng thứ hai.
Thủ đoạn của Quy nhị nương quả thật hiểm độc. Bên ngoài Thanh Thanh hét:
- Tránh mau!
Nhưng từ trên cao rơi xuống, Thừa Chí chẳng có cách nào tránh né đi đâu được cả, liền nhanh tay lấy mấy quân cờ.
Ráng... ráng...
Loạt hắc đinh bị quân cờ đánh trúng rớt xuống mặt đất. Quy nhị nương trố mắt nhìn mấy quân cờ bỗng phóng tới.
Cả Thanh Thanh lẫn Uyển Nhi đồng thét:
- Trở lại!
Hai cô gái cùng lúc tấn công Quy nhị nương từ hai phía bắt buộc ả này phải tháo lui trở lại, ả lại thét:
- Các ngươi hãy coi đây!
Nói đoạn, ả dùng mũi "Táng Môn đinh" ra tới bốn phần, mới biết cây đinh đó không có ngạnh, nên sử dụng mũi tên đi ra, Tiêu Uyển Nhi lấy luôn chiếc trâm tóc cho Thừa Chí để buộc cho Thanh Thanh lui trở lại.
- Chú Thanh hãy lui lại, đừng cãi vã với họ.
Thanh Thanh hỏi:
- Tại sao tôi phải lui lại.
Thừa Chí đáp:
- Em hãy nể mặt Sư huynh một lần đi.
Thanh Thanh có ý không hài lòng nhưng không cãi lớn, Thừa Chí đứng yên.
Thừa Chí mừng thầm nhìn Thanh Thanh mỉm cười.
Chờ Thừa Chí buộc vết thương xong, Quy nhị nương cười nhạt nói:
- Kim Xà Lang Quân chỉ được cái hư danh thôi. Nếu là ngươi có bản lãnh thật, tại sao con y lại tránh không nổi mũi đinh ta vừa ném thử?
Thừa Chí nghĩ thầm: "Nhị sư tẩu lúc này hiểu nhầm quá nỗi, mình có giải thích lại càng làm tăng sự tức giận của bà ta."
Nghĩ vậy, chàng đành phải làm thinh.
Quy nhị nương lại nói:
- Ở đây có nhiều người, nói chuyện của bản môn chúng ta không tiện nói nhiều. Canh ba đêm mai vợ chồng chúng ta chờ ở cạnh Vũ Hoa đài trên đỉnh Kim Sơn, xin mời Viên đại gia tới đó. Chúng nói muốn thử xem Viên đại gia có phải là sư đệ của nhà tôi không?
Thấy nàng nói như vậy, mọi người biết nàng đã khiêu chiến với Thừa Chí một cách trắng trợn. Tiêu Công Lễ lo ngại Thừa Chí vội nói:
- Có "Hà Thử Ô" và "Phục Linh ngàn năm" để chế thuốc viên mới chữa khỏi được. Bằng không chỉ trong thời gian một, hai năm, thằng bé sẽ gây dần đi mà chết. Vợ chồng họ Quy quý đứa con hơn cả tánh mạng mình, đã nhờ bạn bè tìm kiếm hai vị thuốc đó hộ, nhưng hai vị thuốc cỏ ấy không phải một chốc mà tìm thấy. Thuốc chưa tìm ra mà đứa bé cứ yếu dần, hai vợ chồng mới tính toán đến đất Nam Kinh này, tìm kiếm thử xem, vì nơi đây là Kinh Đô, tất nhiên phải có các vật lạ của báu, do đó hai vợ chồng Quy Tân Thụ mới lần mò đến đất Nam Kinh này. Khi tới nơi, mới hay ba đồ đệ đắc lực cũng có mặt ở đây, hai vợ chồng mới tới nhà Tiêu Công Lễ.
Ngờ đâu lại thấy Tôn Trọng Quân bị điểm huyệt, Quy nhị nương tánh rất nóng nảy, thô lỗ, chỉ nghe lời đồ đệ, lại thêm nóng ruột bởi đứa bé bị nặng, cho nên mới khiển trách bừa Thừa Chí như vậy. Nay lại nghe Thừa Chí có người ngoài đỡ đầu cho, Quy nhị nương càng thêm tức giận thêm, quay đầu hỏi chồng:
- Tên quái vật Kim Xà vẫn còn sống đấy à?
Quy Tân Thụ đáp:
- Nghe nói y đã qua đời rồi, nhưng điều này chưa ai biết rõ cả.
Thấy nàng vô cớ khiển trách Thừa Chí, Thanh Thanh đã giận rồi, nay lại nghe nàng gọi cha mình là quái vật, càng tức giận thêm, liền chửi lại:
- Mụ đa ngôn kia, sao vô cớ mụ lại ăn nói hàm hồ như vậy?
Quy nhị nương nổi giận hỏi:
- Ngươi là ai?
Tôn Trọng Quân đỡ lời:
- Y là con trai của Kim Xà quái vật đấy.
Quy nhị nương phẩy tay một cái, một luồng ánh sáng lạnh bắn thẳng vào vai Thanh Thanh. Thừa Chí hoảng sợ chạy lại cầm cánh tay nàng xem thấy là mũi "Táng Môn đinh." Lúc ấy Thanh Thanh vừa lo vừa giận đau đến biến sắc mặt.
Thừa Chí nói:
- Nhị vị oai trấn Giang Nam nhứt là chúng tôi vẫn thấy đại danh Thần Quyền Vô Địch, ngưỡng mộ vô cùng, nay thật may mắn cho chúng tôi được hai vị bỗng dưng giáng lâm còn gì hân hạnh bằng.
Quy nhị nương chỉ "hừ" một tiếng, không thèm trả lời. Quy Tân Thụ đang lo ngại cho con ốm nặng, hình như tâm bất định.
Tiêu Công Lễ lại nói:
- Viên đại gia đã trượng nghĩa giàn xếp cho đệ tai bay thoát. Mai đại ca, Lưu đại ca, và Tôn đại tỷ, ba vị cũng đều nói đến rồi. Tối mai đệ đã được phép tiếp quý vị anh hùng hào kiệt. Hai vị cũng cho phép đệ được đón tiếp một thể. Đồng thời cũng để cho anh em chúng tôi mừng ba vị sư huynh đệ tương...
Ông ta chưa nói dứt lời, Quy nhị nương đã quay lại nói Thừa Chí rằng:
- Thế nào? Cậu có dám đến không?
Thừa Chí đáp:
- Chẳng hay sư huynh, sư tẩu ở đâu? Để sớm mai tiểu đệ được đến lãnh giáo. Còn sư huynh, sư tẩu muốn khiển trách cách nào, tiểu đệ cũng không đám trốn tránh.
Quy nhị nương "hừ" một tiếng, mới nói:
- Ai biết cậu thật hay giả, đừng gọi là sư huynh, sư tẩu như thế vội. Chờ tối mai thử xem qua võ cậu hãy hay. Trọng Quân, chúng ta đi thôi!
Vừa nói nàng vừa kéo tay Trọng Quân đi thẳng ra ngoài cả.
Trường Bạch tam anh Bính Quang, Sử Bính Văn, Lý Cương, ba người thấy Thừa Chí ra tay can thiệp, biết âm mưu của mình không thành lại thấy tình hình vừa rồi, biết người ăn trộm thư từ đêm hôm qua tất là Thừa Chí không sai. Chỉ sợ Thừa Chí lát nữa đem chuyện thông địch của mình tố cáo cho mọi người hay, cả ba cứ kiếm cơ hội lẻn trốn. May mắn thay, vợ chồng Quy Tân Thụ tới gây gổ với Thừa Chí, Trường Bạch tam anh mừng thầm, chỉ mong câu chuyện tranh chấp đó càng ngày càng lớn để bọn y ở giữa được lợi. Sau thấy Quy nhị nương hẹn Thừa Chí tối mai tỷ võ, sự mong muốn không thay, cả ba người đưa mắt ra hiệu, lẻn ra trước vợ chồng Quy Tân Thụ. Thấy vậy, Thừa Chí lớn gọi:
- Này, hãy khoan đã!
Vừa nói chàng vừa nhảy ra cản lại, Quy nhị nương cả giận quát lớn:
- Thằng nhãi này vô lễ thật, muốn cản trở ta phải không?
Nói xong, nàng dùng chưởng bổ thẳng vào đầu Thừa Chí. Thừa Chí tránh sang một bên, bàn tay của Quy nhị nương mới sướt qua vai mà chàng đã thấy nóng ran.
Quy nhị nương ở nhà thường hay so tài với chồng, luyện tập rất siêng năng, nên chưởng pháp nhanh nhẹn và mạnh vô cùng.
Thấy chưởng đó không đánh trúng Thừa Chí, trong lòng cũng ngạc nhiên, vì mười năm nay chưa đánh ai mà hụt như thế bao giờ, Quy nhị nương nổi giận đổi thế bổ xuống thành thế xỉa ngang, tiếp tục tấn công Thừa Chí. Nhún một cái, Thừa Chí nhảy vọt lên cao, rồi vượt qua bàn ăn. Như vậy Quy nhị nương mới không tiện đuổi đánh nữa, liền cùng chồng và ba đồ đệ đi thẳng ra cửa. Thấy có cơ hội tốt như vậy, Trường Bạch tam anh vội theo sau mấy người đi ra.
Thừa Chí lại quát lớn:
- Ở lại cả.
Chàng như con chim đại bàng nhảy theo nắm được cổ Lý Cương, thuận tay điểm huyệt và vứt xuống đất nhưng vẫn để anh em họ Sử chạy thoát. Đuổi theo ra tới ngoài cửa, trời đã tối đen như mực vô cùng, nhưng sực nghĩ lại đã bắt được một tên cũng có thể hỏi được khẩu cung, liền quay vào trong sảnh. Chàng bỗng nghe phía sau có một giọng già cả vừa cười vừa nói:
- Cậu bạn nhỏ của tôi, đã lâu năm không gặp nhau, võ nghệ của cậu đã tấn tới nhiều lắm.
Nghe giọng nói quen quen, vội quay đầu lại xem trông thấy hai người đang rảo bước tiến tới. Một người tay xách Sử Bình Văn. Một người tay xách Sử Bình Quang.
Thừa Chí mừng quá, chạy lại nghênh đón hai người đó. Người đi trước râu tóc bạc phơ, lưng đeo một cái bàn vuông đen thui thũi. Ông ta là Mộc Tang đạo nhân, người đã dạy chàng ám khí. Tuy không có danh nghĩa thầy trò nhưng ơn dạy bảo chỉ hơi kém sư phụ chàng chút ít thôi. Chàng mừng quám, vội quỳ xuống vái lạy. Mộc Tang đạo nhân cười nói:
- Tôi chịu không nổi cái lễ này đầu! Cậu mau đứng dậy đi! Cậu thử xem người nào kìa.
Thừa Chí đứng dậy trông thấy người đại hán tuổi trạc trung niên kia, hai mái tóc đã hoa râm, nhìn kỹ mới nhận ra là người hồi nhỏ đã xả thân cứu mình, Thu Sơn, vì vất vả quá, hình dạng đã thay đổi rất nhiều. Vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, Thừa Chí nhảy xổ lại ôm chặt lấy cổ Thôi Thu Sơn miệng kêu la lia lịa:
- Ôi! Thôi thúc thúc, cháu không ngờ lại là chú!
Chàng vừa nói vừa khóc. Thấy Thừa Chí tình cố nhân coi nặng như vậy, Thôi Thu Sơn cũng không nhịn được hai hàng lệ chảy ròng xuống má. Hai người đang trò chuyện bỗng nghe thấy Mẫn Tử Hoa kêu la:
- Kìa, hai vị Sử đại ca và Lý đại ca là những bọn tôi đã thành tâm mời tới. Tại sao các người lại bắt bớ mấy anh ấy làm gì?
Không trả lời ngay, Thừa Chí dẫn Mộc Tang đạo nhân đến trước mặt mọi người và nói:
- Vị này là Mộc Tang đạo nhân, là ân sư của tiểu đệ.
Chàng lại chỉ Thôi Thu Sơn nói:
- Còn Thôi đại thúc đây giỏi về thế "Phục Hổ chưởng pháp", tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm là thầy dạy võ lòng môn võ cho tiểu đệ.
Các võ lâm tiền bối đều hâm mộ Mộc Tang đạo nhân đã lâu, chỉ vì hành tung của ông ta thần xuất quỷ mạt, trên giang hồ thường kêu ông ta là "Quỷ Ảnh Tử" (người bóng ma).
Những người có mặt tại đây có đến chín mươi phần trăm không có cơ hội biết ông ta. Chỉ có Thập Lực đại sư, phái Côn Lôn Trương Tâm Nhứt là thỉnh thoảng được gặp mặt ông ta nhưng hai người vẫn còn là hậu bối của ông ta. Lúc ấy cả hai vội chạy lại chào, Mộc Tang đạo nhân chắp tay vái các người và nói:
- Xưa nay, bần đạo chỉ biết ăn cơm chay và thích đánh cờ chớ không hay lý sự đến mọi việc lôi thôi của người đời. Nhưng tháng trước bỗng được tin người ta cho hay, nói là có người tư thông ngoại quốc, bọn ấy định tới Nam Kinh này giở trò bán nước cầu vinh. Việc này bần đạo không thể làm ngơ được cho nên mới theo dõi bọn đó tới đây.
Mẫn Tử Hoa hỏi:
- Ai là gian tặc bán nước? Chẳng lẽ là Trường Bạch tam anh hay sao?
Mộc Tang đạo nhân đáp:
- Phải, chính là ba vị anh hùng hào kiệt lừng danh khắp thiên hạ này đây.
Mẫn Tử Hoa nói:
- Ba người này là bạn tốt cả, khi nào chịu làm những trò vô sĩ ấy. Cụ đừng đổ oan cho người tốt.
Mộc Tang đạo nhân nói:
- Bần đạo là người từ bi hỉ xả, xưa nay chưa gặp ba tên này bao giờ, và cũng vô oán vô thù, đổ oan cho chúng làm gì? Bần đạo ở bên ngoài quan ải, chính mắt đã trông thấy bọn chúng lén lút đi lại với giặc Mãn Châu cho nên mới theo dõi đến đây.
Mẫn Tử Hoa hỏi:
- Cụ có gì làm bằng cớ không?
Mộc Tang ha hả cười nói:
- Chứng cớ ư? Phải lấy cái gì làm chứng cớ chớ? Chẳng lời của bần đạo không đáng tin hay sao?
Mẫn Tử Hoa nói:
- Điều này ai dám tin cơ chớ?
Mộc Tang nổi giận nói:
- Đến sư phụ ngươi là Hoàng Mộc đạo nhân, lời nói của ta y cũng không dám nói nửa câu không. Còn ngươi là thằng nhãi nào mà dám táo gan không tin lời bần đạo.
Mọi người vẫn tôn ông ta là võ lâm tiền bối nhưng nhận thấy ông ta võ đoán như vậy có vẻ cậy thế bắt nạt người, ai nấy trong lòng đều không phục. Mộc Tang đạo nhân tức giận quá cứ vuốt râu lia lịa. Thừa Chí vội lấy hai lá thơ trong túi ra, giao cho Mẫn Tử Hoa xem và nói:
- Mời công tử đọc cho tất cả anh em nghe.
Đỡ lấy hai lá thơ, mới xem được vài câu, Mẫn Tử Hoa đã giựt mình lớn tiếng đọc:
- Đây là thơ của Cửu Vương nước Mãn Châu Đa Nhĩ Cổn viết cho Trường Bạch tam anh. Trong thơ dặn bọn chúng kiếm cơ hội cướp lấy các phạm vi thế lực của bang hội vùng Giang Nam này và khiêu khích ly gián các anh hùng hào kiệt để cho tàn sát lẫn nhau. Đồng thời gầy dựng thế lực của mình, làm nội ứng cho Mãn Châu khi đem binh vào đánh trong quan ải. Trong thơ có cả ấn tín Cửu Vương và mấy chữ Mãn Châu ngoằn ngoèo.
Chưa đợi Mẫn Tử Hoa đọc xong, các anh hùng hào kiệt đã cả giận. Trịnh Khởi Văn xách Lý Cương dậy giải huyệt xong rồi quát hỏi:
- Chúng mầy còn có gian kế gì? Mau mau xưng ra ngay.
Lý Cương trợn mắt không nói. Trịnh Khởi Văn tát cho hai cái bạt tai. Hai má tên họ Lý này sưng vếu tức thì. Thừa Chí liền kể hết đầu đuôi câu chuyện cho mọi người nghe. Biết không thể nào chối cãi được nữa, Lý Cương lớn tiếng nói:
- Quân Mãn Châu sắp đánh vào trong quan ải. Nơi đây đều là thiên hạ của Mãn Châu. Các người bằng lòng quy thuận sẽ là những khai quốc công thần. Nếu...
Y chưa nói dứt lời đã bị Trịnh Khởi Văn đấm một quyền vào giữa ngực, chết giấc tức thì. Anh em họ Sử khôn ngoan và nham hiểm hơn Lý Cương nhiều, thấy người bạn của y nói những lời đó biết là nguy hiểm đến nơi nhưng chúng bị điểm huyệt không sao nói được. Trịnh Khởi Văn lên tiếng hỏi:
- Thưa đạo trưởng, những tên gian tặc này đem giết chúng đi, còn để làm gì?
Mộc Tang cười nói:
- Đừng giết vội, bần đạo còn cần dùng chúng. Hôm nay đã muộn, để bữa khác tái thỉnh quý vị cùng thương lượng. Vì bần đạo chắc chúng thể nào cũng còn đồng đảng nữa.
Mọi người đều nghe lời, lần lượt cáo từ ra về. Mẫn Tử Hoa biết mình bị kẻ gian lợi dụng, ăn năn vô cùng, cực lực cáo lỗi với Mộc Tang đạo nhân và cám ơn Thừa Chí.
Y nói:
- Nếu không nhờ được Viên tướng công ra tay phân giải, tội của đệ không sao tránh khỏi.
Chờ mọi người đi rồi, Mộc Tang cởi bàn cờ xuống, móc túi lấy quân cờ ra bảo với Thừa Chí rằng:
- Bấy lâu nay tôi mong nhớ cậu lắm và không gì nhớ bằng đánh cờ với cậu. Nào, chúng ta lại đây đánh vài ván để bần đạo đỡ ghiền.
Thấy ông ta mê cờ như vậy, Thừa Chí đành phải chìu lòng, ngồi xuống tiếp. Mộc Tang nói với những người còn ở lại rằng:
- Các người cũng nên đi nghỉ đi.
Tiêu Công Lễ đưa Thôi Thu Sơn vào nhà trong. Thanh Thanh cứ nhứt định đứng xem không chịu đi ngủ. Tiêu Uyển Nhi cũng thức để sai bảo người nhà bưng rượu, bưng nước lên.
Hồi 12

Thanh Thanh không biết đánh cờ vây, đứng cạnh xem giây lát nản chí ngay, lại thêm trên vai bị thương, tinh thần mỏi mệt, liền gục xuống bàn ngủ thiếp đi.
Mộc Tang đạo nhân bảo Uyển Nhi rằng:
- Tiêu đại nương đỡ y vào phòng cô ngủ đi.
Mặt đỏ bừng, Uyển Nhi giả vờ không nghe, nghĩ thầm: "Vị trưởng này điên rồi chắc?"
Mộc Tang ha hả cười và nói:
- Y là con gái đấy, cô sợ cái gì?
Uyển Nhi hỏi Thừa Chí rằng:
- Viên tướng công, có thật thế không?
Thừa Chí vừa cười vừa trả lời:
- Nàng mặc giả trai để đi lại bên ngoài cho tiện.
Uyển Nhi mỉm cười, đỡ Thanh Thanh vào trong nhà. Thanh Thanh gượng nói:
- Tôi không mệt, tôi còn muốn xem.
Lúc ấy, tuy nói vậy, nhưng nàn đã buồn ngủ, mắt đã híp lại rồi. Uyển Nhi tuy ít tuổi nhưng giàu kinh nghiệm, liền một mặt an ủi nàng:
- Chị muốn xem cũng được, hãy vào nghỉ một chốc, lát lại ra xem.
Uyển Nhi đỡ Thanh Thanh về phòng mình cởi khăn đầu ra, quả nhiên thấy nàng là con gái thật. Trên đầu còn cắm hai chiếc ngọc trâm.
Một mặt đánh cờ, một mặt nghĩ tới cuộc hẹn ước đêm mai của vợ chồng nhị sư huynh, Thừa Chí tâm thần bất định, đi nhầm liền hai nước, trấn định lại tinh thần sực nghĩ đến câu chuyện vừa rồi, liền cất tiếng hỏi:
- Tại sao đạo trưởng biết nàng là gái?
Mộc Tang ha hả cười nói:
- Tôi với Thôi thúc thúc năm hôm trước đã gặp cậu rồi, muốn dò xét xem võ nghệ và nhân phẩm của cậu ra sao, cho nên cứ lén lút như vậy. Này, cẩn thận tôi ăn quân đây này... Võ công của cậu đã giỏi lắm rồi. Tuy cậu chưa chắc đã thắng nổi sư phụ, nhưng đối với tôi, tôi tất phải thua.
Thừa Chí vội đứng dậy khiêm tốn và cảm tạ rằng:
- Nhờ ơn của đạo trưởng mới đưọc như vậy. Mấy ngày gần đây nếu đạo trưởng rỗi rãi, xin chỉ giáo thêm cho cháu ít tí võ nữa.
Mộc Tang cười nói:
- Cậu đánh cờ với tôi, có bao giờ mất công đánh không đâu. Nhưng bây giờ, võ nghệ của tôi cậu đã học hết rồi. Và còn giỏi hơn tôi là khác. Có lẽ tôi phải nhờ cậu dạy vài miếng thì đúng hơn. Ha, ha, tôi bị xâm nhập góc này rồi... Học giỏi võ tất nhiên là khó rồi, mà nhân phẩm của cậu mới thật là hiếm có. Một người thiếu niên tuổi trẻ ngày đêm gần một thiếu nữ xinh đẹp, lúc nào cậu cũng giữ tư cách đứng đắn và lễ phép nên tôi với Thôi thúc thúc không những thâm tâm khen ngợi cậu, mà còn chịu phục cậu là khác.
