Kể từ khi bà San bị chuyển sang khu bệnh nhân nặng , Hinh chỉ có thể thấy bà ta ở vườn hoa mà thôi. Những lúc đó lại thường có Tạ Tốn ngồi bên Hinh, con tim và ánh mắt cô đều dành cho Tốn, nên chẳng nói gì nhiều với bà San. Nhưng vẫn còn nhớ mọi lần ấy Hinh đều nhận ra ánh mắt của bà San nhìn sang cô đầy vẻ ái ngại bất lực và buồn bã. Lúc này nhớ lại, mặc dù đang ngồi dưới ánh mặt trời, Hinh vẫn thấy nổi da gà. Vì ánh mắt ấy ứng với một câu nói của bà ta “ Thứ đang xâm chiếm lòng cô, không phải là một cái tên, mà là một bi kịch”.
Thực là xác đáng, cái gọi là tình yêu của mình chỉ là một ảo giác thứ thiệt, mà mình thì đã sa lầy quá sâu, đã “cố đấm ăn xôi”, kiếm cớ để không rũ bỏ cái đẹp hư ảo ấy.
Đây không phải là sự lựa chọn đúng đắn của Diệp Hinh này.
Quả nhiên Hinh nhìn thấy bà San ở trong vườn hoa. Vẫn như mọi ngày, bà ta đang ngồi trên chiếc ghế mây, tay cầm tấm bìa kẻ giấy và bút vẽ, nhưng có lẽ ánh nắng ấm dễ đưa người ta vào giấc ngủ, bà San đang ngả đầu hình như đã ngủ.
Hinh đi đến nơi, ngồi xổm xuống bên cạnh ngẩng đầu nhìn bà San, rồi nghẹn ngào nói: “Bà hãy giúp cháu với”.
Bà San mở mắt ra, ánh mắt lộ vẻ xót thương, nhưng giọng nói thì lại lạnh lùng: “Cô thì không muốn tin, tôi cũng chẳng có tài thuyết phục, làm nhiều những việc vô ích, chỉ tổ giảm thọ thôi.”
“Bà nói là nhìn thấy “anh ta” trong trái tim cháu, tại sao khi cháu hỏi các cô y tá và các bệnh nhân thì họ đều không nhìn thấy anh ấy? Bà nói đi, anh ấy là người như thế nào ? Anh ấy là ai?”
“Cô gọi anh ta là Tạ Tốn”
“Nhưng nay cháu đã biết: có lẽ không phải anh ta.Bà hãy cho cháu bíêt thực ra anh ấy là ai? Trong chuyện này, chỉ mới có thể giúp được cháu”
Bà San cúi thấp người, nhìn Hinh. Thấy khuôn mặt cô đẫm lệ, đôi mắt già nua của bà cũng nhòa đi. Bà San bỗng nâng bức vẽ, nhanh tay vẽ luôn.
Chẳng rõ thời gian trôi đi bao lâu, chỉ thấy bàn tay đang vững vàng cầm bút của bà bỗng run run, Hinh lo lắng hỏi : “ Bà có sao không?”
Bà San có vẻ như thở rất khó khăn: “Sắp xong rồi”
Hinh không nén được, quay người sang nhìn bức vẽ, thấy một chàng trai đang tươi cười, mặc áo choàng trắng – chính là “Tạ Tốn” mà cô vẫn ngày đêm khắc khoải nhớ nhung. Tay bà San trở nên linh họat, chỉnh sửa những nét cuối cùng, rồi đưa bút sang phía tay trái của chàng trai – bà tỉa nét bút rất tỉ mỉ.
Có thể nhìn rõ trên mu bàn tay ấy có hai hàng vết răng mờ mờ!
Khi “Tạ Tốn” xuất hiện lần đầu trong vườn hoa, Hinh đã dồn nỗi nhớ da diết và niềm mui mãnh liệt để cắn nhẹ vào tay anh, nhưng hoàn toàn không đứt da. Nếu ở trên tay người bình thường thì chỉ sau vài giây vết đó sẽ hết dấu vết ngay, nhưng tại sao trên tay “Tạ Tốn” thì lại hằn mãi nhưng thế và tại sao bà San nhận ra rõ nét?