Thừa Chí mặt đỏ bừng, trong lòng nghĩ thầm: "Nếu mình có gì xấu xa có phải là nguy không. Ông ta theo dõi mấy ngày liền mà mình không hay biết tí gì. Như vậy, đủ thấy khinh công của ông ta cao siêu như thế nào?"
Lúc ấy, bỗng nghe bên ngoài có tiếng động nho nhỏ, biết có người tới rình mò, thấy Mộc Tang làm thinh, Thừa Chí cũng để mặc, tiếp tục đánh cờ. Mộc Tang nói:
- Lúc nãy cử động của Nhị sư tẩu cậu, ta đều trông thấy hết. Cậu cứ yên chí, ngày mai ta sẽ giúp cậu đối phó với vợ chồng họ.
Thừa Chí nói:
- Đệ tử không muốn đấu với anh chị ấy. Xin đạo trưởng giảng hòa hộ cho thì hơn.
Mộc Tang lại nói:
- Sợ gì? Cậu cứ việc ra tay đánh đi. Sau này sư phụ cậu có khiển trách, thì cậu cứ nói là tôi bảo cậu đánh đấy!
Nói tới đây, trên mái nhà lại có bốn người nhảy xuống. Cộng với ba bóng người lúc trước là bảy người.
Một luồn gió mạnh đưa tới, bốn chiếc phi tiêu nhắm Mộc Tang và Thừa Chí phi tới. Mộc Tang quơ tay lên chộp hết bốn ám khí đó để lên mặt bàn, mắt vẫn nhìn vào bàn cờ coi như không có việc gì xảy ra cả. Những người ở bên ngoài nổi giận, cả bảy người do cửa giữa xồng xộc tiến vào, ai nấy trong tay đều có khí giới. Mộc Tang cười nói:
- Cậu có thể một lúc ăn hết bảy quân của tôi không?
Thừa Chí hiểu ý trả lời rằng:
- Đệ tử thử xem đã.
Lúc ấy hai người đi đầu cúi mình xuống đỡ đồng bọn đang nằm dưới đất. Còn năm người kia thì hùng hổ xông lại chém Mộc Tang và Thừa Chí. Nắm một số quân cờ ném ra, Thừa Chí tung mạnh ra chỉ nghe mấy tiếng, kẻ địch đều bị quân cờ ném trúng yếu huyệt, bọn này buông đao kiếm rơi xuống mặt gạch kêu "loảng xoảng." Thanh Thanh ngủ xong, nghe tiếng động liền nhanh lẹ chạy ra thấy Thừa Chí và Mộc Tang đánh cờ, có quân cờ nằm trên mặt đất lại có bảy tên đại hán. Sợ ảnh hưởng đến nước cờ của Mộc Tang và Thừa Chí, Thanh Thanh chẳng dám lên tiếng hỏi, chỉ vỗ tay ba cái, mọi người trong nhà chạy ra. Uyển Nhi sai tất cả vây chặt bảy tên đại hán vào chính giữa tấn công ào ạt...
Nửa tiếng sau, Thừa Chí thua ba quân. Mộc Tang cười nói:
- Võ công của cậu đã tiến khá xa, còn chuyện đánh cờ thì không thấy cao tí nào cả.
Thừa Chí đáp:
- Nước cờ của đạo trưởng kỳ diệu quá, đệ tử không sao đỡ nổi.
Mộc Tang quay đầu lại nói với Uyển Nhi rằng:
- Cô cho người khám xét trong người chúng xem.
Uyển Nhi ra lịnh, bọn gia đinh liền cúi xuống khám xét mười tên gian đồ. Thấy trong người chúng, ngoài chút ít tiền bạc, vài thứ ám khí ra, còn có mấy phong thơ và mấy cuốn sổ tay ghi chú những ám hiệu (tiếng lóng để nói riêng cho nhau hiểu). Có một phong thơ của Đa Nhĩ Cổn viết cho Thái giám Tào Háo Thuần. Trong thơ nói rõ vì Sơn Hải quan khám xét nghiêm nhặt quá, Đa Nhĩ Cổn phả sai sứ giả đi vòng qua đường bể tới và dặn Thái giám họ Tào cứ việc định các điều cơ mật với sứ Hồng Thắng Hải, vân vân...
Mộc Tang cả giận la lớn:
- Những quân gian tặc này càng ngày càng to gan lớn mật. Trước mắt trong tay tay mà chúng còn đòi muốn cứu đi!
Liền đó ông ta giơ chân phải đá một cái, một tên gian nhào lộn, Mộc Tang định đá nữa, thấy vậy Thừa Chí vội ngăn lại:
- Thưa đạo trưởng, xin để chúng lại. Đệ tử xử lý đủ rồi.
Trong khi giận Mộc Tang còn muốn xé mấy lá thư, nhưng Thừa Chí đã cản lại, liền nói:
- Vậy ta cũng nghe theo nhưng ngày mai, ngươi đến đây gặp bần đạo.
Dù vậy vẫn còn hứng thú, hai người đánh liền mười ván đến mới chịu thôi.
Còn thức một mình, Thừa Chí suy tính giây trong lòng ray rức, thù cha ta chưa báo được. Những thư từ và tín vật này có lẽ là trời ban cho ta dịp may để ta được lén vào trong cung trả thù cho cha ta. Nghĩ đoạn, chàng giải huyệt cho một người tỉnh dậy, hỏi y xem ai là Hồng Thắng Hải. Thì thấy người đó mặt mũi tuấn tú, ngoài ba mươi tuổi. Thừa Chí tới gần giải huyệt cho y tỉnh dậy, xét hỏi mọi điều, Hồng Thắng Hải bướng bỉnh nhứt định không chịu nói. Thừa Chí nghĩ thầm: "Y ở trước mặt đồng đảng, mới không chịu xưng như vậy."
Thừa Chí sai gia đinh dẫn y vào trong thơ phòng liền hỏi:
- Anh là sứ giả của Cửu Vương, chắc phải là một tay hảo hán. Bây giờ tôi hỏi anh điều gì, anh trả lời điều đó. Nếu anh không nói thật, tôi sẽ làm anh phải đau đớn và chết dần.
Hồng Thắng Hải nổi giận nói:
- Tên yêu đạo kia, ngươi muốn sử dụng tà pháp. Dù có chết ta cũng không phục.
Thừa Chí nói:
- Thế ra anh cho anh võ nghệ tinh cường lắm phải không. Tôi nói để anh rõ: Anh là người Hán mà chịu làm tôi tớ Phiên bang thật là nhục nhã và đáng chết lắm, anh còn kêu oan gì nữa. Nếu anh không phục, tôi vui lòng để cho anh đấu võ lại, nhược bằng anh thua, tôi hỏi gì anh phải thành thật mà trả lời.
Thừa Chí biết tên đó võ nghệ cũng khá, muốn thâu phục để sau này phục vụ cho mình. Hồng Thắng Hải cả mừng nghĩ thầm: "Vừa rồi không hiểu tại sao yếu huyệt của mình bị tê một cái là ngã lăn đùng. Tất là tên yêu đạo sử dụng pháp thuật. Bây giờ tên yêu đạo kia đã vắng mặt. Tên thiếu niên này địch ta sao nổi? Dại gì ta lại không nhận lời y nhỉ?"
Nghĩ đoạn, y liền trả lời:
- Được, nếu ta thua, ngươi muốn hỏi gì ta trả lời ngay.
Thừa Chí đi đến cạnh y, hay tay cầm dây thừng, chỉ khẽ dùng sức, dây thừng trói chân Hồng Thắng Hải đứt liền. Hồng Thắng Hải rất ngạc nhiên vì dây thừng trói chân tay y là dây gai rất chắc. Y đã dùng sức cựa thử mà không thấy suy xuyễn tí nào. Ngờ đâu Thừa Chí chỉ khẽ giựt một cái, cả sợi dây thừng đứt làm mấy đoạn ngay. Trong lòng khinh nhờn thấy vậy sợ hãi ngay, Hồng Thắng Hải liền nói:
- Ngươi muốn đấu như thế nào? Chúng ta ra ngoài kia đấu quyền hay đấu khí giới cũng được.
Thừa Chí cười nói:
- Ta dùng quân cờ ném trúng yếu huyệt của anh mà anh lại tưởng sử dụng yêu pháp. Thật là buồn cười! Coi thân pháp của anh nhảy vào sảnh này, tôi đã biết anh có học qua nội công.
Hồng Thắng Hải lại giựt mình kinh hãi, trong lòng nghĩ thầm: "Quái lạ, khi ta nhảy vào trong sảnh, thấy mắt hai người cứ nhìn vào bàn cờ, hình như không biết gì cả. Ngờ đâu hành động của mình đều lọt hết vào mắt của họ."
Nghĩ xong, y gật đầu.
Thừa Chí lại nói:
- Nếu vậy chúng ta cứ thử sức ở đây nhé.
Hồng Thắng Hải đáp:
- Vâng, chẳng hay các hạ quý tánh đại danh là gì?
Thừa Chí cười nói:
- Chờ lúc nào anh thắng, tôi sẽ cho hay sau.
Hồng Thắng Hải liền đứng thế chờ Thừa Chí đứng dậy. Thừa Chí cứ ngồi yên, mài mực cầm bút, trải tờ giấy trắng ra, rồi nói:
- Tôi ở đây viết, viết cái gì nhỉ? À, viết bài Đường thơ "Binh Xa Hành" của "Đỗ Công Bộ" vậy.
Thấy chàng bảo tỷ võ mà lại ngồi viết thơ, Hồng Thắng Hải ngạc nhiên vô cùng, cũng ngồi xuống xem.
Thừa Chí nói:
- Anh đừng ngồi!
Chàng giơ bàn tay trái ra nói tiếp:
- Nếu anh đẩy được tôi di chuyển mà những chữ tôi đang viết đây có nét nào cong queo là coi như anh đắc thắng, tôi tha anh ra khỏi đây ngay. Nếu tôi viết xong bài thơ mà anh không làm gì nổi tôi, thì tôi hỏi điều gì anh phải thành thật trả lời, chớ không được giấu diếm nửa câu.
Hồng Thắng Hải cả cười nghĩ thầm: "Thằng nhỏ này mới ra đời, không biết trời cao đất rộng là gì có khác. Nó tự thị võ nghệ cao cường, mà dám khinh ta đến thế. ừ! Phải đấy, có lẽ nó thấy ta mi thanh mục tú tưởng ta không có chút bản lãnh nào mới bảo ta thử tài như vậy."
Y liền nói:
- Đấu như thế này không được công bằng.
Thừa Chí cười nói:
- Không sao. Tôi đã bắt đầu viết đây, anh cứ ra tay đi!
Thừa Chí viết được ba chữ, Hồng Thắng Hải đã vận sức vào bàn tay, song chưởng dùng thế "Bài Sơn Đảo Hải" đẩy mạnh tay trái của Thừa Chí, Thừa Chí khẽ chếch bàn tay vào bàn để cho sức của đối phương lướt đi. Thấy thế đầu không làm gì nổi Thừa Chí, Hồng Thắng Hải liền dùng bàn tay phải đè xuống, bàn tay trái nâng lên, kẹp cánh tay đối phương vào giữa. Y tưởng chỉ dùng sức một cái là cánh tay của Thừa Chí phải gãy đôi. Thừa Chí vẫn viết thơ như thường, miệng nói:
- Thế này là "Thăng thiên Nhập địa" là một thế võ tuyệt tác của phái "Bột Hải" tỉnh Sơn Đông. Vậy anh là môn phái "Bột Hải" phải không.
Một mặt nói, chàng một mặt rút cánh tay lại, tựa như con cá chui ở trong hai bàn tay Hồng Thắng Hải ra. Chỉ nghe "bộp" một tiếng, Hồng Thắng Hải không kịp thu hai tay lại, đã tự tát vào mình một cái rồi. Y cả giận, giở hết tuyệt học của phái "Bột Hải" ra tấn công. Thừa Chí tay phải vẫn viết thơ không ngừng, tay trái ung dung đỡ hết các thế võ của đối phương. Chỉ thấy cánh tay trái chàng giơ ra co vào, mắt chàng chăm chú vào bài thơ đang viết, người vẫn ngồi yên như tượng đá như thế cho tới thế võ cuối cùng của Hồng Thắng Hải là "Trãm Giao quyền" sắp sử dụng xong. Chàng mới lên tiếng nói:
- Thế võ "Trãm Giao quyền" của anh còn chín miếng nữa mà bài thơ của tôi sắp viết xong. Thôi được, để tôi chờ anh. Bây giờ anh đánh một miếng là tôi viết một chữ vậy.
Hồng Thắng Hải giựt mình sợ hãi, nghĩ thầm: "Sao y lại thuộc quyền pháp của ta đến thế? Nhưng ta chưa hề thấy chưởng pháp của y bao giờ. Nếu bảo y là người đồng môn lại không đúng!"
Nghĩ xong, y xử nốt chín miếng quyền kia. Lúc này y không mong đánh đổ được Thừa Chí, chỉ hy vọng làm cho Thừa Chí nhích người và nét chữ cong queo là y có thể thoát thân được. Nhưng sử dụng đến miếng thứ bảy vẫn không làm gì nổi Thừa Chí. Hồng Thắng Hải vắt hai tay lên đầu, húc mạnh vào người Thừa Chí. Y tưởng võ công của đối phương có giỏi chịu nổi cái húc này, nhưng còn cái ghết tất nhiên phải chuyển động. Ngờ đâu, y càng cáu kỉnh, càng dùng quá sức, đã phạm điều tối kỵ trong võ phái vì làm như thế y muốn ngừng tay hay kềm hãm sức lại không được nữa.
Quả nhiên, y thấy khĩu tay bị đối phương nâng lên, rồi không biết một sức mạnh ở đâu tới, không đứng vững được nữa, cả người ngả ngửa về phía sau và bay bổng lên trên không, lộn liền ba vòng. Chỉ nghe "thìn" một tiếng, y đã ngã ngồi xuống đất, tối tăm cả mặt mũi. Mấy phút sau y mới định thần đứng dậy được.
Lúc ấy Tiêu Uyển Nhi bưng một ấm chè mới pha bước vào và nói rằng:
- Viên tướng công, chè Long Tĩnh mới pha, mời tướng công xơi cho đỡ khát.
Thừa Chí uống một ngụm trà, cất tiếng khen ngon, rồi đưa bài thơ vừa viết xong cho Uyển Nhi xem và hỏi:
- Tiêu cô nương làm ơn xem hộ bài thơ này có chữ nào viết hư và có nét nào cong hay không?
Uyển Nhi cầm bài thơ lên xem một lát rồi cười nói:
- Viên tướng công quả thật là văn võ toàn tài. Chẳng hay tướng công có vui lòng cho tôi bài thơ này hay không?
Thừa Chí trả lời:
- Chữ tôi xấu lắm. Bài thơ này là tôi đánh cuộc với anh bạn kia mà viết ra đó thôi. Xin cô nương đừng cho người khác trông thấy, khỏi người ta chê cười.
Uyển Nhi cám ơn, gấp bài thơ đó bỏ vào túi rồi đi vào nhà trong.
Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải rằng:
- Cửu Vương cử anh đến liên lạc với Tào Háo Thuần để thương lượng việc chi?
Hồng Thắng Hải ú ớ không dám nói. Thừa Chí lại nói:
- Vừa rồi chúng ta đã đánh cuộc, và anh có thắng tôi đâu?
Hồng Thắng Hải cúi đầu khẽ đáp:
- Võ nghệ của tướng công quả thật kinh người. Từ nhỏ tới giờ chưa hề thấy qua, và cũng chưa hề nghe qua.
Thừa Chí nói:
- Anh thử rờ vào xương sườn thứ hai ở phía dưới vú bên trái thử xem?
Hồng Thắng Hải nghe lời rờ vào chỗ đó, giựt mình sợ hãi và nói:
- Chỗ đó tê liệt không thấy đớn đau gì cả?
Thừa Chí lại nói:
- Anh lại rờ phía lưng bên phải xem?
Hồng Thắng Hải vừa đụng tay vào chỗ đó bỗng rú lên một tiếng rồi nói làm sao bên này lại đau thế?
Thừa Chí mỉm cười nói:
- Thế thì phải rồi.
Chàng rót một chén nước vừa uống, giở một cuốn sách trên bàn ra đọc, bỏ mặc Hồng Thắng Hải, không thèm ngó ngàng gì đến. Lúc này Hồng Thắng Hải khó nghĩ quá, muốn ở, không phải, muốn đi cũng không dám, thật là tiến thối lưỡng nan. Một lát sau, Thừa Chí mới ngửng đầu lên nói:
- Anh vẫn còn chưa đi ư?
Hồng Thắng Hải mừng quá liền hỏi:
- Tướng công tha tôi đấy à?
Thừa Chí nói:
- Anh tự đến không do tôi mời anh, vậy nay anh đi tôi cũng không giữ anh đâu.
Hồng Thắng Hải cả mừng, liền đứng dậy và nói:
- Tôi không dám quên ơn tướng công.
Thừa Chí gật đầu, lại cúi xuống tiếp tục đọc sách như thường. Y sở đi ra cửa giữa có người cản trở, nên đẩy cửa sổ phi thân ra ngoài, quay đầu lại nhìn, thấy Thừa Chívẫn đọc sách, không có vẻ theo đuổi, trong lòng mới yên tâm, nhảy lên mái nhà chạy thẳng.
Thấy Thừa Chí cứu cha mình thoát khỏi tai nạn, Uyển Nhi cảm động vô cùng. Lúc ấy, trời đã sắp sáng, nàng vẫn còn thức, thấy trong sảnh có ánh sáng đèn, biết Thừa Chí chưa đi ngủ, liền sai tỳ nữ làm mấy món điểm tâm rồi nàng bưng vào cho chàng ăn. Thấy Thừa Chí đang đọc cuốn Hán thư, nàng nói:
- Viên tướng công còn chưa đi nghỉ ư? Xin dùng chút điểm tâm này.
Thừa Chí đứng dậy cám ơn và nói:
- Cô nương đi nghỉ đi, đừng tiếp tôi nữa. Tôi còn phải ở lại đây chờ đợi một người...
Vừa nói tới đây, đã có một người nhảy qua cửa sổ vào, Uyển Nhi giựt mình nhìn kỹ mới hay người đó là Hồng Thắng Hải. Cúi đầu chào Uyển Nhi xong, Hồng Thắng Hải tiến đến trước mặt Thừa Chí quỳ xuống và nói:
- Viên anh hùng, tiểu nhân đã biết lỗi rồi. Xin anh hùng cứu vớt cho tiểu nhân khỏi chết!
Thừa Chí giơ tay ra đỡ, Hồng Thắng Hải cứ quỳ không chịu đứng dậy, rồi khẩn khoản nói:
- Từ nay trở đi, tiểu nhân nhứt định hối cải. Xin Viên anh hùng xá lỗi cho.
Uyển Nhi đứng cạnh trố mắt lên nhìn, ngạc nhiên không hiểu. Chỉ thấy Thừa Chí hay tay dùng sức hất lên một cái, Hồng Thắng Hải lộn ngược về phía sau một vòng.
"Đùng" một tiếng, y đã ngồi phệt xuống đất, rồi rờ tay vào sườn bên trái và phía sau lưng, vẻ mặt hớn hở. Y lại ấn mạnh vào giữa ngực, bỗng cau mày buồn rầu.
Thừa Chí nói:
- Anh có hiểu không?
Có là người thông minh lanh lẹ, Hồng Thắng Hải mới được Cửu Vương cho là sứ giả, thấy Thừa Chí nói như vậy, y sực nghĩ lại, hiểu ngay tức thì, liền nói:
- Viên anh hùng muốn hỏi điều gì, tiểu nhân xin nói thật ngay.
Biết hai người nói chuyện cơ mật đại sự, Uyển Nhi vội cáo lui. Thì ra, Hồng Thắng Hải rời khỏi nhà họ Tiêu, chạy thẳng về khách sạn, cởi áo ra xem, thấy trước ngực có một dấu vết đỏ, to bằng đồng tiền, rờ mó vào không thấy đau đớn gì cả. Còn chỗ dưới nách có ba điểm đen bằng hạt đậu thì đau đớn vô cùng. Lúc ấy, y mới hay, khi đấu sức bị đối phương đánh bị thương mà không hay. Y liền ngồi xếp bằng tròn, điều khí phản nguyên, vận dụng nội công. Ngờ đâu, y vừa nhịn hơi một cái, dưới nách đã đau như dao cắt, vội nằm thẳng xuống, mới thấy đỡ đau. Thử liền ba lần, đều đau như thế cả, y mới sực nhớ ra trong võ thuật có gọi là Hỗn Thiên Công.
Thứ võ này có thể mượn sức kẻ địch đánh lại khiến kẻ địch bị thương không hay biết gì. Nếu kẻ địch để yên không chữa, chỉ trong một trăm ngày là vết thương sưng lên chết liền. Y càng sợ, liền nghĩ thầm: "Ngoài Thừa Chí ra, không ai có thể cứu nổi."
Vì vậy, y lại phải quay trở lại.
Thừa Chí nói:
- Người anh đã bị thương hai chỗ. Chỗ thấy đau đớn, tôi đã chữa khỏi cho rồi. Còn một chỗ không đau, ba tháng sau, vết thương tê đó lan rộng đến trái tim, anh sẽ hết thọ!
Hồng Thắng Hải vái lạy đầu chạm đất "cồm cộp", Thừa Chí nghiêm nét mặt nói:
- Anh nối giáo cho giặc, nhận kẻ thù làm cha, tội đó không sao dung thứ được. Tôi muốn hỏi anh có muốn ********* tội lập công không?
Hồng Thắng Hải ứa nước mắt nói:
- Từ khi tiểu nhân làm việc này có lúc đêm khuya tự vấn lương tâm, cũng cảm thấy có lỗi với tiền nhân, nhục mạ tổ tiên. Chỉ vì một việc năm nọ, dồn tiểu nhân vào đường cùng mới chịu làm như vậy.
Thừa Chí thấy y có vẻ hối lỗi ăn năn thật, mới hỏi:
- Anh hãy đứng dậy, ngồi xuống ghế thong thả mà nói. Ai dồn anh vào con đường cùng?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Là Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân và Quy nhị nương của phái Hoa Sơn.
Thấy y nói như vậy, Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, vội hỏi:
- Cái gì? Là thầy trò chị ta ư?
Hồng Thắng Hải biến sắc mặt hỏi:
- Viên anh hùng quen biết thầy trò nó hay sao?
Thừa Chí đáp:
- Vừa rồi tôi còn đấu với họ nữa.
Nghe chàng nói như vậy, Hồng Thắng Hải vừa mừng vừa lo. Y lo vì hay tin người đó ở Nam Kinh, chỉ sợ gặp gỡ dọc đường là nguy hiểm đến tánh mạng ngay. Y mừng là Thừa Chí một người bản lãnh cao cường như vậy, lại là địch thủ của kẻ thù mình. Y liền nói:
- Hai mụ đó bản lãnh cao cường lắm nhưng tôi quyết chúng không phải là địch thủ của Viên anh hùng đâu. Thầy trò nói thủ đoạn độc ác lắm. Việc gì chúng cũng dám làm. Viên anh hùng nên cẩn thận thì hơn.
Hừ một tiếng, Thừa Chí lại hỏi:
- Tại sao thầy trò chúng lại áp bức anh như vậy?
Hồng Thắng Hải trầm ngâm giây phút trả lời:
- Tiểu nhân không dám nói dối. Tiểu nhân vốn dĩ làm giặc bể ở ngoài khơi tỉnh Sơn Đông. Có một người anh em kết nghĩa mê sắc đẹp của Tôn Trọng Quân. Nhờ người đánh tiếng, nó không nhận lời người ta thì thôi, chẳng nói chẳng rằng, đến cắt hai tai nghĩa huynh tôi. Tiểu nhân thấy vậy trong lòng phẫn uất, hẹn cùng mấy chục anh em bắc cóc nó về, định ép nó lấy nghĩa huynh tiểu nhân. Ngờ đâu, sư mẫu nó Quy nhị nương đuổi theo tới, giết chết nghĩa huynh tiểu nhân cùng tất cả các bạn khác. May tiểu nhân nhanh chân mới thoát khỏi tai ách.
Thừa Chí nói:
- Họa ấy tự anh gây nên đấy chớ.
Hồng Thắng Hải đáp:
- Tiểu nhân cũng biết việc đó làm lỗ mãng quá, mới gây nên họa lớn nên thoát thân khỏi chết, tiểu nhân cũng không dám lộ diện. Hai mụ đó không biết ai cho chúng hay tin quê quán của tiểu nhân, chúng đến nơi giết chết bà mẹ tiểu nhân đã ngoài bảy mươi và còn giết cả vợ lẫn hai đứa con của tiểu nhân. Nghĩa là chúng giết sạch toàn gia của tiểu nhân.
Thấy y vừa kể vừa khóc, Thừa Chí biết y nói thật, gật đầu vài cái, tỏ vẻ đã tin.
Hồng Thắng Hải nói tiếp:
- Nếu đánh thì tiểu nhân không đánh nổi thầy trò nó. Nhưng mối thù này không trả được thì chịu sao nổi... Vì vậy tiểu nhân hết cách mới lên Liêu Đông phò Cửu Vương...
Nói tới đây, y vừa phẫn uất, vừa đau lòng, Thừa Chí nói:
- Họ giết mẹ, vợ, và con anh tuy hơi quá đáng thật nhưng cũng tự anh mà nên trước. Vả lạ việc đó là tư thù, sao anh lại có thể đầu hàng Phiên bang cam chịu làm Hán gian như thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Bây giờ tiểu nhân chỉ cầu Viên anh hùng trả hộ mối thù đó cho, muốn sai tiểu nhân làm gì, tiểu nhân vui lòng tuân theo.
Thừa Chí nói:
- Báo thù ư? Đời này anh khỏi mong. Vì Quy nhị nương võ công rất giỏi. Tôi cũng không phải địch thủ của nàng. Anh mau mau hối cải, làm lại một người lương thiện. Còn việc Cửu Vương sai anh đi gặp Tào thái giám làm gì.
Lúc này, Hồng Thắng Hải không dám giấu diếm nữa, kể hết sự thể cho Thừa Chí nghe. Thì ra Đa Nhĩ Cổn hẹn Tào thái giám làm nội ứng và khi quân Thanh đánh tới cửa thành Bắc Kinh, Tào thái giám phải mở cửa thàn ra hiến thành. Nghe y kể xong, Thừa Chí mừng thầm liền hỏi:
- Anh muốn cải tà quy chánh không? Hay là đành chịu ba tháng sau chết vì vết thương nọ.
Hồng Thắng Hải đáp:
- Viên anh hùng điềm chỉ cho tiểu nhân một con đường đi, có khác gì phụ mẫu tái sanh của tiểu nhân.
Thừa Chí nói:
- Thôi được. Vậy anh hãy theo tôi làm tùy tòng cho tôi.
Hồng Thắng Hải cả mừng, quỳ sụp xuống đất lạy ba lạy. Thừa Chí nói:
- Từ giờ trở đi, anh đừng có gọi tôi là anh hùng hảo hán nữa.
Hồng Thắng Hải đáp:
- Vâng, tôi xin kêu ngài là tướng công.
Nói xong, y mừng thầm, bụng nghĩ: "Ta cứ theo hầu người. Bây giờ không còn sợ Quy nhị nương và Tôn Trọng Quân đến hãm hại nữa. Ba tháng sau, vết thương của ta có làm nguy tất nhiên ngươi cũng phải chữa cho ta."
Nghĩ đoạn, y cảm thấy trong người khoan khoái và tỉnh táo hơn lúc làm Hán gian nhiều.
Bận suốt một đêm trường, Thừa Chí đã thấy mệt liền vào nhà trong đi ngủ và còn cho Hồng Thắng Hải ngủ chung một phòng. Thấy Thừa Chí tín nhiệm mình như vậy, Hồng Thắng Hải lại càng cảm động thêm. Ngủ đến giữa trưa, Thừa Chí mới thức dậy, vừa rửa mặt xong, đã thấy Mộc Tang cầm bàn cờ, Thanh Thanh bưng quân cờ bước vào. Thanh Thanh cười nói:
- Đến lúc này anh mới dậy. Đạo trưởng chờ anh đã lâu lắm rồi. Nào mau đánh cờ đi.
Thừa Chí đưa mắt nhìn Thanh Thanh bỗng nhiên cười khì. Thừa Chí vừa cười vừa hỏi:
- Anh cười cái gì thế?
Thừa Chí vừa cười vừa đáp:
- Chắc đạo trưởng đã nhận lời cho chú cái gì phải không, chú mới chịu khó như vậy và tìm tôi đánh cờ thay chú phải không?
Thanh Thanh cười nói:
- Đạo trưởng chỉ dạy em có môn võ thôi nhung môn võ đó thần diệu lắm. Người khác đấm mình một quyền, đá mình một cước, mình có thể theo đuôi họ khiến họ không sao đá và đánh trúng.
Thừa Chí nhìn trộm Mộc Tang, thấy ông ta để hai quân cờ trắng vào hai góc, tay cầm một quân cờ trắng, gõ vào bàn cờ, mỉm cười.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Tối hôm nay vợ chồng Nhị sư huynh hẹn gặp mặt ở Vũ Hoa đài. Ta không đi không được, xem thái độ của nhị sư tẩu, không ra tay đánh không yên nhưng ta không thể đánh thật với họ được. Nhị sư huynh nổi tiếng là vô địch thần quyền dùng toàn lực ra đánh, ta chưa chắc đã thắng. Nếu ta nhường nhịn, có lẽ bị trọng thương, thậm chí lơ đễnh một chút, còn toi mạng là khác. Bây giờ đạo trưởng chịu truyền võ nghệ cho nàng, ta chắc thể nào cũng có ý gì đây."
Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
- Chú muốn nhờ tôi đánh cờ hộ cũng được nhưng chú phải dạy lại tôi môn võ đó.
Thanh Thanh cười nói:
- Anh này khéo thật, không có bao giờ chịu thiệt thòi chi.
Hai người nói đùa vài câu rồi Thừa Chí ngồi đánh cờ với Mộc Tang đạo nhân. ăn xong cơm trưa, Thừa Chí và Thôi Thu Sơn nói chuyện thời cuộc. Lúc này Thừa Chí mới nay Sấm Vương đã mộ được nhiều quân và cũng được cả lòng người sửa soạn một ngày gần đây đánh vào Bắc Kinh.
Thanh Thanh ra hiệu gọi ra ngoài, Thôi Thu Sơn trông thấy cười nói:
- Bạn của cậu gọi cậu đấy, mau đi ra đi.
Thừa Chí xấu hổ mặt đỏ bừng, không tiện đứng dậy đi, Thôi Thu Sơn liền đứng dậy đi ra ngoài trước, Thanh Thanh chạy vào cười nói:
- Mau mau ra đây, em bảo môn võ của đạo trưởng dạy cho anh hay. Không hiểu tại sao lúc ông ta dạy em chả hiểu gì cả. Ông ta nói: Nếu em không hiểu ngay thì cứ cố nhớ lấy rồi dần dần sẽ hiểu. Em sợ để lát nữa em quên mất.
Nói đoạn, nàng đem miếng võ khinh công "Bách Biến Quỷ Ảnh" (Bóng ma trăm biến) kể lại cho Thừa Chí nghe.
Hồi ở núi Hoa Sơn, Mộc Tang chưa dạy môn võ tuyệt tác này cho Thừa Chí là vì lúc ấy võ nghệ của Thừa Chí hãy còn non nớt, học được cũng vô dụng, và cũng chưa chắc đã hiểu. Vì vậy Mộc Tang đạo nhân mới không truyền cho. Lần này mượn Thanh Thanh gián tiếp truyền cho chàng. Võ nghệ tuy không được tinh xảo, nhưng Thanh Thanh nhờ có trí nhớ hơn người lại thêm tinh khôn, biết Mộc Tang truyền cho mình là giả, mà truyền cho Thừa Chí là thật. Nên lúc đó, nàng cứ cố nhớ từ khẩu quyết, hành động, tay chân, thân pháp, vân vân. Nàng đều nhớ thuộc không sót một tí nào. Bây giờ nàng đọc lại nguyên văn kể lại và biểu diễn cho Thừa Chí xem.
Chàng mừng rỡ vô cùng, lập tức lãnh hội ngay, lại bắt Thanh Thanh ôn lại một lần nữa. Có một vài chỗ Thanh Thanh ngờ ngợ liền đi hỏi lại Mộc Tang. Sau khi đó, Thừa Chí liền luyện tập ngay ở trong sảnh. Chàng biết võ nghệ của nhị sư ca và sư tẩu tinh xảo tuyệt luân. Năm xưa, sư phục đã nói cho chàng hay rằng: "Đại sư huynh của con tánh hay hoạt kê nên hơi kém vững chắc. Còn nhị sư huynh ít nói thâm trầm nên vững chắc hơn." Như vậy thì võ nghệ của nhị sư huynh còn giỏi hơn đại sư huynh, nếu ta dùng miếng võ mới này mà đối địch chả sợ địch không nổi. Chàng cố công nghĩ ngợi một lát lâu, bỗng sực nhớ lúc sư phụ mới dạy võ, có dạy cho chàng một pho võ "Thập Đoạn Cẩm", mà chàng cố hết sức cũng không sao nắm nổi vạt áo của sư phụ, quả thật trong đó tinh diệu vô cùng. Môn võ "Bách Biến Quỷ Ảnh" của Mộc Tang đạo trưởng, tuy đã nhanh nhẹn cực điểm nhưng còn hiền không đủ trầm hậu, nếu đem hỗn hợp với khinh công của môn phái chàng, như vậy có phải đã kiêm cả sở trường của hai phái không?
Chàng vào thư phòng đóng kín cửa lại, ngồi xếp bằng tròn nghĩ ngợi, một chiêu một thức đều nghiên cứu cân nhắc kỹ lưỡng. Tất cả mọi người để cho chàng luyện tập, không ai vào quấy nhiễu cả. Cho tới giờ Thân, Thừa Chí đã hoàn toàn nghĩ ra được môn võ mới, và chắc chắn là thập phần hoàn hảo. Chàng đem ra luyện tập thử, và nhờ Uyển Nhi mời mười vị sư huynh đệ vào, mỗi người xách một thùng nước đứng chung quanh luyện võ trường, chàng đứng ở giữa ra hiệu một cái, ai nấy đều tạt nước vào. Chàng nhảy nhót luồn cúi, tránh Đông né Tây. Chờ mấy thùng nước đã tạt hết, chỉ có tay áo bên phải và chân trái hơi bị ướt thôi. Mọi người đều xúm lại mừng chàng đã sáng tạo một môn võ tuyệt kỹ mới. Trong khi chàng luyện tập, Mộc Tang đạo nhân ngủ thật say làm bộ không biết gì.
Cơm chiều xong, Thừa Chí định một mình đến "Vũ Hoa đài" phó ước. Tiêu Công Lễ, Tiêu Uyển Nhi cùng muốn đi để giải thích, Thanh Thanh cũng muốn đi theo để trợ trận, Thừa Chí đều từ chối cả. Thanh Thanh phùng mồm bĩu mép, tỏ vẻ không vui, Thừa Chí vội giải thích:
- Họ là sư huynh, sư tẩu của tôi, vì hôm nay tôi chỉ chịu đòn chớ không đánh lại. Thấy vậy nhứt định chú nhịn không nổi tất phải nhúng tay vào, như vậy có phải là hỏng hết việc của tôi không?
Thanh Thanh nói:
- Anh chỉ nhường cho họ ba miếng cũng đủ rồi, hà tất anh lại chịu đánh tới cùng làm gì?
Thừa Chí nói:
- Tôi muốn dùng môn võ chú dạy tôi để xem họ đánh nổi tôi không?
Thanh Thanh nói:
- Nếu thế tôi lại càng phải đi xem mới được, tôi xin hứa với anh là tôi không nói nửa lời, như vậy anh đã bằng lòng cho tôi đi chưa?
Thừa Chí cười nói:
- Chú giả làm thằng câm thật ư?
Thanh Thanh gật đầu, Thừa Chí đành phải cho nàng đi theo.
Hai người vào trong xin phép Mộc Tang để đi, đạo nhân ngủ say quá, gọi mấy tiếng cũng không tỉnh, và Thôi Thu Sơn thì không biết đi đâu.
Hai người mượn hai con ngựa của họ Tiêu để cỡi đi, đến canh hai mới tới Vũ Hoa đài. Nhìn xung quanh không thấy ai cả, biết vợ chồng Quy Tân Thụ chưa tới, hai người xuống ngựa nghỉ ngơi, chờ đợi nửa chừng canh, phía Đông có hai bóng đen chạy đến khẽ vỗ tay hai tiếng, Thừa Chí cũng vỗ tay trả lời, một cái bón người nói rằng:
- Viên sư thúc đã tới đấy à.
Nghe giọng nói biết ngay là Lưu Bội Sinh, Thừa Chí đáp:
- Tôi ở đây, chờ đợi sư huynh và sư tỷ.
Chờ đến Lưu Bội Sinh và Mai Kiếm Hòa đi tới gần, đã nghe thấy đằng xa có giọng nói lanh lảnh la lớn:
- Hay lắm, quả nhiên đã tới rồi.
Lời nói vừa dứt hai bóng người đã tới trước mặt. Thanh Thanh giựt mình nghĩ thầm: "Thân pháp của hai người này so lại nhanh thế?"
Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh đứng sang hai bên, hai bóng người kia mới hiện hình, chíng là vợ chồng Quy Tân Thụ, đằng xa lại có một bóng nữa chạy tới. Trông hình bóng, Thừa Chí đã biết là Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân. Võ nghệ kém sư phụ, sư mẫu xa, và tay lại ẵm thằng bé, nàng mới chạy chậm như vậy. Quy nhị nương lạnh lùng nói:
- Viên gia cũng là người biết coi trọng chữ tín đấy nhỉ? Vợ chồng tôi còn nhiều việc bận, đừng có làm mất thời giờ, xin sửa soạn ra tay đi.
Thừa Chí chắp tay vái nói:
- Hôm nay tiểu đệ theo lời hẹn mà tới, là để tạ lỗi sư huynh, sư tẩu, về vụ làm gãy thanh kiếm của sư tẩu, lúc đầu thật đệ không biết, có điều gì xúc phạm, xin hai vị nể mặt sư phụ mà đại lượng khoan thứ cho.
Quy nhị nương cười nhạt một tiếng nói:
- Cậu có phải là sư đệ của chúng tôi hay không chưa ai có thể biết được, hãy đánh vài miếng đã, chuyện gì để sau sẽ nói.
Thừa Chí cứ thoái thác không chịu ra tay. Thấy chàng khiêm tốn, Quy nhị nương càng yên trí là chàng sợ nên chắc là giả hiệu không sai, nàng giơ bàn tay trái lên bổ chéo xuống, Thừa Chí ngả về phía sau tránh, gió bàn tay lướt qua đầu mũi. Thừa Chí giựt mình bụng nghĩ: "Không ngờ chị ta là đàn bà mà quyền pháp lợi hại đến thế."
Quy nhị nương thấy thế đầu đánh không trúng, tay phải nắm quyền đánh theo luôn, dùng toàn thần quyền của phái Hoa Sơn.
Với quyền pháp, Thừa Chí rất tinh xảo, chàng buông thõng hai tay xuống, để rõ ra quyết không đánh lại. Người chàng chỉ khẽ nhích một cái, đã tránh khỏi hai thế quyền đó. Quy nhị nương đánh liền mười mấy miếng như vũ bão, nhưng Thừa Chí đều tránh khỏi cả. Quy Tân Thụ đứng cạnh xem cũng phải sởn lông dựng tóc gáy, trong lòng nghĩ thầm: "Thiếu niên này lợi hại như vậy, khinh công của y hơi giống bổn môn, nhưng trên phân nửa lại không giống, hay y là gian tế của phái khác lừa dối sư phụ học trộm được võ nghệ thượng thặng của môn phái ta chăng?"
Nghĩ đoạn, chàng chăm chú xem xét thân pháp hai người, chỉ sợ vợ mình bị thua.
Quy nhị nương thấy Thừa Chí không đánh trả lại, nghĩ thầm: "Mi khinh thường ta như vậy, ta phải cho mi biết lợi hại của Quy nhị nương này!"
Nghĩ xong, song quyền của nàng như gió, càng đánh càng nhanh. Vì biết đối phương không đánh trả lại, nàng không cần đề phòng thủ thân, cứ việc để ý tấn công. Thừa Chí thấy vậy trong lòng kêu khổ, chàng không ngờ thần quyền của Quy nhị nương lại biết hóa khôn lường như vậy, lại thêm nàng chỉ tấn công, không phải giữ mình, thế đánh càng mạnh gấp đôi, lúc này chàng mới định thần, nếu vạn nhứt địch không nổi, đành phải ra tay đánh lại.
Tôn Trọng Quân đứng cạnh chú ý theo dõi thấy Thừa Chí buông thõng hai tay, mặc cho sư mẫu tấn công nhanh như vũ bão mà cũng không đánh nổi một miếng nào cả.
Nàng nghĩ thầm: "Dù sư phụ mình có ra tay cũng chưa chắc đã đánh nổi y bị thương."
Càng nghĩ nàng càng thấy bực mình, liếc mắt trông thấy Thanh Thanh đứng bên đang khoái chí, vẻ mặt hớn hở tươi cười, liền đưa tiểu sư đệ đang ẵm trong tay cho Mai Kiếm Hòa bế hộ, rút kiếm ra nhảy xổ tới, múa kiếm đâm thẳng vào ngực Thanh Thanh.
Giựt mình sợ hãi, Thanh Thanh vội nhảy sang bên trái, vì nghe lời dặn bảo của Thừa Chí nên nàng không mang khí giới theo. Bị Tôn Trọng Quân đâm liền mấy kiếm, nàng cuống cả chân tay. Võ nghệ đã kém đối phương lại thêm tay không, nàng chỉ tránh được mấy miếng đầu, sau đó là gặp hiểm liên tiếp. Nghe thấy tiếng kêu rú của nàng, Thừa Chí muốn chạy sang cứu giúp nhưng chàng bị Quy nhị nương vây chặt đánh gấp không sao thoát thân nổi. Quy Tân Thụ quát mắng Tôn Trọng Quân rằng:
- Không được tổn thương đến tính mạng người ta!
Tôn Trọng Quân đáp:
- Y là con trai của Kim Xà Lang Quân. Y mới là thủ phạm gây ra tai họa.
Thấy đồ đệ nói như vậy, và cũng biết Kim Xà Lang Quân tâm địa độc ác, không phải là người lương thiện, Quy Tân Thụ làm thinh. Tôn Trọng Quân thấy sư phụ không nói gì, coi như đã được phép, càng đánh kiếm pháp càng nhanh, càng mạnh, chỉ thấy ánh sang lấp lóe, hình như sắp giết được Thanh Thanh đến nơi. Thấy tình thế khẩn cấp, Thừa Chí bỗng song phi hai chân, hai tay vẫn buông thõng như trước nhưng chân chàng liên hoàn đá liền sáu miếng, nhưng khi chân chàng sắp đụng đến người Quy nhị nương, chàng lại rút chân lại. Vì vậy Quy nhị nương đã phải giựt lùi liên tiếp. Nhân dịp đó Thừa Chí nhảy xổ lại định dùng hai ngón tay trái điểm vào yếu huyệt phía sau lưng và định cướp khí giới của Tôn Trọng Quân. Ngờ đâu, bên cạnh bỗng có một tiếng rú thật dài, một cái sức mạnh đánh tới ngang lưng, Thừa Chí phải cứu mình trước, không còn thì giờ tấn công Tôn Trọng Quân nữa. Chàng phẩy tay phải, móc lấy cổ tay của đối phương kéo mạnh, ngờ đâu đối phương vẫn đứng yên mà mình thì phản lực đẩy bắn ra. Thừa Chí từ khi xuống núi tới giờ chưa hề gặp người nào công lực mạnh như vậy, chàng biết ngay người đó là nhị sư huynh Thần Quyền Vô Địch Quy Tân Thụ. Chàng giựt mình sợ hãi nghĩ thầm: "Ta biết bản lãnh của nhị sư huynh phi thường nhưng không ngờ anh ta người gầy gò bé nhỏ như thế mà anh ta lại có thần lực như vậy."