Hinh vốn nghĩ sự xuất hiện của Tạ Tốn sẽ khiến cô thoả nỗi nhớ mong và được hạnh phúc, nào ngờ đó chỉ nhưng hoa đẹp trong gương, bóng trăng đáy nước!
Tại sao tay bà San run run nhưng vẫn tiếp tục vẽ?
Không phải bà tiếp tục vẽ “Tạ Tốn”, mà đang vẽ ở một góc khác của bức họa - vẽ một khuôn mặt khác. Hinh kinh ngạc nhìn… rồi dần dần nhìn rõ, một khuôn mặt khôi ngô, cặp lông mày rậm, đôi mắt to sắc sảo, có điều dưới nó là một quầng mắt khá lớn – chính là anh sinh viên có vẻ mặt lạnh lùng.
Chẳng lẽ trong trái tim mình cũng có anh ta?
Bà San bỗng “ôi” một tiếng, bức vẽ và bút chì rơi ngay xuống đất. Toàn thân bà bất động trên chiếc ghế mây, đôi tay bất lực buông thõng, mái tóc hoa râm tơi tả, đầu ngửa ra phía sau, sùi bọt mép.
Trở về buồng bệnh nhân, Hinh vẫn chưa hoàn hồn sau biến cố vừa xảy ra đối với bà San. Bà ta làm sao vậy? Sau khi mình kêu cứu, các bác sĩ y tá đã chạy đến, đều nói đó là đột ngột trúng phong, hiện tượng không hiến gặp ở người cao tuổi như bà San. Nhưng dù đúng là trúng phong, thì vẫn là xảy ra vào lúc rất đáng ngờ.
Bà San đã chứng minh sự tồn tại của “Tạ Tốn” trong Hinh, nhưng dáng vẻ “anh ta” lại khác hẳn Tạ Tốn trong thực tế. Mình và bà San đều nhìn thấy “anh ta” - kể cả anh chàng lạnh lùng kia nữa – thì chứng tỏ rằng cái gọi là “ảo giác” thực chất không tồn tại. Có lẽ chỉ những “bệnh nhân” như mình và bà San thì mới nhìn thấy.
Giải thích kiểu này cho dù có ly kỳ đến mấy thì cũng đã thể hiện rằng đầu óc mình rất tỉnh táo, điều cần thiết bây giờ là phải có người tin mình.
Nếu ngay Sảnh cũng không tin mình thì e trên đời này không còn ai có thể tin mình được nữa.
9h ngày 8 tháng 6
“Sảnh ạ, tớ đã nghĩ rất kỹ rồi, cậu nói không sai tý nào”
Hinh bình tĩnh nói với Sảnh khi Sảnh vào thăm cô.
“Cậu nghĩ thế thật à? Tớ vẫn chưa hoàn toàn công nhận thế đâu”
Hinh khẽ thở dài, biết rằng Sảnh đã nhiều lần suy nghĩ từ góc độ của mình nên cho đến giờ vẫn chưa thể hoàn toàn công nhận. Hinh dịu dàng nói :”Sảnh ạ, cậu đừng buồn thay cho tớ nữa, mà cậu có thể làm giúp tớ vài việc để chứng minh cho quan điểm của tớ.”
Sảnh rất lo Hinh vẫn tiếp tục sa lầy trong đó, vội hỏi ngay “Cậu có quan điểm gì?”
“Tớ thấy mọi người đều không sai, cậu nói với tớ câu nào cũng đúng. Và những chuyện tớ đã tiếp xúc – dù kỳ dị đến mấy – cũng không hoàn toàn là ảo giác.”
“Tớ nghe không hiểu mấy”
“Cũng tức là, những thứ mà tớ đã nhìn thấy nghe thấy cảm nhận được, thì những người khác đều không nghe thấy không nhìn thấy và không cảm nhận được.”