Lúc xuống đất chàng đứng vững như đinh đóng cột, người không rung động mảy may.
Quy Tân Thụ tả chưởng đã theo tới. Lần này Thừa Chí đã đề phòng chỉ né vai trái, quyền của đối phương đã đánh hụt. Miếng này là chàng dùng thân pháp trong môn võ "Bách Biến Quỷ Ảnh", Quy Tân Thụ trông thấy bàn tay của mình sắp tới đầu vai, sợ chàng bị thương, sư phụ quở trách, vội bớt sức lại chỉ còn ba phần thôi.
Thừa Chí nhanh nhẹn vô cùng, chỉ khẽ né mình đã tránh khỏi chưởng đó rồi. Quy Tân Thụ giựt mình kinh hãi, kêu lên:
- Thân pháp nhanh lắm!
Vừa nói y vừa đánh liền mấy chưởng. Chưởng pháp cũng y như của Quy nhị nương, nhưng công lực mạnh hơn và nhanh hơn. Thừa Chí cũng phải ngợi khen thầm và nghĩ rằng: "Thảo nào nhị sư huynh nổi tiếng như vậy. Và đồ đệ của anh ta ra ngoài mới được các giới cung kính như thế."
Vừa nghĩ chàng vừa thận trọng sử dụng môn võ "Bách Biến Quỷ Ảnh" mặc dầu chưa được thuần thục cho lắm. Môn võ này đối phó với Quy Tân Thụ thì bất cập chàng phải dùng "Phục Hổ chưởng" của sư phụ truyền cho để đối phó. Bên kia Tôn Trọng Quân thấy Thừa Chí đã bị sư phụ cản lại, trong lòng mừng thầm, kiếm pháp càng tấn công càng mạnh. Lưu Bội Sinh và Mai Kiếm Hòa đồng thời phải kêu gọi:
- Sư muội chớ có lỗ mãng, đánh người...
Hai người chưa dứt lời, mũi kiếm của Tôn Trọng Quân đã đâm tới ngực đối phương rồi. Không sao tránh khỏi, Thanh Thanh đành phải ngã ngửa về phía sau, lộn một vòng tránh ra xa. Tôn Trọng Quân đuổi theo chám ngang một kiếm, Thanh Thanh cúi đầu tránh nhưng mũ đã bị chém rơi, tóc dài phủ xuống mặt. Thấy nàng là đàn bà, Tôn Trọng Quân ngẩn người giây phút, rồi lại cầm kiếm đâm tiếp. Bỗng nghe trên ngọn cây có giọng già lão quát lớn:
- Con nhãi này độc ác thật!
Một cái bóng đen nhảy xổ xuống, một chân đá thanh kiếm của Tôn Trọng Quân bay lên. Tôn Trọng Quân giựt mình sợ hãi, dưới bóng trăng, trông thấy người nọ ăn mặc đạo sĩ, râu tóc bạc phơ đứng trước mặt Thanh Thanh cản trở. Ba sư huynh muội Mai Kiếm Hòa không biết đạo sĩ đó là ai. Quy nhị nương nhận ra đành phải chạy lại chào.
Mộc Tang cười nói:
- Đừng chào ta vội, hãy xem hai anh em họ luyện võ đã.
Quy nhị nương quay lại nhìn chồng, thấy hai bóng người lẫn trong tiếng gió vù vù, đang đánh hăng hái vô cùng. Quy Tân Thụ sức mạnh thế trầm. Viên Thừa Chí chân tay nhanh nhẹn. Một người thuần thuộc võ công của bổn môn. Một người kiêm sở trường của ba nhà. Thật là kỳ phùng địch thủ khó bề phân biệt hơn kém.
Hai người càng đánh càng hăng. Thoạt tiên, Thừa Chí dùng toàn võ công bổn môn đối địch, nhưng một là công lực còn non, luyện tập không lâu bằng Quy Tân Thụ, hai là những miếng hiểm độc không dám sử dụng, cho nên càng đánh càng bị lép vế. Quy nhị nương đứng cạnh thấy chồng sắp thắng, trong lòng mừng thầm nhưng nàng thấy võ công bổn môn của Thừa Chí thuần thuộc như vậy không còn hoài nghi chàng không phải là sư đệ của mình nữa.
Đấu đến lưng chừng, Thừa Chí đột nhiên thay đổi quyền pháp, tựa như con rắn bơi chạy vậy. Đó là thế võ "Kim Du Than Chưởng" của Kim Xà Lang Quân thấy rắn bơi trên mặt nước mà sáng tạo ra. Nhưng khi sử dụng thế võ này, Thừa Chí bỏ hết những miếng hiểm độc không dùng, chỉ thêm vào diệu thuật khinh công "Bách Biến Quỷ Ảnh" của Mộc Tang, thân hình chạy Đông tránh Tây, không sao biết được. Quy Tân Thụ quyền pháp tuy cao nhưng không biết được thân hình của Thừa Chí ở đâu nên đánh liền mấy mươi hiệp mà không sao đụng đến đuôi áo của Thừa Chí. Quy Tân Thụ bỗng nhảy ra ngoài vòng lớn tiếng gọi:
- Hãy khoan.
Thừa Chí vội đứng yên, nghĩ thầm: "Anh đánh không nổi tôi, chúng ta coi như hòa, người nào cũng không mất sĩ diện, như vậy có hơn không?"
Quy Tân Thụ hướng về trên không vái chào, rồi nói:
- Kính chào Sư phụ giá lâm.
Thừa Chí giựt mình thấy trên cây có bốn người liên tiếp nhảy xuống. Người đi trước đúng là ân sư "Bát Thủ Tiên Viên" Mục Nhân Thanh, chàng mừng quá chạy tới quỳ lạy, khi đứng dậy, mới thấy ba người phía sau là Thôi Thu Sơn, đại sư huynh Hoàng Chân, và người sau cùng là anh chàng Câm trên đỉnh núi Hoa Sơn. Bỗng gặp ân sư và cố nhân, Thừa Chí hớn hở vô cùng, ra hiệu trò chuyện với chàng Câm, và trong bụng nghĩ thầm: "Dù sao kinh nghiệm của mình còn kém, cứ mãi đấu với nhị sư huynh không để ý đến chung quanh tứ phía. Nếu trên cây không phải là sư phụ mà là kẻ địch, có phải là đã trúng phải mưu kế của người không? Như vậy, đủ thấy nhị sư huynh vẫn giàu kinh nghiệm hơn mình."
Nên chàng cũng phải phục thầm Quy Tân Thụ. Mục Nhân Thanh xoa đầu Thừa Chí mỉm cười nói:
- Ta nghe thấy đại sư huynh con nói những việc đã xảy ra ở Triết Giang Từ Châu, con làm khá lắm...
Nói tới đây, ông ta lại xầm nét mặt nói tiếp:
- Người thiếu niên sao không biết kính trọng tôn trưởng, lại ra tranh đấu với sư huynh, sư tẩu?
Thừa Chí cúi đầu khẽ nói:
- Đệ tử đã biết lỗi nhiều. Lần sau đệ tử quyết không dám thế nữa.
Nói đoạn, chàng đến trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ vái hai vái, rồi nói:
- Tiểu đệ xin lỗi sư ca, sư tẩu.
Quy nhị nương tánh rất thẳng thắn, và nhanh nhẩu, liền nói với Mục Nhân Thanh rằng:
- Xin sư phụ đừng trách chú ấy, đó là lỗi vợ chồng con bắt buộc. Chúng con chỉ trách chú ấy sử dụng võ nghệ môn phái khác làm nhục nhã mấy đồ đệ không nên thân của chúng con ở trước mặt mọi người.
Nói xong, nàng chỉ bọn Mai Kiếm Hòa ba người. Mục Nhân Thanh nói:
- Nói đến thành kiến môn phái, ta rất coi thường. Nầy, Kiếm Hòa anh lại đây. Tôi hãy hỏi anh, y đấu với sư huynh, sư tẩu là y có lỗi vậy tại sao các anh chị ba người lại dám đấu với sư thúc như vậy? Trong môn phái của chúng ta có tôn ti trật tự, tại sao các anh chị không coi điều đó vào đâu?
Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh hai người ở trưóc mặt sư tổ không dám giấu diếm nửa lời, đem chuyện Mẫn Tử Hoa mời các anh hùng hào kiệt đến thành Nam Kinh kiếm Tiêu Công Lễ trả thù cho anh, kể hết cả ra. Nhưng đến vụ Tôn Trọng Quân chặt đứt cánh tay của người, hai người chỉ nói lướt qua. Nhịn không nổi, Thanh Thanh xen vào nói:
- Bỗng tự nhiên chặt đứt một cánh tay của người ta, thấy nàng ngang ngược quá, Viên đại ca mới phải xuất ra giàn xếp.
- Có thật không?
Vợ chồng Quy Tân Thụ không rõ chuyện cứ nhìn vào mặt Tôn Trọng Quân, Mai Kiếm Hòa khẽ nói:
- Bẩm sư tổ, vì Tôn sư muội tưởng người đó là kẻ bất lương nên mới ra tay không dung tình như vậy. Bây giờ sư muội cũng ăn năn hối lỗi vô cùng. Xin sư tổ xá tội cho.
Mục Nhân Thanh cả giận quát lớn:
- Phái Hoa Sơn chúng ta giới luật lớn nhứt là không được tàn sát những kẻ vô tội. Tân Thụ lúc con nhận đồ đệ không dạy bảo chúng như vậy sao?
Từ xưa đến nay Quy Tân Thụ chưa thấy sư phục nổi giận thế này bao giờ, vội quỳ xuống nói rằng:
- Lỗi tự đệ tử, xin sư phụ bớt giận, thể nào đệ tử cũng xin trừng phạt nó.
Quy nhị nương, Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, và Tôn Trọng Quân bốn người vội quỳ xuống theo. Mục Nhân Thanh vẫn còn chưa nguôi cơn giận, quay lại mắng Thừa Chí:
- Con trông thấy việc như thế, tại sao con chỉ bẻ gẫy có thanh kiếm mà thôi? Sao không chặt đứt cánh tay của nó đi? Chúng ta không chỉnh đốn môn phong của mình tất bị giang hồ bạn hữu chê cười ngay!
Thừa Chí quỳ xuống vái lạy và nói:
- Đệ tử đã biết rồi.
Mục Nhân Thanh cười nhạt một tiếng liền nói với Tôn Trọng Quân rằng:
- Chị kia, lại đây!
Tôn Trọng Quân sợ hết hồn vía, không dám tới gần, chỉ dập đầu vái lạy lia lịa.
Mục Nhân Thanh nói:
- Chị không lại phải không?
Quy nhị nương biết ý của sư phụ là muốn điểm huyệt cho Tôn Trọng Quân thành phế nhân hủy bỏ hết võ công nhưng Trọng Quân là đồ đệ quý nhứt của nàng, nên nàng vội quỳ xuống lạy và van xin:
- Xin sư phụ bớt giận, để về nhà thể nào con cũng xin đánh nó một trận nên thân.
Mục Nhân Thanh nói:
- Con cũng chặt đứt cánh tay nó đi, ngày mai khiêng nó đến nhà họ Tiêu xin lỗi.
Quy nhị nương không dám nói nữa. Thừa Chí vội nói:
- Thưa sư phụ, việc này con đã xin lỗi nhà họ Tiêu rồi, và nhận lời dạy người đó một miếng võ để riêng cho người một tay sử dụng cho nên nhà họ Tiêu đã vui lòng nhận lời xóa bỏ mối thù này rồi.
- Đứng dậy cả đi! Cũng may Mộc Tang đạo huynh đây không phải là người ngoài, chớ không có phải là tiếng xấu đã đồn ra ngoài rồi không. Bây giờ, tôi mới chịu Mộc Tang đạo huynh thông minh, không thu nhận một người đồ đệ nào nên ông khỏi bị mất sĩ diện và bực như thế này!
Mọi người đều đứng dậy, Mục Nhân Thanh trợn mắt nhìn Tôn Trọng Quân, Tôn Trọng Quân lại vội quỳ xuống như trước, Mục Nhân Thanh nói:
- Chị đem thanh kiếm lại đây!
Tôn Trọng Quân trống ngực đập mạnh, tay bưng thanh kiếm nâng qua đầu dưng cho sư tổ. Mục Nhân Than cầm lấy cán kiếm, chỉ khẽ vung tay một cái, Tôn Trọng Quân đã thấy tay trái đau như cắt, máu tươi vọt ra. Thì ra ngón tay út của nàng đã bị sư tổ chặt đứt. Mục Nhân Thanh lại rung thanh kiếm một lần nữa. Thanh kiếm đó gãy ngay làm đôi, quát lớn:
- Từ nay trở đi cấm chị không được dùng kiếm.
Tôn Trọng Quân nhịn đau đáp:
- Đệ tử đã biết tội nhiều, xin sư tổ đại xá.
Vừa xấu hổ, vừa sợ, Trọng Quân nước mắt ràn rụa. Quy nhị nương vội xé vạt áo bọc vết thương cho nàng và khẽ nói:
- Thôi đừng khóc nữa. Sư tổ không phạt nữa đâu.
Mai Kiếm Hòa thấy sư tổ chỉ khẽ rung một cái, thanh kiếm đã gãy làm đôi. Lúc đó y mới hay Thừa Chí rung gãy những kiếm trong tay y, quả thật là võ công của bổn môn. Y nghĩ thầm: "Không ngờ võ công của bổn môn lại tinh diệu đến thế! Ta mới học được có chút ít, đã ra ngoài dương oai rồi."
Nghĩ lại quá khứ, y ăn năn hối lỗi vô cùng. Nay lại sợ sư phụ khiển trách, y toát mồ hôi lạnh. Mục Nhân Thanh trợn mắt nhìn y nhưng không nói năng gì, rồi quay nói với Thừa Chí:
- Con đã nhận lời dạy võ cho người, thì phải dạy cho đến nơi đến chốn. Chẳng hay con định dạy họ môn võ gì?
Thừa Chí đỏ mặt, rồi nói:
- Vì chưa xin phép sư phụ, đệ tử không dám dạy võ công của bổn môn cho họ. Nên đệ tử định truyền cho họ một môn tạp học dùng tay trái để sử đao, một đao pháp mà đệ tử đã vô tình học được.
Mục Nhân Thanh nói:
- Tạp học của con kể cũng hơi nhiều đấy! Vừa rồi ta thấy con đấu với Nhị sư huynh hình như con đã sử dụng tuyệt kỹ "Bách Biến Quỷ Ảnh" của Mộc Tang đạo trưởng. Có bạn cờ ấy giúp con thì Nhị sư huynh thắng sao nổi.
Nói xong, ông ta hà hà cả cười. Mộc Tang đạo nhân cười nói:
- Thừa Chí, cậu có dám nói dối sư phụ cậu không?
Thừa Chí đáp:
- Đệ tử không dám ạ.
Mộc Tang nói:
- Được lắm. Từ khi cậu rời khỏi núi Hoa Sơn đến giờ, ta có dạy cậu môn võ nào không? Phải nghe rõ, ta có chính tay truyền thụ không?
Thừa Chí mới vỡ lẽ tại sao đạo trưởng lại gián tiếp nhờ tay Thanh Thanh dạy, lại e sợ sư phụ và Nhị sư huynh oán trách ta. Ông ta tinh khôn thật!
Nghĩ xong, Thừa Chí liền đáp:
- Đạo trưởng không có chính tay dạy bảo đệ tử. Lần này gặp gỡ đạo trưởng, chỉ đánh có một ván cờ với đệ tử thôi.
Mộc Tang cười nói:
- Đúng thế đấy. Bây giờ cậu luyện tập lại với Nhị sư huynh. Cấm cậu sử dụng lại những môn võ nào mà trước kia ta đã dạy cho.
Thừa Chí nói:
- Nhị sư huynh hiệu là Thần Quyền Vô Địch quả thật danh bất hư truyền. Đệ tử địch không nổi, đang định xin Nhị sư huynh ngừng tay, ngờ đâu, sư huynh đã thấy sư phụ tới. Trong khi đấu võ, đệ tử không để ý tới xung quanh.
Mục Nhân Thanh cười nói:
- Thôi, đừng nói nữa. Đạo trưởng muốn các con luyện tập thì cứ việc đấu đi! Còn sợ cái gì?
Bất đắc dĩ, Thừa Chí sửa y phục cho ngay ngắn lại, rồi đến cúi chào Quy Tân Thụ và nói:
- Xin Nhị sư huynh chỉ giáo cho.
Quy Tân Thụ đáp lễ và nói:
- Tôi không dám.
Y quay đầu nói với Mục Nhân Thanh:
- Chúng con có chỗ nào sơ suất xin sư phụ sửa chữa cho.
Hai người bắt đầu vào cuộc đấu. Phen này khác hẳn lúc nãy. Trước mặt sư phụ, đại sư huynh, và các đồ đệ Quy Tân Thụ, không muốn mất sĩ diện, nên lúc tấn công thì như vũ bão sấm sét và lúc phòng thủ thì vững chắc như núi Thái Sơn. Thân pháp của những người đã có tên tuổi quả thật khác người. Còn Thừa Chí cũng có công lực có thừa nhưng chỉ dùng võ nghệ của bổn môn đỡ địch thôi. Đấu được hơn trăm hiệp, cả hai đều không có chút nào sơ hở. Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đứng cạnh xem, vuốt râu mỉm cười. Mộc Tang cười nói:
- Thật là thầy nào trò nấy có khác, dưới tay cường tướng không nhược binh. Trông thấy hai vị đồ đệ của bác, lão đạo sĩ đây đến phải nổi cơn ghen. Bần đạo hối hận năm xưa không chịu thâu vài đồ đệ.
Hai người lại đấu thêm vài chục hiệp nữa. Thấy đánh mãi không hạ nổi sư đệ, Quy Tân Thụ lại tấn công lợi hại hơn. Thừa Chí nghĩ thầm: "Đánh đã khá lâu rồi, tới lúc này ta phải nhường cho Nhị sư huynh một miếng mới phải."
Nhưng thế công của Quy Tân Thụ mạnh và nhanh nhẹn vô cùng, nếu không dùng toàn lực chống đỡ, bị thương nặng tức thì. Thừa Chí không sao kiếm được dịp may để nhường một miếng, rồi lại đánh lâu thêm. Một lát lâu nữa, chàng bỗng nghĩ:
- "Nghe giọng nói của sư phục vừa rồi, hình như không vui lòng. Ta học võ của nhiều môn phái. Lúc này ta dùng võ công của ba nhà đối địch với Nhị sư huynh ta chiếm thế lợi hơn. Bây giờ chỉ dùng võ công của bổn môn ta phải cố gắng mới đánh ngang tay. Như vậy có khác gì võ công của môn phái khác giỏi hơn bổn môn không? Vậy ta phải dùng võ công phái khác để thua Nhị sư huynh."
Nghĩ đoạn, chàng liền thay đổi quyền pháp, sử dụng một pho "Kim Xà Cầm Hạc quyền." Quy Tân Thụ thấy miếng đỡ miếng, thế công của y vẫn không sút chút nào. Thừa Chí đột nhiên liên tiếp đánh luôn bốn miếng quái thế, Quy Tân Thụ giựt mình kinh hãi vội thâu quyền để bảo vệ. Có cơ hội nghĩ ngợi giây phút, Thừa Chí liền vận hơi lên vai, Quy Tân Thụ bỗng thấy sau lưng Thừa Chí đột nhiên lộ ra một chỗ sơ hở, không do dự tí nào, đánh luôn một chưởng vào nơi đó. Thừa Chí đã phòng bị trước, theo sức đánh của đối phương, nhảy xổ về đằng trước ngã lăn ra đất nhưng đứng dậy ngay và quay lại nói:
- Tiểu đệ xin thua rồi.
Đánh xong chưởng đó, Quy Tân Thụ ân hận vô cùng, chỉ sợ sư đệ bị thương nặng, vội chạy lại đỡ. Ngờ đâu Thừa Chí vẫn tươi tỉnh như thường, không cảm thấy đau đớn gì cả. Quy Tân Thụ vẫn nghi ngờ và hoảng sợ nhưng y có biết đâu Thừa Chí đã vận hơi để đỡ trước và hơn nữa trong người lại có cái áo sợi vàng của Mộc Tang tặng cho bảo vệ. Chỗ bị đánh tuy hơi đau một chút nhưng trong người Thừa Chí không hề bị thương.
Lúc chàng quay người trở lại, mọi người trông thấy phía sau lưng chiếc áo dài mặc ngoài của chàng một chỗ đã rách nát, một luồng gió thổi qua những mảnh áo rách phất phới bay tứ tung. Thanh Thanh rất quan tâm vội vàng chạy lại hỏi:
- Có việc gì không anh?
Thừa Chí đáp:
- Em cứ yên trí.
Mục Nhân Thanh nói với Quy Tân Thụ:
- Võ của con tuy có tiến bộ thật nhưng miếng đánh vừa rồi quá độc, con có biết không?
Quy Tân Thụ đáp:
- Thưa Sư phụ, công lực của Viên sư đệ hơn đệ tử nhiều. Đệ tử xin phục.
Mục Nhân Thanh nói:
- Mấy năm gần đây, ta thường nghe người ta nói vợ chồng con dung túng đồ đệ ở bên ngoài, hung hăng tự phụ. Ta nghĩ vợ con là đàn bà không biết gì, còn có thể tha thứ được. Còn con tất nhiên không phải là hạng người hồ đồ như thế. Nhưng vừa rồi, ta trông thấy con đối phó với sư đệ như vậy, hừ!
Quy Tân Thụ cúi đầu khẽ đáp:
- Đệ tử đã biết lỗi rồi.
Mộc Tang nói:
- Khi đã tỷ võ không ai có thể nhường cho ai cả và bây giờ Thừa Chí lại không bị thương. Lão huynh còn nói anh ta làm gì.
Mục Nhân Thanh mới thôi không nói nữa. Vợ chồng Quy Tân Thụ nổi tiếng lâu năm, hầu như đã làm lãnh tụ võ lâm ở khắp vùng này rồi. Lần này bị sư phụ khiển trách trước mặt mọi người, nên cả hai hậm hực Thừa Chí.
Mục Nhân Thanh nói:
- Tới mùa Thu này, Sấm Vương sẽ cử binh khởi sự, các con phải mau mau liên lạc các anh em võ lâm ở Giang Nam này. Chờ lúc Sấm Vương đánh xuống miền Nam là vùng dập hưởng ứng ngay.
Vợ chồng Quy Tân Thụ vâng lời. Mục Nhân Thanh lại dặn bảo Thừa Chí rằng:
- Con với cậu bạn nhỏ này (chỉ Thanh Thanh) đi lên Bắc Kinh, thám thính tình hình của triều đình nhưng cấm không được bứt dây động rừng và cũng không được giết hại một người nào cả. Được tin tức gì quan trọng phải về Thiểm Tây báo tin ngay.
Thừa Chí vâng lời xong, Mục Nhân Thanh lại nói:
- Tối hôm nay ta còn phải đi gặp Trịnh Khởi Văn và Thập Lực đại sư. Mộc Tang đạo huynh bây giờ định đi đâu?
Mộc Tang cười nói:
- Quý vị là nhân nghĩa sĩ, vì nước vì dân suốt ngày bận bịu. Bần đạo không thể bắt chước được, chỉ muốn giữ tiểu đồ đệ của lão huynh mấy ngày chẳng hay có được không?
Mục Nhân Thanh cười đáp:
- Đằng nào nó cũng nhận lời dạy võ cho người ta rồi, còn phải ở lại Nam Kinh vài ngày. Đạo huynh với nó tha hồ mà đánh cờ. Còn bao nhiêu môn võ, nhân lúc này đạo huynh rảnh rang, sao không dạy cả cho nó đi.
Nói đoạn, ông ta cười ha hả quay mình đi luôn. Hoàng Chân và Thôi Thu Sơn cũng đi theo liền, còn chàng Câm thì đứng yên không chịu đi giơ tay ra hiệu muốn xin ở lại với Thừa Chí. Mục Nhân Thanh cười nói:
- Thôi được, con nhớ bạn nhỏ ở lại đây theo y.
Ông ta ra hiệu tỏ vẻ bằng lòng. Chàng Câm cả mừng chạy lại ôm chặt lấy Thừa Chí. Thanh Thanh giựt mình hoảng sợ. Dưới ánh sáng trăng, thấy mặt Thừa Chí hớn hở vô cùng, lúc ấy nàng biết là đùa. Vừa gặp sư phụ và Thôi Thu Sơn, nay lại phải chia tay, Thừa Chí tỏ vẻ luyến tiếc.
Mục Nhân Thanh cười nói:
- Con đã tiến bộ nhiều lắm, không uổng công mọi người chỉ bảo cho.
Nói đoạn, ông ta chỉ phẩy tà áo một cái, thân hình đã ẩn khuất trong bóng tối rồi. Vợ chồng Quy Tân Thụ chắp tay vái chào tống tiễn. Chờ sư phụ và đại sư huynh đã khuất mặt rồi, quay lại vái Mộc Tang một cái rồi lẳng lặng ẵm con đem ba đồ đệ đi.
Mộc Tang nói với Thừa Chí rằng:
- Vợ chồng họ đã oán hận cậu đấy. Võ nghệ của chúng không phải tầm thường đâu. Sau này gặp họ, cậu phải cẩn thận mới được.
Thừa Chí gật đầu nghĩ thầm: "Bỗng tự dưng ta lại gây thù gây oán với vợ chồng Nhị sư huynh thế này?"
Vừa nghĩ, chàng vừa buồn rầu, về đến nhà họ Tiêu lên giường ngủ liền.
Ngày hôm sau mới ngủ dậy, Thanh Thanh đã kêu la bước vào, tay cầm hộp gỗ cười nói:
- Anh thử đoán xem đây là cái gì?
Thừa Chí vẫn còn mỏi mệt, uể oải nói:
- Có khách đến thăm phải không?
Thanh Thanh mở nắp hộp ra, mặt tươi cười như hoa nở. Bên trong có một cái thiệp đại hồng, viết rằng: "Ngu giáo đệ Mẫn Tử Hoa bái." Thanh Thanh để thiếp ra ngoài.
Có một tờ văn tự nhà và một tờ giấy khai những đồ đạc. Thấy Mẫn Tử Hoa giữ lời hứa như vậy, Thừa Chí cũng cảm thấy không yên vội thay quần áo để đi bái tạ. Ngờ đâu, Mẫn Tử Hoa và người nhà dọn đi hết rồi, và đi đâu không ai biết cả. Chiều hôm đó, Uyển Nhi cho người sang quét dọn và bày biểu cho nữ tỳ đến hầu hạ Thanh Thanh, còn đem cả người bếp, người trồng cây, tùy tòng, phu canh, phu ngựa, vân vân, sang giúp việc nữa. Hồng Thắng Hải thì làm Tổng quản. Thừa Chí nói:
- Tiêu tiểu thơ tuổi tuy còn nhỏ nhưng làm việc chu đáo lắm.
Thanh Thanh bịt miệng cười nói:
- Nếu cô ta đến căn nhà này làm phu nhân thì tối biết bao.
Biết nàng lại giở giọng ghen, Thừa Chí chỉ mỉm cười không nói gì.
Sau canh hai tối hôm đó, Thừa Chí và Thanh Thanh lấy tờ địa đồ của Kim Xà Lang Quân để lại, nghiên cứu. Căn nhà đó có nhiều nơi đã thay đổi, nhưng đại để vẫn còn giống trong bản đồ.
Hai người mừng quá căn cứ lời dặn trong bản đồ tìm tới chỗ để của. Thì ra nơi đó là ở trong phòng củi. Thừa Chí gọi chàng Câm tới. Hai người khuân hết củi trong phòng ra ngoài, lấy xẻng cuốc tới đào. Thanh Thanh cầm kiếm đứng ngoài cửa phòng canh gác. Đào được nửa tiếng đã chạm đá. Thừa Chí ra hiệu cho chàng Câm ngừng tay.
Hai người bỏ xẻng cuốc sang bên, lấy tay bới những đất cát cho tới khi trông thấy một tảng đá lớn, nâng tảng đá đó lên, thấy bên dưới có một cửa hang lớn. Nghe thấy tiếng kêu rú mừng rỡ của Thừa Chí, Thanh Thanh vội chạy vào xem.
Thừa Chí nói:
- Chú hãy gác bên ngoài giây lát rồi hãy vào.
Nói đoạn, chàng đốt hai bó rơm khua vào trong hang, chờ cho uế khí tan hết mới theo bực thang đi xuống. Dưới ánh sáng lửa chàng trông thấy mười các hòm sắt lớn bày thành một hàng dọc, hòm nào cũng có khóa và khóa lại, còn chìa khóa thì tìm mãi không thấy.
Chàng Câm chạy lại nâng thử hòm đồ đó, thấy cái nào cũng nặng chình chịch. Xem lại tờ bản đồ, Thừa Chí thấy góc trái có vẽ một con rồng vàng nho nhỏ, đoán ra ngay là cái gì, liền cầm cuốc theo chỗ đào xuống, chỉ mấy cuốc đã thấy cái hộp sắt, hộp này không có khóa. Chàng nghĩ tới những hộp của Kim Xà Lang Quân để lại, trong đều có tên độc liền lấy dây buộc vào vòng sắt trên nắp, rồi lùi ra phía xa giựt mạnh đầu dây, nắp hộp mở ra liền, nhưng không thấy có tên độc bắn ra.
Một lát sau, chàng cầm đuốc đến soi, thấy trong hộp có một chuỗi chìa khóa và hai tờ giấy. Một tờ giấy trên viết: "Chú trẫm nổi loạn, võ thần đều đầu hàng, duy có Ngụy Quốc Công Từ Huy Tổ là trung thành đáng khen. Những của báu trong nội phủ đây, hấp tấp ra đi, trẫm không kịp đem theo, Ngụy Công coi giữ cho trẫm để sau này phục quốc làm quân phí. Kiến Văn đệ tứ niên lục nguyệt."
Đọc xong tờ giấy, Thừa Chí mới hay những vật báu này là của vua Kiến Văn nhà Minh, bị chú cướp ngôi và bỏ chạy để lại. Thừa Chí lại đọc đến tờ giấy thứ hai thấy một bài thơ của vua Kiến Văn bôn tẩu bốn mươi năm lại trở về đất Kim Linh, lúc ấy trời đã trải qua bốn đời vua, từ người chú là vua Vĩnh Lạc truyền ngôi cho Hồng Hy, rồi đến Tuyên Đức, sau cùng đến Chính Thống và lúc này vua Kiến Văn đã ngoài sáu mươi tưổi rồi.
Chí khí cướp lại ngôi báu đã tiêu tan, nhìn những vật báu cũ này, trong lòng cảm khoái vô cùng mới làm bài thơ này để tỏ rõ tâm sự như trên, rồi cắt tóc đi tu. Sau không biết ở đâu và chết tại đâu. Tờ bản đồ này đã qua bao nhiêu tay không hiểu tại sao lại lọt vào tay Kim Xà Lang Quân.
Thừa Chí lấy chìa khóa ra mở nắp hòm sắt, lúc mở nắp hòm lên, thấy ánh sáng chói lọi. Hòm nào cũng chất đầy bảo ngọc, trân châu, mã não, phỉ thúy, cái nào cũng là quý giá cả. Thừa Chí đem chìa khóa ra đưa cho Thanh Thanh, canh gác hộ nàng để nàng vào xem. Nàng cũng mừng rú lên.
Thừa Chí bước vào hỏi rằng:
- Những vật báu này là năm xưa Minh Thái Tổ cướp bóc của dân gian. Bây giờ chúng ta dùng nói để làm gì?
Gần gũi nhau lâu ngày, Thanh Thanh đã hiểu ý chàng nếu biết tỏ ra hơi có chút ích kỷ, tham lam, là bị chàng khinh thị, mối tình dang díu bấy lâu nay sẽ tan vỡ tức thì nên nàng trả lời rằng:
- Của này lấy của dân thì phải trả lại cho dân.
Thừa Chí cả mừng nắm lấy tay Thanh Thanh mà nói:
- Chú thật là tri kỷ của tôi. Có bao nhiêu tài báu, chúng ta có thể giả dạng con nhà giàu có lên Bắc Kinh làm một việc lớn lao. Vua Minh bóc lột của dân, chúng ta dùng nói trợ giúp cho Sấm Vương đánh đổ vua Minh. Như thế gọi là gì nhỉ?
Thanh Thanh cười nói:
- Gọi là "Dĩ tứ chi mâu, Công tử chi thuẫn" (nghĩa là dùng mâu của anh đâm chiếc thuẫn của anh).
Thừa Chí cười nói:
- Phải lắm, phải lắm, chúng ta mau mau thu xếp đi.
Ba người liền khuân mười cái hòm về phòng Thừa Chí và lấp bằng cái hang nọ. Làm xong, trời đã gần sáng, ai nấy mồ hôi ướt đẫm quần áo.

Hồi 13

Trưa ngày hôm sau, Thừa Chí sai Hồng Thắng Hải sang nhà họ Tiêu mời La Lập Như. Tuy vết thương đứt cánh tay chưa liền da, hay tin Thừa Chí cho gọi, Lập Như cả mừng nhờ người cõng sang luôn.
Thừa Chí đem pho đao sử dụng bằng cánh tay trái giảng giải rất kỹ lưỡng cho La Lập Như nghe. Vốn có sẵn căn bản võ công, lại thêm được Thừa Chí dạy bảo rất kỹ lưỡng liên tiếp trong mười ngày, La Lập Như đều thuộc lòng tất cả các thế. Chỉ chờ vết thương lành mạnh là y có thể luyện tập được. Pho đao pháp này là Thừa Chí học được trong Kim Xà bí kíp, khác hẳn những đao pháp sử dụng bằng tay trái của giang hồ vẫn lưu truyền, thế nào cũng hiểm, miếng nào cũng nhanh, quả thật lợi hại vô cùng. Trả xong món nợ đó, Thừa Chí mới yên lòng, liền cho thuê mười mấy chiếc xe lớn để chuẩn bị lên đường vào kinh.
Cha con Tiêu Công Lễ và tất cả môn đồ thết một bữa tiệc rất linh đình để tiễn chân. Trước khi đi, Thừa Chí nhờ Tiêu Công Lễ cố kiếm ra chỗ ở của Mẫn Tử Hoa để trao trả căn nhà, Tiêu Công Lễ vui vẻ nhận lời. Còn bọn Hán gian Trường Bạch tam anh giao cho nhà chức trách trừng trị. Ngày hôm đó, trời quang mây tạnh, gió Thu mát mẻ. Thừa Chí, Thanh Thanh, chàng Câm, Hồng Thắng Hải một bọn bốn người áp mười mấy chiếc xe thủng thẳng lên đường tiến về phía Bắc. Cha con Tiêu Công Lễ và các đệ tử tiễn qua sông Trường Giang, còn theo chân thêm ba mươi dặm đường nữa mới từ biệt quay trở lại. Bên Bắc Ngạn Trường Giang này, vẫn còn là trong phạm vi dưới thế lực chi phối của bang Kim Long. Vì được lịnh của Tiêu Công Lễ cho hay trước, các môn đồ của bang Kim Long ở những nhà trạm, bến tàu, hay khách sạn đều tiếp đón bọn Thừa Chí một cách ân cần.
Đi được mười mấy ngày, vào tới biên giới tỉnh Sơn Đông, Hồng Thắng Hải nói:
- Viên đại gia, nơi đây không phải là địa giới của bang Kim Long. Bắt đầu từ ngày hôm nay chúng ta phải cẩn thận đề phòng mới được.
Thanh Thanh nói:
- Anh nói gì? Ai lại dám vuốt râu cọp như vậy?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Hiện giờ, thiên hạ giặc giã nổi lên như châu chấu, tỉnh Sơn Đông này lại còn nhiều hơn các tỉnh khác và có hai bang rất lợi hại.
Thanh Thanh nói:
- Một bang là phái Bột Hải của các anh chớ gì?
Hồng Thắng Hải cười nói:
- Phái Bột Hải chúng tôi chuyên kiếm ăn trên mặt bể. Còn những thứ ở trên bờ, dù là vàng bạc châu báu vứt đầy đường, chúng tôi cũng không thèm nhặt.
Thừa Chí hỏi:
- Vậy hai bang nào mạnh nhứt tỉnh Sơn Đông này?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Một bang là Thương Châu Chữ Rồng Liễu với các bộ hạ của Chữ đại gia.
Thừa Chí gật đầu nói:
- Tôi đã nghe sư phụ nói qua. Chữ đại gia nổi tiếng ở giang hồ có "Thiết Sa chưởng" và "Thái Tổ Côn."
Hồng Thắng Hải nói:
- Đại gia nói đúng đấy. Còn một bang nữa, khai sơn lập trại ở ác Hổ Đầu. Sáu vị Trại chủ đều là những hảo hán võ nghệ cao cường.
Thừa Chí gật đầu nói:
- Từ nay trở đi chúng ta cẩn thận. Mỗi đêm lần lượt phái một người canh gác.
Lại đi được hai ngày. Lúc vào giữa trưa, bỗng nghe thấy tiếng chuông ở đằng xa đưa tới. Phía trước mặt có hai người cỡi ngựa phi tới, chạy sát cạnh mọi người, phóng thẳng. Là tay lão giang hồ giàu kinh nghiệm hơn, Hồng Thắng Hải liền nói:
- Cái trò ấy đã tới đấy.
Y biết võ nghệ của Thừa Chí cực cao siêu, và mình cũng không phải là tay thường, không coi mấy tên giặc cỏ vào đâu. Độ một tiếng sau, hai người cỡi ngựa kia lại quay trở lại, rồi lại phóng về phía đằng trước, lúc qua cạnh xe, chúng cứ đưa mắt vào trong xe. Thanh Thanh chỉ cười nhạt.
Hồng Thắng Hải lại nói:
- Chỉ đi độ mười dặm nữa, thể nào cũng có cường đạo ra cản đường.
Ngờ đâu, đi hơn mười dặm mà vẫn bình yên vô sự. Tối hôm đó, nghỉ chân ở Song Thạch phố, Hồng Thắng Hải tắc lưỡi lấy làm lạ và nói:
- Chẳng lẽ đôi mắt lão giang hồ cuả tôi lại trông nhầm hay sao?
Ngày hôm sau lại lên đường đi, chưa đầy năm dặm, trông thấy bốn người cỡi ngựa theo sau rất xa.
Hồng Thắng Hải nói:
- Phải rồi, bọn chúng hôm qua chưa rủ đủ người, mới để yên cho chúng ta như vậy, nhưng ngày hôm nay thể nào cũng có chuyện xảy ra.
Giữa trưa, nghỉ ngơi ăn uống xong, trong khi đi đường lại có hai người cỡi ngựa đến dò la thám thính.
Hồng Thắng Hải nói:
- Lạ thật, xưa nay bọn lục lâm dò là thám thính không bao giờ lại phái nhiều người và hành động nhiều lần như thế này.
Đi được nửa ngày, lại thấy hai người cỡi ngựa phóng qua. Thừa Chí và Thanh Thanh không thạo gì về mọi sự của giang hồ, thấy nhiều người cỡi ngựa chạy đi phóng lại, biết rõ là chúng dòm ngó những hòm châu báu của mình. Nhưng tại sao chúng lại chạy đi, chạy lại nhộn nhịp như thế làm gì?
Hồng Thắng Hải bỗng nói:
- Phải rồi! Viên tướng công đêm hôm nay chúng ta thể nào cũng phải đến thị trấn lớn mà nghỉ ngơi.
Thừa Chí hỏi:
- Tại sao vậy?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Những người theo dõi chúng ta đây, ít nhứt là người của mấy trại.
Thanh Thanh hỏi:
- Thật không? Có mấy Trại chủ đã vừa món hàng này rồi đấy à?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Cứ mỗi một trại chúng phái hai người. Vậy từ hôm nọ đến nay tôi tính ra bảy trại rồi.
Thanh Thanh nói:
- Như thế thì cũng vui đấy nhỉ?
Hồng Thắng Hải nghiêm nét mặt nói:
- Tiểu thơ, tục ngữ có câu: "Nhứt hổ nan địch quần hổ." Mình tuy không sợ chúng, nhưng vì hòm xiểng nhiều quá, muốn bảo vệ không mất mát, cũng phải tốn công lắm mới được.
Thừa Chí gật đầu nói:
- Anh nói rất phải, tối nay chúng trú ngụ ở Thạch Giao, dù đi thêm vài chục dặm còn hơn.
Khi tới trấn Thạch Giao vào trọ tại một khách sạn lớn. Thừa Chí cho khuân hết cả mười chiếc hòm sắt vào trong phòng mình. Chàng cùng chàng Câm ở chung một phòng. Các hòm sắt vừa khuân vào trong phòng xong bỗng thấy hai tên đại hán ở ngoài đi vào đưa mắt nhìn Thừa Chí, rồi mới hỏi phổ ky thuê phòng. Vài phút sau, lại có hai tên đại hán khác tới thuê phòng. Thấy vậy, Thừa Chí đã nghĩ cách đối phó liền.
Cơm tối xong, ai nấy trở về phòng nghỉ ngơi. Ngủ đến nửa đêm nghe thấy trên mái nhà có tiếng động, biết là bọn giặc đã tới.
Thừa Chí ngồi dậy thắp nến trong phòng sáng choang rồi mở hòm sắt, lấy một gói lớn, trong có trân châu, bảo thạch, phỉ thúy, mã não,...
Dưới ánh sáng của cây nến, các bảo vật tỏa chiếu hào quang ngũ sắc. Chàng vừa lau chùi vừa ngắm nghía. Bỗng nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng động nho nhỏ, chàng liếc mắt nhìn, thấy khe cửa có rất nhiều con mắt đen ngó vào.
Lúc này, Hồng Thắng Hải đã nghe thấy tiếng động, không yên tâm liền sang phòng Thừa Chí xem xét, đi gần tới nơi, mười mấy tên thám tử của bọn giặc đều ẩn khuất ngay. Hồng Thắng Hải mỉm cười, khẽ gõ cửa phòng Thừa Chí mấy cái.
Thừa Chí nói:
- Cứ vào.
Hồng Thắng Hải khẽ đẩy, cánh cửa mở liền thì ra cửa không cài then. Y bước vào trong phòng thấy trong phòng châu báu hào quang chói lọi, lóa cả mắt. Ngẩn người giây lát, y mới đến cạnh bàn, thấy trên bàn những hạt trân châu to tướng bằng đầu ngón tay, những cành san hô dài hơn thước. Những bảo thạch, và bích ngọc đều là những thứ vô giá. Hồng Thắng Hải lúc đầu tưởng trong mười cái hòm sắt chứa đầy bạc nên mới khiến nhiều bọn giặc lớn để ý đến như vậy, chớ y có ngờ đâu trong đó lại chứa đầy những châu báu vô giá như thế. Y bước chân vào giang hồ đã lâu năm, kiến thức cũng khá nhiều rồi nhưng y chưa hề trong thấy những bảo vật quý giá như thế này bao giờ, không hiểu Viên công lấy ở đâu ra, mà lại có nhiều đến như vậy, đi tới cạnh Thừa Chí, khẽ hỏi:
- Viên tướng công để tôi cất những vật báu này đi nhé! Bên ngoài có người dòm ngó đấy.
Thừa Chí cũng khẽ nói:
- Tôi lấy ra đây cốt để cho chúng trông thấy đấy.
Vừa nói chàng vừa tới cạnh bàn cầm một chuỗi trân châu lên và nói:
- Anh thử đoán xem vào trong kinh, chuỗi trân châu này có thể bán được bao nhiêu tiền?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Vấn đề này tiểu nhân không được rõ lắm.