“Như thế chẳng phải ảo giác là gì?”
“Cậu còn nhớ cái lần tớ nhìn thấy tiêu bản cơ thể đỉnh cao tuyệt vời không? Đó không hẳn là ảo giác. Về sau, ở cuốn nhật ký trong “Hồ sơ Nguyệt Quang xã” tớ đã đọc thấy ghi chép về sự tồn tại của nó. Nếu cậu có thể tìm cách mà đọc được cuốn nhật ký ấy, sẽ biết rằng tớ không nói vu vơ. Cậu lại nhìn cái này nữa.” Hinh đưa ra một bức vẽ ký họa. “Hãy nhìn anh sinh viên này, anh ta chính là “Tạ Tốn” trong “ảo giác” của tớ - do bà San vẽ. Bà Uông Lan San là người mà tớ từng kể với cậu, bà ấy có thể nhìn thấy “anh ta” thậm chí cả anh bạn lạnh lùng kia nữa. Cậu nói xem, đây là ngẫu nhiên hay sao?”
“Thực thất bà Uông Lan San này là người như thế nào?”
“Cho đến nay tớ vẫn không hiểu rõ lắm, nhưng có cảm nhận rằng bà ấy biết rất nhiều chuyện, có lẽ bà ấy có liên quan trực tiếp đến “vụ mưu sát 405”.”
“Vậy thì, cậu cũng như bà ta, đều có thể “gặp ma” à?”
Sảnh thoáng cảm nhận rằng mọi điều Hinh nói không phải là không có lý.
“Chưa đến nỗi là “gặp ma”, nhưng có lẽ đều là quá nhạy cảm chăng? Này, cậu có thể đến trạm phát thanh lấy hộ tớ cuốn băng ghi âm không? Tớ đã ghi sau trận kinh hãi trong trạm phát thanh tối hôm đó, cậu nghe xem có thấy những âm thanh quái dị như bắt hồn đòi mạng người ta không?”
“Diệp Hinh phải nằm viện, thế là mình tạm thời không sao chọn nổi ai sẽ là người kế tục mình khó có thể yên tâm mà tốt nghiệp được!” Chị trưởng trạm phát thanh đưa cho Sảnh cuốn băng cát-sét có giọng Diệp Hinh. Chị có vẻ lo lâu. “Mình đã nghe rồi, chỉ có mình Hinh độc thoại, nhưng không hề có âm thanh quái dị nào như cô ấy bảo. Đủ thấy lúc đó Hinh rất cần được giúp đỡ. Mình rất áy náy, vì mọi ngày thường rất vui vẻ với nhau trong căn phòng, ấy thế mà mình chẳng quan tâm gì đén sức khoẻ của Hinh…”
Sảnh cám ơn chị trưởng trạm phát thanh, rồi vội đặt ngay cuộn băng vào chiếc máy mini mang theo, tai nghe truyền rõ giọng nói nhỏ nhẹ của Hinh: “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích…” sau đó là tiếng băng trắng chạy trơn, không nghe thấy gì khác. Chừng một phút sau, thấp thoáng nghe thấy tiếng đóng cửa và tiếng bước chân. Gần như hầu hết chỉ là im lặng. Về sau thấy ghi tiếng hít thở nặng nề, rõ ràng là Hinh đã sợ hãi đến cùng cực.
Một tiếng “uỳnh” vang lên, hình như có vật gì rơi xuống sàn nhà, liệu có phải là Hinh Không? Hinh đã kể là Hinh có bị choáng một lát.
Sau đó lại thấy tiếng Hinh run run: “Tôi là Diệp Hinh, lúc này khoảng 22 giờ ngày 11 tháng 5. Cách đây ít phút, có những sóng điện kỳ lạ hiện trên màn hình máy ê-qua-li-dơ, và các âm thanh phát ra loa, thoạt đầu có quy luật và mỗi lúc một vang hơn. Sau đó đèn ở trạm phát thanh bị tắt thì sóng điện trở nên không có quy luật gì nữa và rất chói tai. Tôi rất nhức óc, rồi mê man khoảng vài giây. Bây giờ đã rất yên tĩnh nhưng tôi… tôi rất sợ, thật sự rất sợ hãi.”