Thừa Chí lại nói:
- Tôi định bán mỗi hạt ít nhứt là ba trăm lạng. Chuỗi này có tất cả hai mươi bốn hạt.
Hồng Thắng Hải nói:
- Nếu vậy có thể bán được một vạn lạng đấy.
Thừa Chí hỏi:
- Tại sao anh lại bảo bán được một vạn lạng?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Thưa Tướng công, vì chuỗi hạt này to và tròn đều cả như thế này rất hiếm, lại thêm màu sắc đẹp đẽ. Thật khó mà kiếm được một chuỗi khác giống như thế. Cho nên tiểu nhân mới nói có thể bán được một vạn lạng như vậy.
Bọn giặc đứng dòm ngó bên ngoài đều nghe hết lời nói của hai người. Lòng tham xúi dục, tên nào tên nấy chỉ muốn nhảy ngay có lịnh, món hàng này có nhiều sơn trại muốn nhúng tay vào, vậy phải chờ tất cả thủ lãnh bàn định xong, mới ra tay hành động, để khỏi mất hòa khí với nhau.
Chúng dòm ngó một lúc, rồi tên nào tên nấy trở về báo cáo cho thủ lãnh mình hay.
Biết chúng đã đi rồi, Thừa Chí cả cười một hồi, xua tay bảo Hồng Thắng Hải về phòng ngủ. Chàng vẫn để nguyên những châu báu trên bàn mà đi ngủ.
Lại đi được hai ngày đường nữa, đã đến địa giới Tế Nam phủ, bọn giặc theo dõi Thừa Chí càng ngày càng nhiều. Cậy có Thừa Chí võ nghệ siêu quần và mình cũng không đến nỗi kém người, lúc đầu Hồng Thắng Hải ung dung không sợ hãi gì cả, nhưng bây giờ càng ngày càng thấy bọn giặc theo dõi nhiều và không thấy chúng ra tay, không biết chúng định âm mưu gì, trong lòng bắt đầu hoảng sợ. Y liền đề nghị với Thừa Chí đi đường bể thì an toàn hơn và cam đoan không có chuyện gì xảy ra.
Thừa Chí cười nói:
- Tôi định dùng món châu báu này để kết nạp các anh hùng hào kiệt, dù có mất hết cũng không sao. Tiền tài là thân ngoại chi vật. Chúng ta cần phải để nhân nghĩa lên trên hết.
Hồng Thắng Hải thấy chàng nói như vậy không tiện khuyên nữa. Ngày hôm đó đi tới thành Vũ, vào khách sạn nghỉ ngơi, Thanh Thanh tánh ưa hoạt động, một mình vào trong thành du lâm. Thừa Chí nghĩ thầm: "Có không biết bao nhiêu đôi mắt dòm ngó những châu báu này, ta chỉ sơ xuất một tí là xảy ra chuyện ngay."
Vì vậy, chàng với chàng Câm hai người không dám rời khỏi khách sạn. Một giờ sau, Thanh Thanh hớn hở trở về, mỗi tay cầm một cái lồng tre nhỏ, mỗi lồng có một con dế, kêu "chích, chích" nhức cả tai. Nàng biếu một con cho Thừa Chí và nói:
- Mỗi con em mua hai mươi tiền đấy. Anh treo ở trong màn, đêm đến nó kêu nghe thú lắm.
Thừa Chí vui cười đỡ lấy rồi chàng bỗng vừa cười vừa hỏi:
- Ở ngoài phố chú có gặp thấy ai không?
Thanh Thanh ngạc nhiên nói:
- Không, anh hỏi gặp ai cơ chứ?
Thừa Chí nói:
- Lưng chú đã bị người ta đánh dấu vết, chú có biết không?
Thanh Thanh vội chạy về phòng mình cởi áo ngoài ra xem, quả nhiên trông thấy phía sau lưng có một cái vòng viết bằng phấn trắng. Nàng đoán chắc lúc mải mua dế, bị người ta vẽ mà không biết. Vừa xấu hổ, vừa tức giận, nàng nói vói Thừa Chí rằng:
- Anh đi bắt tên đó về cho em đánh nó một trận.
Thừa Chí cười nói:
- Tôi biết đi đâu tìm bây giờ?
Thanh Thanh nghĩ giây lát rồi bỗng nói:
- Bây giờ anh đi dạo phố, giả bộ khờ khạo không để ý...
Thừa Chí vội cướp lời nói rằng:
- Bắt chước hình dạng của chú hồi nãy sẽ có người đến vẽ vào lưng tôi phải không?
Thanh Thanh cười nói:
- Phải đấy, anh đi mau đi.
Không thể thoái thác được, Thừa Chí dặn nàng và Hồng Thắng Hải cẩn thận trông coi những hòm xiểng rồi ung dung ra đi.
Thành Vũ là một thành phố náo nhiệt, kẻ tới người đi lại vốn chen chúc. Vừa ra khỏi cửa phòng đã có một người rón rén theo sau. Thừa Chí nghĩ thầm: "Giỏi thật, chúng bay ngày càng táo gan, không những theo dõi tài báu của chúng ta và con theo dõi từng người một. Nhưng chúng viết cái vòng trắng vào lưng chú Thanh để làm gì? Chúng nó làm như vậy có khác gì bảo cho chúng ta đề phòng trước?"
Nghĩ ngợi giây phút, chàng đã hiểu dụng ý của chúng rồi, liền nghĩ: "Có lẽ là một nhóm nào muốn độc chiếm nên chúng đánh dấu vào người, vào xe của chúng ta để cho những nhóm khác biết để đừng có nhúng tay vào."
Nghĩ đoạn, chàng lẳng lặng len vào chỗ đám đông người. Quả nhiên người nọ cũng theo dõi chàng từng bước một, đến trước cửa một nhà thợ sắt, chàng giả vờ đứng xem người ta đúc dao, chờ người nọ đi gần tới nơi, đột nhiên quay lại giơ tay ra điểm vào yếu huyệt của người nọ. Người đó bị tê liệt hẳn nửa mình, rồi bị Thừa Chí khẽ kéo đi. Tới một ngõ hẻm vắng, Thừa Chí liền hỏi:
- Anh là thủ hạ của ai?
Người đó đau đến nỗi đầu toát đầy mồ hôi, bị Thừa Chí dùng sức bóp mạnh một cái, lại càng chịu không nổi, vội nói:
- Xin ông buông tay mau, đừng bóp gãy xương của cháu?
Thừa Chí cười nói:
- Anh không chịu nói, tôi sẽ bẻ gãy xương cổ anh ngay.
Người nọ vội nói:
- Cháu nói, cháu nói. Tên cháu là Hoàng Nhị Mao, thủ hạ của Sa trại chủ ở Ác Hổ Câu.
Thừa Chí hỏi:
- Anh muốn vẽ một cái vòng ở trên lưng tôi phải không? Anh vẽ như thế để làm gì?
Hoàng Nhị Mao nói:
- Sa trại chủ sai cháu vẽ như vậy. Còn vẽ để làm gì cháu không được rõ.
Thừa Chí hỏi:
- Sa trại chủ của anh hiện ở đâu?
Hoàng Nhị Mao nhìn ngược, nhìn xuôi nhưng vẫn không dám nói.
Thừa Chí lại bóp mạnh một cái, xuơng cổ tay người nọ kêu "lắc cắc." Y sợ Thừa Chí bóp gãy xương thật, vội nói:
- Sa trại chủ bảo cháu tối nay đều họp mặt ở chùa Tam Quang tại ngoại thành.
Thừa Chí nói:
- Hay lắm, anh đưa đường dẫn tôi đi.
Không dám ương ngạnh nữa, Hoàng Nhị Mao đành phải dẫn Thừa Chí tới chùa Tam Quang. Lúc ấy còn sớm, trong chùa không có bóng người nào.
Chùa này đổ nát, bỏ hoang từ lâu, không có Sư hay ông Từ nào trông coi cả.
Khám xét trước sau chùa một lần, Thừa Chí điểm thêm huyệt cho Hoàng Nhị Mao câm, rồi vứt vào dưới khánh thờ. Một lát sau, chàng nghe chân người ở xa đi tới, vội trốn vào đằng sau tượng Phật. Mấy chục người bước vào trong chùa, rồi ngồi quây vòng tròn giữa đại điện.
Một người đàn bà lên tiếng nói:
- Nghiêm lão tứ, Lão ngũ, dẫn bốn anh em đi canh gác xung quanh, và phái hai người lên trên nóc nhà nữa.
Vài phút sau trên mái nhà đã có tiếng chân người đi lại. Thừa Chí nghĩ thầm và cười thầm: "Dù các ngươi có khôn ngoan như thế nào cũng mặc, ta đã vào đây trước rồi."
Lại qua một lát sau, bên ngoài tiếp tục lại có người đi vào trong chùa. Chúng trò chuyện ồn ào vô cùng. Nghe chúng hàn huyên, Thừa Chí mới rõ tám Trại chủ của tám Sơn trại lớn tỉnh Sơn Đông đều có mặt tụ họp tại đây, nên chàng phải im hơi lặng tiếng, chớ không dám sơ ý như trước nữa.
Lại nghe người đàn bà nói:
- Chúng ta đã dò xét rõ lắm rồi. Món hàng này quả thật là những vật báu vô giá. Người áp tải là hai tên công tử bột khờ dại, và một tên bảo tiêu là Hồng Thắng Hải, người của phái Bột Hải, võ nghệ khá cao cường nhưng mãnh hổ địch sao nổi quần hổ. Nể y là anh em lục lâm cùng một đường lối với chúng ta, tới lúc ra tay, chúng ta tha cho y khỏi chết.
Một người khác nói:
- Về vấn đề cướp "tiêu" (hàng hày của báu) thì dễ như trở bàn tay, không phải phiền tới Sa trại chủ, anh em chúng tôi xin phụ trách hết. Nhưng còn vấn đề chia của thì chúng ta phải bàn định trước, để tránh khỏi có sự tranh chấp mà mất cả hòa khí của nhau đi!
Tên Sa trại chủ nói:
- Tiểu đệ mời quý vị tới đây họp là vì vấn đề này đây!
Một người giọng nói thô lỗ lên tiếng:
- Món hàng này, anh em chúng tôi thấy trước tiên. Tôi xin đề nghị: khi cướp được, chúng ta chia nó ra làm mười phần, Ác Hổ Câu chiếm hai phần. Chúng tôi Sát Bảo Cương chiếm hai phần, còn mỗi trại chiếm một phần.
Thừa Chí nghĩ: "Giỏi thật! Chưa chi chúng tới tụ họp tại đây để phân chia những vật báu của ta rồi!"
Lại nghe thấy tên khác nói:
- Tại sao các anh lại được hai phần? Theo ý tôi, chia làm tám phần công bằng hơn cả!
Sau đó, cả bọn cãi vã ồn ào mãi không ngớt. Lại có một tên giọng khàn khàn nói:
- Chia làm mười phần và tám phần cũng không công bằng. Trại Ác Hổ Câu có mấy nghìn anh em mà đoài hưởng ngang với Sát Bảo Cương chỉ có ba trăm người hay sao? Theo ý tôi thì nên chia làm chín phần. Ác Hổ Câu chiếm hai phần, còn bảy phần thì mỗi trại được một. Chúng ta bầu Sa trại chủ làm thủ lãnh đứng lên chia và phân phát cho các trại.
Đại đa số cường đạo tán thành ý kiến đó, nên một số ít không bằng lòng cũng phải nghe theo.
Tên Sa trại chủ nói:
- Nếu anh em đều tán thành như vậy, ngày mai chúng ta ra tay luôn. Và nơi hành động nhận hàng tôi định ở Trương Trang. Vậy ngày mai xin quý vị đưa hết đàn em tới đó!
Mọi người tán thành xong đều lần lượt ra khỏi căn chùa.
Bỏ mặc tên Hoàng Nhị Mao ở đó, Thừa Chí một mình trở về khách điếm, kể hết những chuyện đã qua cho Thanh Thanh nghe.
Thanh Thanh khẽ nói:
- Thanh thế của đạo tặc lớn lao như vậy thật là đánh không hết và giết không tận. Anh đã nghĩ cách gì đối phó chưa?
Thừa Chí đáp:
- Khi chúng tới, chúng ta hãy nhường nhịn trước, khi đã nhận ra tên nào là giặc rồi, ta liền ra tay thộp ngực tên đó. Rắn mất đầu, bọn lâu la của chúng phải chịu hàng ngay.
Thanh Thanh vỗ tay cười nói:
- Ý của anh rất hay.
Sáng ngày hôm sau, cơm nước xong, Thừa Chí ra lịnh lên đường. Suốt dọc đường, bọn giặc thám thính đi lại như thoi đưa. Chúng táo bạo ra mặt, không coi bọn Thừa Chí ra gì cả. Hồng Thắng Hải lo ngại nói:
- Viên tướng công, xét tình hình này chỉ trong ngày hôm nay thì chúng hạ thủ đấy.
Thừa Chí nói:
- Anh cứ việc trông nom xe cộ, đừng để cho lừa, ngựa hoảng sợ chạy tán loạn. Còn chống giặc đã có ba chúng tôi đối phó.
Hồng Thắng Hải vâng lời. Thừa Chí ra hiệu dặn chàng Câm, khi nào có lịnh của chàng mới ra tay hành động, chuyên phụ trách bắt người thôi. Chàng Câm gật đầu nhận lời.
Đi tới giờ thân, sắp tới Trương Trang, đằng trước có một khu rừng khá rậm rạp, cây cối um tùm. Bỗng nghe mấy tiếng "o... o..." của những cái tên bắn lên báo hiệu.
Vừa dứt, trong rừng rậm đã có mấy trăm tên đại hán ló ra, tên nào tên nấy đều đầu chít khăn xanh, mặc quần áo đen, tay cầm khí giới, lẳng lặng xông ra cản đường. Thấy vậy bọn phu xe liền cho ngừng xe lại, rồi ôm đầu chui vào gầm xe. Đó là luật của bọn đạo tặc, hễ bọn phu xe cứ nằm yên trong gầm xe là được thoát chết. Lại nghe mấy tiếng tùvà nổi lên, tiếng vó ngựa rồn rập, mấy chục tên tướng cướp cỡi ngựa ở trong rừng rậm phóng ra, cản phía sau xe của Thừa Chí. Chúng làm như vậy là phòng bọn Thừa Chí quay đầu chạy trốn.
Tối hôm trước tại chùa Tam Quang, tuy chưa nhận được mặt tên chúa cướp, lúc này Thừa Chí chú ý nhìn, thấy phía trước bảy người đi ngang hàng tới. Một người mặt trắng ngoài 30 tuổi, xông lên trước, tay không cầm khí giới, chỉ cầm một chiếc quạt phe phẩy, giọng thỏ thẻ nói:
- Xin chào Viên tướng công!
Nghe tiếng nói của người nọ, Thừa Chí biết ngay là Sa trại chủ của trại Ác Hổ Câu. Thấy y có thái độ ung dung, chân đi vững chắc, Thừa Chí nghĩ thầm: "Tên này có thể là kình địch đây? Không ngờ trong lục lâm lại có những nhân vật như thế này."
Nghĩ đoạn, chàng chắp tay chào và nói:
- Tôi không dám! Kính chào Sa trại chủ!
Tên Sa trại chủ giựt mình, nghĩ thầm: "Sao y lại biết tên họ mình nhỉ?"
Nghĩ xong, y nói:
- Viên tướng công đi đường chắc mệt nhọc lắm?
Nhìn sắc mặt của y, Thừa Chí nghĩ: "Suốt dọc đường, y cho người theo dõi chúng ta. Chúng biết tên họ của ta không lấy gì là lạ, nhưng ta gọi tên họ của y chắc y ngạc nhiên lắm. Đã thế ta cứ giả bộ đùa y chơi."
Nghĩ xong, chàng nói:
- Đi đường không lấy gì làm mệt nhọc cả. Chỉ bực mình một nỗi là hành lý của chúng tôi nặng nề quá!
Sa trại chủ cười nói:
- Viên tướng công lên Bắc Kinh dự thi đấy à?
Thừa Chí đáp:
- Không phải. Chúng tôi nhờ Trời cũng có ít tiền nhưng thiếu công danh. Nên gia phụ sai tiểu đệ đem ít tiền tài lên kinh để vận dụng một chút chức tước, có thế thôi.
Sa trại chủ cười nói:
- Các hạ ăn nói nhanh nhẩu lắm, chứ không có vẻ gì hủ lậu như các nho sĩ khác.
Thừa Chí cười nói:
- Tối hôm qua, có một người bạn nói với tôi rằng: Hôm nay có một vị họ Sa tức Sa trại chủ ở dọc đường chờ tôi và dặn tôi phải cẩn thận để ý. Nên từ sáng tới giờ, lúc đi đường tôi vừa chăm chú ngóng nhìn chỉ sợ lỡ cơ hội không được gặp gỡ. Ngờ đâu ngẫu nhiên chúng ta gặp nhau ở đây. Các hạ cũng ăn mặc nho sĩ như tôi, có phải cũng lên kinh đấy không. Nếu vậy, chúng ta cùng đi cho vui. Các hạ nghĩ sao?
Vừa buồn cười vừa tức thầm, bụng nghĩ chưa bao giờ lại gặp những tên mới ra đời mà lại quá ngây thơ như thế này, Sa trại chủ cười nói:
- Viên tướng công ở nhà hưởng phúc có hơn không? Hà tất phải đi đường mệt nhọc khổ sở như thế này làm gì. Tướng công nên biết trên giang hồ có nhiều sự hiểm ác lắm.
Thừa Chí nói:
- Lúc đệ ở nhà, nghe các cụ nói trên chốn giang hồ có những gái điếm lừa bịp. Ngờ đâu đi hàng nghìn dặm đường rồi mà lại chưa hề gặp thấy một tên bịp bợm nào cả. Đệ chắc các lời dạy bảo của các cụ đều sai lầm cả.
Bảy tên Trại chủ kia nghe Thừa Chí lải nhải nói những lời nửa điên nửa rồ, đều không nhịn được cứ đưa mắt ra hiệu thúc dục Sa trại chủ ra tay hành động. Sa trại chủ bỗng sa sầm nét mặt, rú lên một tiếng, xòe chiếc quạt ra. Trong quạt có vẻ một cái sọ người, mồm ngậm một con dao, trông rất rùng rợn. Thấy vậy, Thanh Thanh cũng phải hoảng sợ. Sa trại chủ khà khà cười một cách quái dị. Chưa dứt tiếng cười, y phẩy chiếc quạt, mấy trăm lâu la xông ra bao vây những xe cộ. Thừa Chí định nhảy ra tóm luôn tên Sa trại chủ. Bỗng trong rừng có tiếng còi thổi bằng lá tre, Sa trại chủ nghe tiếng đó, biến ngay sắc mặt, lại phẩy tay một cái, bọn lâu la ngừng ngay. Hai người cỡi ngựa ở trong phóng ra. Người đi trước là một ông cụ râu tóc bạc phơ, phía sau là một thiếu nữ, tay cầm mấy tàu lá tre.
Cả hai tiến tới giữa Sa trại chủ và Thừa Chí liền gò cương đứng lại. Sa trại chủ nói:
- Đây là địa giới của tỉnh Sơn Đông!
Ông cụ nọ đáp:
- Ai bảo không phải là đất của Sơn Đông.
Sa trại chủ nói:
- Năm xưa, chúng ta hội họp ở núi Thái Sơn, quyết định như thế nào nhỉ?
Ông cụ đáp:
- Bang Thanh Trúc chúng tôi, không được đến tỉnh Sơn Đông giết người cướp của. Bên các ông cũng không được sang địa giới Hà Bắc chúng tôi hành động.
Sa trại chủ nói:
- Đúng đấy, vậy không hiểu gió gì đã thổi Trình lão gia tới đây?
Ông cụ đáp:
- Nghe nói có một mớ hàng sắp tới tỉnh Hà Bắc. Trong đó có nhiều cái khá quý giá cho nên chúng tôi mới đến xem qua trước.
Sa trại chủ biến sắc mặt nói:
- Chờ khi nào hàng đó tới địa giới của Trình lão gia thì lão gia có muốn xem cũng chẳng muộn kia mà!
Ông cụ khà khà cười nói:
- Sao lại không muộn? Có lẽ lúc bấy giờ hàng đã lọt vào tay chú em, làm gì đến lượt tôi xem được nữa?
Thừa Chí, Thanh Thanh, và Hồng Thắng Hải, ba người đưa mắt nhìn nhau và nghĩ thầm: "Thì ra đạo tặc ở Hà Bắc cũng được tin rồi, muốn xí phần đấy! Để xem chúng đối phó với nhau ra sao?"
Bọn giặc Sơn Đông thì thầm nhỏ to có vẻ phản đối, đa số trách ông cụ vô lễ. Nghe chúng nói Trình Thanh Trúc, Thừa Chí nghĩ có lẽ đó là tên của ông cụ.
Ông cụ lớn tiếng nói:
- Các người cãi vã bàn tán lộn xộn cái gì? Tai tôi nghễnh ngãng không nghe rõ đâu.
Sa trại chủ phẩy quạt một cái, bọn giặc im mồm ngay, Sa trại chủ nói:
- Đã có hẹn ước rồi, tại sao Trình lão gia không giữ lời hứa? Nếu vô tín vô nghĩa như vậy, có phải bị anh hùng hảo hán ở trên giang hồ cười cho không?
Ông cụ không thèm trả lời chỉ quay qua hỏi nàng thiếu nữ kia rằng:
- A Chín, ở nhà ta nói với cháu những gì?
Thiếu nữ nọ đáp:
- Ông nói chúng ta sang tỉnh Sơn Đông xem vật báu đi!
Thanh Thanh thấy giọng nàng nói có duyên, liền đưa mắt ngắm nhìn. Nàng quả thật nhan sắc tuyệt vời.
Trình Thanh Trúc cười nói:
- Thế ông có nói chúng ta thò tay vào lấy đồ không?
A Chín đáp:
- Không ạ. Mà bây giờ cũng không nói lấy cơ mà.
Trình Thanh Trúc quay lại nói với Sa trại chủ rằng:
- Chú em đã nghe thấy chưa? Có bao giờ tôi nói sang bên Sơn Đông cướp bóc đâu?
Sa trại chủ đổi ngay nét mặt, mỉm cười nói:
- Phải. Thế mới là nghĩa khí chớ! Trình lão gia xa xôi tới đây, lát nữa cũng sẽ được một phần.
Trình Thanh Trúc không trả lời, quay lại hỏi A Chín:
- A Chín, chúng ta ở nhà còn nói thêm gì nữa không?
A Chín đáp:
- Ông nói nhiều vật báu lắm, đừng để cho người khác lấy đi mất.
Trình Thanh Trúc hỏi:
- Nếu người ta cứ lấy thì sao?
A Chín đáp:
- Lúc ấy, ông đành phải ra tay bảo vệ.
Trình Thanh Trúc khà khà cười nói:
- Cháu tuy nhỏ tuổi, nhưng trí nhớ cũng khá đấy.
Nói đoạn, ông cụ quay lại nói với Sa trại chủ rằng:
- Bây giờ chú em đã rõ rồi chớ! Chúng tôi không được cướp bóc ở tỉnh Sơn Đông, điều đó không sai chút nào. Nhưng tôi phải bảo vệ họ. Điều này trong hẹn ước, không có nói đến và cũng không cấm phải không?
Sa trại chủ mặt xám lại trả lời:
- Ông cấm chúng tôi cướp, để chờ món hàng đó tới địa giới Hà Bắc là ông đỡ nhẹ hết có phải thế không?
Trình Thanh Trúc nói:
- Chính thế! Như vậy, tôi không làm hư hỏng nghĩa khí của giang hồ, không trái lời hứa hẹn ở trên núi Thái Sơn.
Thấy y giở lý sự cùng ra như vậy, nói trái mà là y muốn đoạt hết những vật báu đó, bọn đạo tặc khi ông cháu y, một ông già và một con nít, đổ xô lên múa đao định phân thây đối phương làm muôn mảnh.
A Chín để hai tàu lá tre vào mồm thổi. Chưa dứt tiếng còi hiệu đó, trong rừng rậm đã có mấy trăm tên đại hán xông ra, đều mặt y phục đồng màu, và trên đầu cắm cành tre xanh. Sa trại chủ giựt mình nghĩ thầm: "Không dè lão ta lại bố trí sẵn sàng như vậy! Nhưng bọn chúng đến đông đúc như vậy, tại sao những lâu la canh phòng của bên mình lại không hay biết gì cả?"
Nghĩ đoạn, y phẩy chiếc quạt một cái, nhân mã của tám trại bên phe Sơn Đông tiến lại bày thành trận thế.
Xem tình hình này thì thể nào cũng có một trận ác chiến xảy ra. Người của phe Sơn Đông nhiều hơn, còn phe Thanh Trúc tuy ít hơn nhưng người nào người nấy tinh nhuệ hơn. Nếu đánh nhau, chưa biết mèo nào cắn miễu nào!
Thừa Chí kéo tay Thanh Thanh, hai người nhìn nhau mỉm cười, Thanh Thanh khẽ cười rồi nói:
- Chưa cướp được đồ đạc của người mà chúng đã đánh lẫn nhau trước rồi. Thật buồn cười đến vỡ bụng được!
Thừa Chí nói:
- Không ngờ chúng ta lại là: "Ngư Ông đắc lợi tiếu hi hi."
Lúc ấy bọn giặc Sơn Đông sửa soạn đánh ồ ạt. Nhưng chúng vẫn dành riêng mấy chục người canh gác đội xe cộ của Thừa Chí để cho Thừa Chí không có kịp bôn tẩu.
Thừa Chí vẫy tay gọi Hồng Thắng Hải lại gần, rồi hỏi:
- Phe bang Thanh Trúc là đạo tặc ở nơi nào thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Bang Thanh Trúc đứng đầu tỉnh Hà Bắc và lão Trình Thanh Trúc này là thủ lãnh. Y tuy gầy còm già nua như vậy nhưng võ nghệ lợi hại lắm.
Thanh Thanh hỏi:
- Còn người con gái kia có phải là cháu gái của y không?
Hồng Thắng Hải nói:
- Tiểu nhân nghe nói lão già Trình Thanh Trúc này tánh lạ lùng lắm, suốt đời không lấy vợ. Người con gái này có lẽ là cháu nuôi của y chớ không phải là cháu ruột đâu.
Thanh Thanh gật đầu không nói gì cả, thấy A Chín ung dung, không vẻ gì sợ hãi, trong lòng nghĩ thầm: "Có lẽ nàng biết võ cũng nên. Hãy để chúng đánh nhau, xem bên nào thắng bại?"
Lúc ấy, tiếng còi lá tre của bang Thanh Trúc nổi lên tứ phía. Mấy trăm đại hán chia thành bốn đội. Trình Thanh Trúc và A Chín quay ngựa về bên trận mình, đứng phía trước bốn đội lâu la kia, trong tay vẫn cầm khí giới.
Đang lúc hai bên sắp sửa khai chiến, bỗng nghe thấy đằng phương Nam có tiếng nhạc ngựa vọng đến, tiếp theo đó ba người cỡi ngựa phi tới. Người đi trước lớn tiếng kêu gọi:
- Hai bên cùng là bạn thân cả. Xin nể mặt đệ, hãy ngừng tay lại.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Sao bỗng dưng lại có một tay giải hòa tới thế này?"
Ba người cỡi ngựa vừa phi tới nơi. Người cầm đầu là một thân hào, ngoài 50 tuổi, mặc áo bào gấm hoa, tay cầm một ống điếu lên. Theo sau y, một người cao và một người lùn đều mặc đồ vải.
Phi ngựa xen vào giữa hai đội nhân mã, thân hào nọ giơ ống điếu lên, lớn tiếng cưòi nói:
- Cùng là anh em nhà cả, có chuyện gì dùng lời lẽ giải quyết, hà tất quý vị phải dùng đến đao thương thế này? Các vị không sợ bạn hữu trên giang hồ cười cho ư?
Sa trại chủ nói:
- Chữ trang chủ làm ơn phê bình hộ, xem ai phải ai quấy.
Y liền đem chuyện bang Thanh Trúc vượt biên giới cướp bóc kể sơ sơ cho tên họ Chữ nghe. Trình Thanh Trúc cứ cười nhạt, không thèm nói nửa lời.
Hồng Thắng Hải nói với Thừa Chí rằng:
- Viên tướng công, Sa trại chủ kia tên là Sa Thiên Quãng biệt hiệu là Âm Dương Phiến với Chữ Hồng Liễu, Chữ trang chủ đây là nhị bá ở tỉnh Sơn Đông này.
Thanh Thanh nói:
- Ồ! Hai tên hồi nãy anh nói tức là hai tên này đấy.
Thừa Chí nói:
- Tại sao y là Trang chủ?
Hồng Thắng Hải nói:
- Sa Thiêng Quãng khai sơn lập trại, lăn lộn trong chốn lục lâm. Còn Chữ Hồng Liễu thì yên phận làm viên ngoại xây một tòa sơn trang, xung quanh trồng hơn nghìn cây liễu tự đặt là Thiên Liễu Trang. Nhưng sự thật thì y là độc hành đại đạo. Thường thường một mình đi kiếm ăn ở các tỉnh xa, nhiều lắm y chỉ đem theo hai bên tên phò tá là cùng.
Thanh Thanh nghĩ: "Hành động của y cũng giống như các ông phái Thạch Lương của ta."
Chữ Hồng Liễu lớn tiếng nói:
- Trình đại ca, theo đúng lý thì việc này đại ca không phải. Năm nọ, quần hùng đại hội ở trên Thái Sơn, đệ cũng hân hạnh được dự. Tất cả anh em có quyết định này. Không ai được vượt qua biên giới khác làm ăn!
Trình Thanh Trúc nói:
- Bây giờ chúng tôi đến đây là làm phúc bảo vệ cho họ, chớ có phải đến cướp bóc đâu, tôi thấy chợ chưa họp mà cái ống điếu kia của bạn đã đến rồi.
Chữ Hồng Liễu cả cười, chỉ hai đại hán đứng phía sau nói:
- Hai vị này là Hoài Âm song kiệt Ngưu Hóa Thành và Trương Hưng. Không quản ngại đường sá xa xôi, hai vị đó đã tới sơn trang của tôi, nói có một món tài hỷ đem biếu tôi. Lúc này, người phát phì, tôi lười biếng không định đi. Nhưng hai vị đó đã có nhã ý như vậy, tôi không tiện khước từ, đành phải gượn đi tới đây xem sao. Ngờ đâu lại gặp đủ mặt chư anh hùng ở đây, thật là náo nhiệt vô cùng! Hà, hà!
Thừa Chí và Thanh Thanh đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghĩ thầm: "Hay thật! Lại có thêm ba con cú dự vào!"
Sa Thiên Quãng nghĩ: "Tên họ Chữ này võ nghệ cao cường lắm. Đằng nào cũng phải chia cho y một phần rồi, thà rằng bắt tay để đối địch với Trình Thanh Trúc còn hơn."
Nghĩ đoạn, y liền nói:
- Chữ trang chủ là người trong tỉnh Sơn Đông, lẽ tất nhiên phải được chia một phần rồi. Điều đó anh em chúng tôi không dám e ngại nhưng còn vấn đề người khác tỉnh hưởng lợi, phen này chúng ta nhường nhịn, thì sau này chúng ta hết đường kiếm ăn. Có phải thế không?
Chữ Hồng Liễu nói:
- Chẳng hay Trình đại ca nghĩ sao?
Trình Thanh Trúc đáp:
- Câu chuyện ngày hôm nay không thể dàn xếp ổn thỏa được, chúng ta chỉ có cách giải quyết bằng đao thương, phải trái theo thua được mà định đoạt thôi!
Chữ Hồng Liễu quay lại nói:
- Sa Lão đệ nghĩ sao?
Sa Thiên Quãng đáp:
- Các hảo hán của phái Sơn Đông chúng tôi bao giờ chịu để cho người ngoài đến tận nơi mà bắt nạt như vậy.
Lời nói đó ý kéo Chữ Hồng Liễu nhập vào bọn mình. Trình Thanh Trúc vươn vai, ngáp dài một cái, rồi nói:
- Chúng ta một chọi một hay đánh ồ ạt cả bọn? Xin Sa trại chủ cho biết ý kiến, muốn thế nào ta cũng theo hết.
Sa Thiên Quãng bỗng dương chiếc quạt Âm Dương ra, miệng cười khì khì, rồi hỏi Chữ Hồng Liễu rằng:
- Chữ đại ca nghĩ sao?
Từ khi được Hoài Âm song kiệt cho hay tin này, Chữ Hồng Liễu vốn định nuốt hế số châu báu này nhưng đến chậm qúa, nên bây giờ chỉ mong được chia một phần lớn, có thế thôi. Chớ y cũng biết bang Thanh Trúc có nhiều người tài giỏi, và Bang chủ Trình Thanh Trúc nổi tiếng lâu năm, tất nhiên không hèn kém. Nên y không muốn làm mích lòng, liền nói:
- Thế này chỉ có cách là tỉ thí võ nghệ mới xong. Đánh ồ ạt cả bọn chết chóc và bị thương nhiều lắm. Hà tất phải tổn thương hòa khí như vậy? Đệ có một cách rất công bằng, chẳng hay quý vị có cho phát biểu không?
Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quãng đều nói:
- Mời Chữ trang chủ cứ việc phát biểu ý kiến.
Chữ Hồng Liễu giơ ống điếu chỉ mười cái xe lớn của Thừa Chí nói:
- Chỗ kia có mười cái hòm sắt, mỗi bên chúng ta phái ra mười người, tất cả đấu mười trận, chỉ đánh đến thắng bại thì thôi, chớ đừng có đả thương lẫn nhau. Ai thắng thì người đó được lấy một hòm sắt, như vậy rất công bình, đằng nào chúng ta cũng nhàn rỗi, vô sự coi như luyện tập võ để nghiên cứu cái hay cái dở của nhau. Ai thắng sẽ được chỗ châu báu đó, coi như được giải thưởng vậy, còn người thua cũng không mất mát gì, như vậy có hơn không? Chẳng hay hai vị nghĩ sao?
Nghe thấy ý kiến của y rất hay, Trình Thanh Trúc khen ngợi và tán thành trước. Với sự đánh ồ ạt cả bọn, Sa trại chủ cũng không dám tự tin là sẽ thắng, đồng thời y nghĩ thầm: "Ta để cho mỗi trại phái một đại biểu ra tỷ thí, nếu thắng là số may của họ. Vả lại, phần đó đã định chia cho họ rồi. Nếu họ thua, cũng không liên can gì đến ta, còn ta và Đàm lão nhị xuất trận, tất không thể nào thua được, như vậy là ta cướp được hai phần không?"
Nghĩ đoạn, y nhận lời.
Hai bên ra lệnh thâu quân để thương lượng lựa chọn người đại diện tỷ thí. Chữ Hồng Liễu sai người lấy đất vẽ dấu hiệu "Giáp - ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quý" vào mười cái hòm. Thừa Chí và Thanh Thanh để bọn chúng tha hồ giở đủ các trò, đứng yên xem xét. Thấy hai người không có vẻ gì sợ sệt cả, Trình Thanh Trúc có chút ngạc nhiên cứ đưa mắt liếc trộm luôn luôn. Tất cả đạo tặc đứng quây thành vòng tròn. Chữ Đồng Liễu đứng giữa làm giám khảo. Trận đấu thứ nhất do bên Sơn Đông phái người ra trận đấu trước. Trận đấu quyền, người của hai bên đều vạm vỡ lực lưỡng tỏ ra có sức mạnh vô cùng, chỉ nghe thấy bình bình, bộp bộp, cả hai cùng chịu được đòn.
Sau cùng người của phe Hà Bắc không cẩn thận bị đối phương móc ngã, định đứng dậy tiếp tục đánh nữa. Chữ Hồng Liễu liền xua tay và cho viết chữ "Lỗ" (Sơn Đông) ở bên cạnh chữ "Giáp" tên hòm sắt. Trận thứ nhất phe Sơn Đông thắng, bọn lâu la bên phe này hoan hô khen ngợi, tiếng vang dội như sấm.
Trận thứ hai phe Hà Bắc phái người ra trước, Sa Thiên Quãng biết tên võ sĩ này là hảo thủ của Thiết Sa chưởng nhưng Đàm phó trại chủ của bên mình còn giỏi hơn một bực, không bỏ lỡ dịp tốt, liền phái Đàm phó trại chủ ra đấu. Chưởng pháp của hai đấu thủ hơn kém nhau rất ít nhưng công lực của Đàm phó trại chủ điêu luyện hơn.
Sau vài chục hiệp, Đàm phó trại chủ đánh một chưởng vào cánh tay đối phương. Người nọ bại cả một bên tay, thế là phe Sơn Đông lại thắng thêm một trận.
Bọn đạo tặc bên phe Sơn Đông đang đắc chí. Ngờ đâu đến trận thứ ba, thứ tư, thứ năm, và thứ sáu, phe Hà Bắc đều thắng cả. Đến trận thứ bảy là trận đấu bằng võ khí. Trại chủ Sát Bát Bảo Cương cầm một thanh Cửu Hoàn đao ra trận, oai phong lẫm liệt, quả nhiên nhứt chiến thành công, và còn chém đứt cánh tay của đối phương.
Chữ Hồng Liễu nghĩ thầm: "Bây giờ chỉ còn ba hòm sắt, ta mà không ra tay, bị hai phe chia hết có phải là công dã tràng xe cát bể Đông không? Bây giờ đến trận thứ tám do bang Thanh Trúc phái người ra trước, bất cứ là nhân vật nào, ta cũng quyết ý đại diện phe Sơn Đông để tỷ thí. Hãy lấy được một chiếc hòm sắt đã."
Nghĩ đoạn, y tằng hắng một tiếng rồi nói với Sa trại chủ rằng:
- Sa lão đệ, đấu thủ của đối phương càng ra càng lợi hại, để trận này tôi xin tiếp tay.
Sa trại chủ biết ý của y, liền đáp:
- Chúng tôi cần Chữ trang chủ lấy sĩ diện cho phe Sơn Đông.
Thấy đối phương có một người bước ra, Chữ Hồng Liễu ngẩn người, vì đối thủ là người con gái ít tuổi "A Chín." Nàng mới độ 15, 16 tuổi, tay không khí giới, chỉ cầm một que trúc nho nhỏ.
Chữ Hồng Liễu nghĩ thầm: "Ta là đại hào kiệt trong võ lâm, khi nào chịu hạ mình đi đấu với một bé nhỏ xíu thế kia!"
Y đã bước được mấy bước rồi sực nghĩ như trên, liền lùi ngược lại, nói với Sa trại chủ rằng:
- Sa tiểu đệ hãy phái người khác ra đấu trận này, tôi xin dự trận sau vậy.
Sa trại chủ biết y không muốn đấu với phụ nữ, liền lớn tiếng hỏi:
- Trong anh em có chú nào thích thú thì ra tiếp cô nhỏ này, dợt vài hiệp.
Trong bọn có một người nhảy ra, mình cao vai rộng, da trắng bạch, tay cầm đôi bút phán quan. Người này là Trại chủ Hoàng Thạch Ba họ Tần tên là Đống. Người này võ nghệ tinh thông, tánh tình phong lưu, thấy đối phương là cô gái tuyệt luân, nàng tuy còn nhỏ tuổi nhưng trông xinh xắn và thêm vẻ đài các cao quý. Tần Đống đã ham mê từ lâu, nghe Sa Thiên Quãng gọi, liền nhảy ngay ra, vỗ ngực xin dự cuộc đấu.
Sa trại chủ mỉm cười nói:
- Tất cả anh em chúng ta, chỉ có chú mới là người xứng đôi, hợp lứa.
Tần Đống cố ý dương oai, nhảy lên thật cao và nhẹ nhàng trầm mình xuống trước A Chín. Y định khoe khoang khinh công trước, rồi nói vài câu khách sáo, để lấy lòng cô bé. Ngờ đâu, y vừa chạm đất đã thấy một bóng xanh phi tới. Que trúc bên tay phải của A Chín đã đâm tới. Thế võ này không những nhanh nhẹn vô cùng, ngoài ra lại còn nhằm đúng yếu huyệt trước ngực y mà đâm. Tần Đống là người sử dụng bút Phán Quan, tất nhiên rất thạo các yếu huyệt, thấy vậy y giựt mình kinh hãi, giơ bút trái ra đỡ, lại thấy ngay que trúc bên trái đối phương đâm tới. Cứ liên tiếp như vậy, tránh hết thế này, lại đỡ thế khác, Tần Đống toát mồ hôi lạnh và cuống quít lên. Bọn giặc phe Sơn Đông thấy A Chín tuổi nhỏ như vậy mà võ công lại cao cường đến thế đều kinh ngạc. Thừa Chí và Thanh Thanh cùng lấy làm lạ đưa mắt nhìn nhau.
Lúc ấy, A Chín và Tần Đống đấu đã được mấy chục hiệp rồi. Tần Đống nghĩ thầm: "Nếu ta hạ không nổi con bé này thì còn đứng vững sao nổi ở đất Sơn Đông này."
Càng nghĩ y càng nóng ruột, đôi bút phán quan càng chặt chẽ hơn trước. Đột nhiên A Chín chống que trúc bên tay trái xuống đất, nhảy lên trên cao, rồi nhân lúc rơi trở xuống, múa trúc bên phải đánh xuống. Thế đầu không trúng, nàng lại chống que trúc bên trái đâm xuống. Phải biết thế võ này của nàng là tuyệt kỹ của Trình Thanh Trúc. Không biết dùng thế gì để chế ngự, Tần Đống giật lùi luôn luôn bỗng sơ ý bị A Chín điểm luôn một que vào yếu huyệt trên vai, cánh tay trái bị tê liệt, bút phán quan rơi xuống, mặt đỏ bừng lùi ngay về bên phe mình. A Chín đang định rút lui, Chữ Hồng Liễu rảo bước xông ra, kêu gọi:
- Thật là thầy nào trò nấy, võ nghệ của cô nương thần diệu vô cùng, nếu chưa thấm mệt, xin cô chỉ giáo cho vài miếng có được không?
A Chín cười nói:
- Vừa rồi chú kia chóng thua như thế làm cháu mất hứng, nếu bác vui lòng chỉ giáo thì còn gì hân hạnh cho cháu hơn nữa, chẳng hay Chữ bá bá dùng khí giới gì?
Chữ Hồng Liễu cười nói:
- Người lớn đùa với trẻ con, việc gì phải dùng đến võ khí, ta chỉ tay không thôi.
Thì ra Chữ Hồng Liễu đứng cạnh quan sát thấy A Chín võ nghệ cao cường như vậy cũng phải hoảng sợ thầm, bụng nghĩ: "Trận này con nhỏ đã lợi hại như thế, chắc hẳn trận sau đối thủ sẽ lợi hại hơn, nếu không cản con nhỏ này lại đánh một trận, để được một chiếc hòm sắt hãy hay."
Các người bên bang Thanh Trúc nhận thấy, nếu A Chín đánh luôn hai trận thì mệt nhọc quá, nên đã có ba người nhảy ra tiếp tay, nhưng A Chín tuổi trẻ háo thắng vội lên tiếng nói:
- Tôi đã nhận lời Sư bá rồi.
Ba người nọ đành phải rút lui.
Chữ Hồng Liễu từ từ đi đến giữa đấu trường, vừa mới vận hơi, bộ mặt trắng trẻo đã biến thành màu đỏ như chu sa. Trình Thanh Trúc vẫy tay gọi A Chín lại ghé tai dặn mấy câu, A Chín gật đầu nhận lời. Đại khái Trình Thanh Trúc biết đối thủ là kình địch, cho nên mới dặn nàng phải cẩn thận. A Chín quay lại đấu trường, khom lưng cúi chào, tay múa hai que trúc bảo vệ toàn thân nhưng không tấn công.