Nghĩ đến cảnh một mình Hinh phải khiếp hãi như thế, Sảnh lại rất buồn.
Tiếp đó là Hinh gọi điện cho Vân Côn, rồi Vân Côn đến.
Hinh ghi lại đoạn lời nói, nhằm để lại một thông báo, nói lên rằng đêm đó cô đã phải vật vã ra sao, có căn cứ để điều tra. Đó là sự nguy hiểm thật sự chứ không phải là ảo giác.
Rõ ràng là Hinh tuy bị hành hạ dữ dội nhưng vẫn biết giải quyết mọi việc một cách bình tĩnh.
Nhưng trong này hoàn toàn không có những âm thanh quái dị kia, thì càng chứng tỏ đầu óc Hinh đã có ảo giác.
Hinh thật là đáng thương.
Sảnh ngẫm nghĩ lại câu nói của Hinh ở trong bệnh viện. “Tớ thấy mọi người chúng ta đều không sai, có điều, những thứ mà tớ nhìn thấy nghe thấy cảm nhận được thì những người khác đều không nghe thấy nhìn thấy và không cảm nhận được.”
Lúc nói mấy câu này, Hinh rất thật, ánh măt càng hiện rõ rằng Hinh rất tin mình.
Vì Hinh hiểu rằng chỉ có mình mới tin ở Hinh.
Sảnh tua cuốn băng quay lại từ đầu, nghe lại lần nữa. Nhưng càng nghe cô càn thất vọng: Hinh ơi, đừng trách mình không tin cậu, rõ ràng là mình không nghe thấy gì trong các đoạn băng im lặng này, kể cả đã vặn hết cỡ volum của máy thì mình vẫn không hề thấy thứ âm thanh quái dị như cậu kể lại.
Đúng trong lúc Sảnh mở to hết cỡ để nghe, thì một thứ tạp âm rất yếu vọng đến tai cô.
Nhưng rất có thể đây là tiếng chạy của máy hoặc tiếng rít của chính băng từ.
Sảnh nhớ là Hinh đã kể rằng, âm thanh lạ lùng ấy thoạt tiên có nhịp điệu - chậm hơn nhịp tim, nhanh hơn nhịp thở, rất giống tiếng nhịp bước chân. Nhưng sau đó lại như “người say” bước đi lúc mạnh lúc nhẹ, rối loạn lung tung, đôi lúc lại như là có nhịp điệu như tiếng bước chân. Nếu những tạp âm này có những đặc điểm như Hinh đã kể, thì chứng tỏ thứ âm thanh quái dị kia là có thật hay sao?
Lại tua về, rồi vặn hết cỡ volum, Sảnh chăm chú lắng nghe. Đúng thế: thứ tạp âm này lúc đầu nhịp nhàng, sau đó thì có phần rối loạn bất thường.
Nhưng tạp âm này lại quá yếu, Sảnh không dám tin chắc nó là thứ âm thanh quái dị mà Hinh đã nghe thấy. Tại sao nó không mạnh chói tai như Hinh đã kể? Hay là, vì Hinh hết sức thính tai, tựa như một cái máy khuyếch đại âm thanh, những âm thanh quá yếu không ai nghe thấy, thì Hinh lại cảm thấy rất vang? Nếu thế thì hàng ngày nghe mọi người nói, Hinh sẽ điếc tai hay sao? Và nếu vẫn suy luận kiểu này thì trong cuộc thi hát hôm nọ, cũng tương tự - Hinh đã nghe thấy “Tạ Tốn” nói chuyện và hát thật hay sao?
Sảnh lập tức mở túi lấy ra cuốn băng ghi âm cuộc thi hôm đó, lắp vào máy rồi bật nghe - Những cảnh tượng hôm đó luôn rât ồn ào, dù có lúc lắng xuống thì vẫn có người đang hát, và không hề nghe thấy có gì khác thường.