Chữ Hồng Liễu đi từ từ từng bước một tới gần, bỗng đánh một chưởng ra tấn công thẳng vào lưng nàng. A Chín chống hai que trúc bỗng nhảy tránh xa, rồi đánh trái lại một que, que tay phải vừa đánh ra, que tay trái lại đánh tiếp theo luôn, tấn công như vũ bão. Thấy nàng đâm trúng một que vào bả vai đối thủ, anh em bang Thanh Trúc đều vỗ tay hoan hô khen ngợi. Ngờ đâu Chữ Hồng Liễu không hề hấn gì, mặt càng đỏ thêm, đỏ suốt tới cổ, vẫn cứ bước một tấn công tới. Thân pháp của A Chín rất nhẹ nhàng, phi đi bay lại, hễ có cơ hội là lại tấn công luôn một hồi. Chữ Hồng Liễu to béo, vạm vỡ chỉ bảo vệ yếu huyệt, bỏ mặc tứ chi bả vai, tha hồ để nàng tấn công.
Thừa Chí đứng cạnh xem, khẽ nói với Thanh Thanh rằng:
- Người này lớn tuổi như thế mà hẹp lượng hơn cô bé. Chú để ý xem, y sắp sửa hạ độc thủ đấy.
Thanh Thanh vội nói:
- Em đi cứu nàng nhé?
Thừa Chí cười nói:
- Hai bên đều là kẻ địch định cướp tài vật của chúng ta, cứu làm gì?
Thanh Thanh nói:
- Cô bé này kháu khỉnh, có duyên lắm, hãy cứu nàng thoát nạn trước đã. Anh ra tay đi.
Thừa Chí cười gật đầu. Lúc ấy trong đấu trường hai người càng đánh càng kịch liệt. Đầu của Chữ Hồng Liễu đỏ hây, hầu như sắp mất máu ra. Một lát sau, tay của y đã bắt đầu đỏ dần.
Thừa Chí nói:
- Khi nào bàn tay y cũng đỏ là cô bé kia bị tai ách liền.
Nói xong, chàng cỡi lên yên ngựa, trong lòng đã dự tính phương pháp cứu A Chín rồi.
Lúc đó, người của Chữ Hồng Liễu lại bị đánh trúng mấy que trúc nhưng y vẫn trầm lặng, từ từ phát chưởng ra, chưởng nào cũng thâm độc. Càng đánh, A Chín càng thấy kém thế dần, hơi thở hồng hộc, thân pháp kém nhanh nhẹn.
Trình Thanh Trúc vội kêu gọi:
- A Chín, con rút lui đi. Bác Chữ đã đại thắng rồi!
A Chín quay mình định lui nhưng Chữ Hồng Liễu không để cho nàng ra khỏi đấu trường, quát lớn:
- Đánh ta bấy nhiêu que như vậy, mà mi còn muốn yên ổn rút lui ư?
Chưởng pháp của y tuy chậm chạp, nhưng A Chín không sao lui ra khỏi phạm vi chưởng phong của y. Thấy bàn tay của y đã bắt đầu đỏ, Trình Thanh Trúc vội lấy luôn một cây trúc ở trong tay đàn em, nhảy xổ tới cành trúc đâm thẳng ra và lớn tiếng kêu gọi:
- Cả hai bên hãy ngừng tay ngay!
Còn phe bên này, Sa Thiên Quãng lấy chiếc quạt ra, phi thân tiến thẳng vào nhằm yếu huyệt của Trình Thanh Trúc mà điểm. Vội dùng tả chưởng gạt ra, Thanh Trúc định tâm vào cứu A Chín, nhưng bị Sa Thiên Quãng chận ngang, không sao thoát thân được.
Vì địch thủ võ nghệ cao cường, Thanh Trúc bắt buộc phải cẩn thận nghênh chiến.
A Chín đầu đầy mồ hôi, chân tay đã chậm dần. Thừa Chí bỗng la lớn:
- Ôi Trời ơi! Cứu tôi với, cứu tôi với!
Ngồi trên mình ngựa, chàng vừa la vừa xông vào trong đấu trường. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quãng phải nhảy sang hai bên để tránh. Thừa Chí ở trên mình ngựa lắc lư như sắp ngã, hay tay ôm chặt lấy cổ ngựa. Chàng bỗng luồn xuống bụng ngựa, rồi lại trèo được lên trên yên, trông rất tội nghiệp. Con ngựa phi tới giữa A Chín và Chữ Hồng Liễu đứng dừng ngay lại. Thừa Chí thở hồng hộc, từ từ bò xuống ngựa, lớn tiếng nói:
- Ô hô! Nguy hồ hiểm tai! Thật là cứu tử nhứt sinh. Súc sinh, súc sinh, mi muốn giết chết Tiểu sinh này phải không?
Nhờ sự ngăn cản đó, A Chín mới thoát khỏi tay Chữ Hồng Liễu mà trở về bên phe mình. Chữ Hồng Liễu cũng không tiện đuổi theo truy kích nữa.
Trình Thanh Trúc nói:
- Sa trại chủ, tôi muốn lãnh giáo tài nghệ "Âm Dương bảo phiến" của bạn.
Sa Thiên Quãng nói:
- Đệ cũng có ý định là cái hòm bảo vật cuối cùng này để chúng ta quyết thắng phụ.
Hai người giao chiến mấy chục hiệp rồi vẫn chưa phân được thua. Lần đấu tranh thứ hai này, cả hai bên cũng không kiêng nể, và cùng sử dụng những thế hiểm độc để hại nhau. Song trúc của Trình Thanh Trúc rất dài nhưng thế võ tinh kỳ nên Âm Dương phiến của Sa Thiên Quãng không sao đến gần đối phương được.
Lúc ấy mặt trời đã xế về phía Tây, chim chóc từng đàn về tổ, tái chiến thêm mấy chục hiệp. Sa Thiên Quãng kém vế dần, hai chân đã thiếu vững chắc. Thấy vậy, Chữ Hồng Liễu vội lên tiếng gọi:
- Hai bên ngang sức nhau, khó lòng phân chia thắng bại. Hòm bảo vật đem ra chia đôi, mỗi người được một nửa.
Trình Thanh Trúc cười một trận thật lớn, quét ngang đôi que trúc xuống đất, Sa Thiên Quãng vội nhảy lên để tránh. Trình Thanh Trúc hai tay bỗng thu lại, đánh ra rất nhanh, hai que trúc bén nhọn như loạn lên, liên tiếp đâm luôn mấy que. Lúc này, Sa Thiên Quãng đang lơ lửng trên không, tránh không sao kịp, đùi trái đã bị một que trúc đánh trúng, lúc xuống không sao đứng vững được, ngã nằm phục trên mặt đất. Trình Thanh Trúc thâu que trúc lại, quay trở về bên bộ hạ mình.
Sa Thiên Quãng nghiến răng chịu đau, bấm cái chốt trên cán quạt, rồi nhằm sau lưng đối phương quạt tới, năm chiếc đinh bằng gang bắn ra nhanh như chớp. Trình Thanh Trúc không ngờ nên không tránh kịp, cả năm chiếc đinh cắm sâu vào giữa lưng, thấy tê tê buồn buồn, biết là trúng phải ám khí có độc, nhịn hơi im tiếng, quay lại nhảy đến gần, điểm luôn hai que trúc vào bụng kẻ địch. Vì quá tức giận, Trình Thanh Trúc đã dùng hết sức lực, nên Sa Thiên Quãng mới bị thương nặng mà chết giấc liền. Bọn đạo tặc Sơn Đông tuốt khí giới ra, nhảy xổ lại cứu, chưa tới gần đã thấy Trình Thanh Trúc chịu đựng không nổi cũng ngã ngửa về phía sau. A Chín cũng chạy lại đỡ Trình Thanh Trúc về bên mình. Các bang hữu bang Thanh Trúc chưa rõ thủ lãnh sống chết ra sao, đều công phẫn. Bốn đội nhân mã cùng xông ra cả một lúc, hỗn chiến với bọn đạo tặc Sơn Đông. Lúc ấy, trong chiến trường, tiếng hò hét chém giết vang động, các bụi mù mịt.
Chữ Hồng Liễu nắm lấy cánh tay Đàm phó trại chủ bên Ác Hổ Câu la lớn:
- Bạn mau kêu gọi anh em ngừng tay ngay.
Đàm phó trại chủ lấy tù và ra thổi. Bọn đạo tặc Sơn Đông rút lui tức thì. Bên kia tiếng còi lá tre cũng nổi dậy, người bên bang Thanh Trúc cũng rút lui ngay. Vì A Chín thấy Trình Thanh Trúc đã hồi tỉnh biết hỗn chiến như vậy, kết quả không tối đẹp gì, lại thấy đối phương thâu quân cũng ra lệnh cho bang chúng ngừng chiến. Chữ Hồng Liễu đứng giữa chiến trường lớn tiếng kêu gọi:
- Cả hai bên đừng có tổn thương hòa khí nữa. Chúng ta hãy chia những hòm châu báu này trước. Còn mối thù này tạm xếp lại, để sau này sẽ hay.
Đàm phó trại chủ nói:
- Cái hòm sau cùng này thuộc về bên chúng tôi.
Người bên bang Thanh Trúc vội nói:
- Không biết xấu hổ, thua rồi còn đánh lén như thế. Trại chủ của các người là tiểu nhân chớ không phải là anh hùng.
Hai bên chửi đổng, ồn ào vô cùng, lại định ra tay đánh nhau, Chữ Hồng Liễu vội nói:
- Thôi, hòm này đem ra chia đều vậy.
Hai bên đều phái người đến định khuân vác, A Chín lớn tiếng nói:
- Hòm thứ tám của tôi nhưng tôi không lấy, biếu cho người khách này, không ai đụng chạm tới.
Chữ Hồng Liễu hỏi:
- Tại sao cô lại làm như thế?
A Chín nói:
- Nếu con ngựa của ông ta không điên cuồng, thì cháu đã bị thương dưới chưởng của bác rồi. Nên cháu định biếu hòm châu báu này để đáp tạ ông ta.
- Cô giữ được ân oán phân minh như thế cũng đáng khen đấy! Thôi được, khuân đi! Hòm nào hòm nấy đều có viết rõ số hiệu cả, mong tất cả anh em đừng có khuân vác nhầm nhé!
Mọi người đang ra tay khuân vác, Thừa Chí bỗng nói:
- Các vị muốn làm gì thế?
A Chín phì cười nói:
- Ông không biết gì ư? Chúng tôi đến khuân những hòm này đấy.
Thừa Chí nói:
- Tôi không dám phiền đến quý vị. Tôi có thuê những xe lớn này chở rồi.
A Chín cười nói:
- Có phải chúng tôi khuân vác giúp ông đâu. Chúng tôi khuân cho chúng tôi đấy chớ!
Thừa Chí nói:
- Lạ thật! Những hòm này rõ ràng là của tôi đấy chớ!
Một người trong bọn Sơn Đông mắng liền:
- Những hạng công tử bột này chỉ biết ăn cơm đi tiêu có khác! Nói nhiều làm gì?
Nói đoạn, y cúi mình khuân hòm luôn. Thừa Chí lớn tiếng nói:
- Trời ơi! Không ai được động tới.
Nói xong, chàng giả bộ trợt chân ngã, miệng kêu cầu cứu:
- Ối trời ơi! Có ai cứu tôi không?
A Chín tưởng chàng ngã thật, chạy lại nắm lấy cánh tay, nhấc bổng chàng lên, nửa cười nửa trách nói:
- Ông này rõ thật lôi thôi!
Bọn giặc đang xôn xao thấy Thừa Chí hốt hoảng như vậy đều tưởng lầm cái đá là gặp may thôi, lại tiến lên định khuân. Hai tay xua lia lịa, Thừa Chí hỏi:
- Hãy khoan, các bạn định khuân những hòm của tôi đi đâu thế?
A Chín nói:
- Chúng tôi người nào khuân về nhà người nấy.
Thừa Chí nói:
- Vậy còn tôi sao?
A Chín cười nói:
- Ông không hiểu biết gì có khác, hãy ngoan ngoãn đi về nhà đi! Kẻ toi mạng trên đường thì khốn đấy.
Thừa Chí gật đầu nói:
- Cô nói rất phải. Tôi đem ngay mười cái hòm này về nhà vậy.
Tên đại hán bị đá vừa rồi, chưa nguôi cơn giận, chạy lại nắm vai Thừa Chí đẩy mạnh một cái, rồi quát lớn:
- Bước đi, đồ khốn kiếp!
Chưa dứt lời, y đã bị Thừa Chí túm sau lưng, ném một cái, cả người bay thẳng ra đằng xa, bắn thẳng đến đỉnh cây lớn cách đó bảy, tám trượng, y ôm chặt lấy cành cây, sợ hãi kêu la.
Bây giờ, bọn giặc mới hay Thừa Chí võ nghệ cao siêu như vậy. Cái điệu công tử bột và hủ nho vừa rồi là chàng giả bộ để đùa giỡn mọi người.
Lúc ấy Trình Thanh Trúc đã nhờ người nhổ cho năm chiếc đinh ra, biết vết thương không nhẹ, định chia của xong là rút lui ngay. Bỗng thấy Thừa Chí biểu lộ võ nghệ, biết chàng là tay võ công thượng thặng, tất cả mọi người có mặt tại đấu trương không ai là địch thủ của chàng, sợ hãi quá vội vẫy tay gọi A Chín lại gần, khẽ nói:
- Người đó không phải là tay tầm thường. Con phải đề phòng cẩn thận.
A Chín gật đầu nhận lời, trong lòng vừa mừng vừa sợ, không ngờ một tú tài gầy gò thế kia lại có bản lãnh cao cường đến thế. Thừa Chí bỗng lớn tiếng nói:
- Hai bên đánh nhau nửa ngày trời định cướp những hòm báu vật của tôi, lại còn viết chữ nọ chữ kia lên đó. Hà hà, tôi xóa những chữ ấy đây.
Chàng thuận tay túm một tên đại hán đứng cạnh, bóp luôn yếu huyệt ở trên cổ tay. Tên nọ tê liệt tức thì, không sao cử động được. Thừa Chí cầm người nọ lên, giơ ngang rồi chạy quanh hòm châu báu một vòng. Chàng sử dụng tên đại hán như một giẻ lau, chùi lưng y vào những chữ viết cạnh hòm, lau sạch rồi, hai tay đưa mạnh một cái, quăng tên nọ lên trên ngọn cây.
Bọn đạo tặc Sơn Đông cầm khí giới xông tới. Thừa Chí chân đá tay đấm, những khí giới của giặc bay tứ tung. Chỉ trong giây lát bảy, tám tên đại hán đều bị chàng túm lưng, túm ngực ném đằng xa. Thế là cả hai bọn giặc đều xôn xao. Thấy Sa Thiên Quãng và Trình Thanh Trúc đều bị thương nặng, chúng chỉ còn trông mong Chữ Hồng Liễu làm chủ cho. "Hừ" một tiếng, Chữ Hồng Liễu lớn tiếng nói:
- Không ngờ các hạ cũng là anh em trong làng võ. Xin cho biết tên họ, và môn hạ của vị tiền bối nào?
Thừa Chí đáp:
- Tôi họ Viên, sư phụ tôi là Vương Lý Tư Vương lão phu tử, ông ta là kính học đại sư, rất thông thạo Lễ Ký và Xuân Thu các kinh sử. Còn một vị Lý lão phu, cũng dạy tôi lời văn bát cổ, chuyên môn nghiên cứu "Chi hồ giả dã."...
Chữ Hồng Liễu nói:
- Lúc này bạn giả bộ làm gì nữa? Bạn cứ nói rõ sư phụ và môn phái của bạn ra đi! Nếu ông ta có uyên nguyên gì với chúng tôi thì chúng tôi đây cũng không phải hạng người không biết tình nghĩa đâu!
Thừa Chí nói:
- Thế thì còn gì tốt hơn nữa. Bây giờ đã muộn lắm rồi. Xin chào các bạn, chúng tôi phải đi đây.
Tánh của Hầu trại chủ Sát Báo Cương rất nóng nảy, giơ thanh Cửu Hoàn đao lên nhằm lưng Thừa Chí chém ngang xuống.
Thừa Chí né mình tránh thành Cửu Hoàn đao nọ chém hụt sang bên. Vì dùng sức quá mạnh, khi đã chém không trúng, Hầu trại chủ không sao thâu khí giới lại được, để thanh đao đó thừa thế bổ xuống vai của Chữ Hồng Liễu đứng cạnh. Mọi người hoảng sợ la lớn. Nhưng Chữ Hồng Liễu khẽ giơ tay trái ra dùng ngón tay trỏ kẹp lấy sống đao kéo về phía sau một cái, thanh đao đó mới ngừng được. Hầu trại chủ xấu hổ quá, mặt đỏ bừng lên. Chữ Hồng Liễu mỉm cười, buông tay ra, rồi nói với Thừa Chí rằng:
- Với chút tài ba này, tôi được một hòm châu báu của bạn, cũng không quá đáng, phải không bạn?
Thừa Chí hỏi:
- Thế võ của bạn tên là gì thê?
Chữ Hồng Liễu nổi giận nói:
- Thế võ ấy tên là Giải Kiềm công (võ càng cua). Nếu bạn cũng biết thế võ ấy, ta xin phục ngay!
Thừa Chí nói:
- Võ gì lại gọi "Giải Kiềm" hay "Qui Kiềm" (càng cua hay càng rùa) tôi chưa thấy qua bao giờ?
Chữ Hồng Liễu cả giận thét lớn:
- Vừa rồi ta dùng hai ngón tay kẹp lấy thanh đao. Đó là Giải Kiềm công! Bạn đui mù hay sao mà bảo không trông thấy.
Thừa Chí nói:
- Ồ ra miếng võ xiếc ấy! Bạn với người kia xếp đặt với nhau trước có gì lạ? Chú Thanh lại đây, chúng ta cũng biểu diễn cho họ xem chơi.
Thanh Thanh tươi cười chạy tới, nhặt thanh đao lên, làm điệu bổ xuống đầu Thừa Chí, lúc sắp tới nơi, cố ý làm ra thật chậm và thật nhẹ chém xuống. Tay run run, Thừa Chí cũng dùng hai ngón tay kẹp lấy lưỡi đao, Thanh Thanh làm bộ dùng sức giựt ra, nhảy nhót nghiến răng mím môi một hồi, mà không sao rút nổi thanh đao ra. Thấy hai người trêu ghẹo Chữ Hồng Liễu, A Chín không nhịn được, lớn tiếng cười trước. Thấy hành động của hai người khôi hài quá, bọn giặc cũng đồng thanh cười theo.
Xưa tay làm phách quen rồi, Chữ Hồng Liễu khi nào lại chịu để cho hai tên hậu sanh tiểu bối diễu cợt mình như vậy, liền giựt luôn thanh Cửu Hoàn đao ở trong tay Hầu trại chủ, đưa cho Thừa Chí nói:
- Bạn thử chém ta một đao xem. Như vậy, bạn không thể nói là ta đã xếp đặt trước nhé?
Thừa Chí nói:
- Nhưng chém chết người, tôi không chịu thường mạng đấy nhé?
Càng tức giận thêm, Chữ Hồng Liễu liền sanh lòng giết chóc, sầm nét mặt lại nói:
- Bất luận ai chết, cũng không phải đền mạng cả!
Thừa Chí la lớn:
- Này, cẩn thận, đao tới đây này!
Chàng bỗng giở tay trái bổ ngang một đao. Không ngờ đao đó lại đến trái hẳn đường đao mà mình tưởng tượng, Chữ Hồng Liễu sợ hãi quá, cúi đầu để tránh, hơi muộn một chút, mũ của y đã bị thanh đao chém rớt xuống đất. Bọn giặc lại cười ồ.
Thừa Chí cười nói:
- Thế võ "Quy Kiềm" của bạn à, không phải, Giải Kiềm mới đúng!
Vừa nói chàng vừa chém ngang chân một đao. Chữ Hồng Liễu vội nhảy lên để tránh nhưng vẫn không kịp, cả hai chiếc đế giày bị chém rơi xuống đất. Y vừa giận vừa sợ hãi.
Thừa Chí nói:
- À, phải rồi. Cao quá, thấp quá, nhanh quá, bạn không tránh được cả. Bây giờ tôi từ từ chém vào giữa vậy!
Đao này quả nhiên giống như Thanh Thanh vừa rồi vậy, từ từ chém ngang tới. Chữ Hồng Liễu giơ tay trái ra định kẹp lấy đao. Y định tay trái kẹp võ khí, tay phải dùng chưởng đánh miếng độc liền.
Ngờ đâu, đao của Thừa Chí sắp chém tới tay y, bỗng bật ngược lưỡi đao đưa lên một cái, thế là hai ngón tay của Chữ Hồng Liễu bị lưỡi đao của Thừa Chí cứa phải, máu chảy đầm đìa. May y rụt tay nhanh, hai ngón tay mới khỏi đứt. A Chín vỗ tay khen ngợi. Chữ Hồng Liễu cả giận quát:
- Quân chuột nhắt, mi có giỏi lại đây tỷ võ với ta?
Thừa Chí quăng thanh đao ra phía sau, lúc ấy tên đại hán ở trên đỉnh cây đang vịn cành lớn bò xuống, ngờ đâu thanh đao của Thừa Chí vừa liệng, chặt đứt cành cây nọ, tên đại hán kia ngã lộn mấy vòng xuống đất. Trong lúc các người đang hoảng sợ kêu la, Thừa Chí lại xách từng cái hòm một ném ra phía xa, cái nọ chồng lên cái kia, thành một đống cao ước mấy trượng, rồi nói:
- Tỷ võ thì tỷ võ ta có sợ đâu. Nhưng ta không yên tâm vì bọn mi đều là đầu trộm đuôi cướp cả. Nhân lúc ta đang đấu hăng hái, lại lấy trộm những hòm châu báu này của ta thì sao?
Nói đoạn, chàng nhảy lên trên nóc đống hòm, rồi lớn tiếng kêu:
- Mi có giỏi lên đây tỷ võ với ta.



trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!
Sử dụng gói vip bạn sẽ được phép tắt hết quảng cáo khi đọc truyện