Thầy Vân Côn thì đoán rằng các nữ sinh nhẩy lầu vì đã bị ám thị, có phải tại mình quá muốn tin vào lời của Hinh, cho nên mình mới nghe thấy những tạp âm rất yếu kia?
12h ngày 8 tháng 6
Chương Vân Côn nghe cuốn băng ghi âm Diệp Hinh ở trạm phát thanh đến hơn chục lần, rốt cuộc anh gỡ tai nghe xuống, xua tay nói: “Lý luận của tôi vẫn đúng, chính xác là bạn đã bị ám thị bởi niềm tin mãnh liệt của Diệp Hinh. Chứ tôi thì không nghe thấy gì hết, chứ đừng nói chi đến nhịp bước chân hoặc là sự thay đổi lúc chậm lúc nhanh!”
Sảnh thấy thầy Côn nói thẳng băng, cô hứ một tiếng rồi ngắt lời: “Liệu có phải thầy rất cố chấp không muốn tin Hinh, và cũng bị ám thị bởi quan niệm ngoan cố của mình nên mới không nghe thấy gì khác không?”
Vân Côn ngớ ra, anh sờ lên mái tóc đen nhánh phẳng phiu, không biết đối đáp ra sao. Nghĩ ngợi một lúc, anh gật đầu “Lời bạn nói không phải là không có lý. Thế này vậy: có hay không có âm thanh lạ, chúng ta đi nhờ chuyên gia thực thụ giám định xem sao?”
Vân Côn dẫn Sảnh đến phòng nghiên cứu vật lý của đại hoc kỹ thuật Giang Kinh đóng gần trường y. Hồi làm nghiên cứu sinh bệnh học thần kinh, anh đã chọn học môn tâm lý học thực nghiệm, nhiều thí nghiệm của chương trình – trong đó có thí nghiệm về thính giác - đều được hoàn tất ở bên này. Trong thời kỳ học nghiên cứu sinh, Vân Côn đã thoải mái bộc lộ mọi hứng thú của anh. Anh đã từng thiết kế một đề tài ghi lại các đọan lời nói của các bệnh nhân tâm thần, hy vọng sẽ tìm ra những điểm chung về mặt ngữ âm của các nhóm bệnh nhân, cùng loại hình, tìm tòi tiềm năng của ngữ âm học để trợ giúp cho công tác chẩn đoán. Một vị nghiên cứu sinh của đại học kỹ thuật Giang Kinh tên là Nghiêm Viêm đã giúp Vân Côn tiến hành phân tích âm học, và hai người đã trở thành đôi bạn thân. Chính Nghiêm Viên đã cho Vân Côn biết thông tin về chiếc “máy bắt ma”- vốn chỉ là để đùa cho vui, nào ngờ Vân Côn lại “rất nghiêm chỉnh” bỏ món tiền lớn ra đặt mua nó về. Việc này đã khiến Nghiêm Viêm cứ
cười anh mãi.
Nghiêm Viêm mới ngoài ba mươi tuổi nhưng tóc đã lưa thưa, đang trở thành hói đầu. Ngồi trong phòng làm việc nghe hai người cứ khăng khăng mỗi người một phách, anh cười: “Thế thì, để tôi cho nghe bằng thiết bị âm học “hàng xịn” xem sao!”
Sảnh thúc giục: “Thế thì sang luôn. Phòng thí nghiệm của thầy ở đâu ạ?”
“Kìa, tôi nói rồi mà: ta nghe bằng thiết bị âm học loại xịn, chưa vội sang phòng thí nghiệm làm gì.” Thấy Sảnh vẫn cứ ngớ ra, Nghiêm Viêm cười và chỉ tay vào tai mình.
Vân Côn và Sảnh cùng bật cười. Nghiêm Viêm bật máy ghi âm mini mà Sảnh mang theo, nghe kỹ vài lần, cuối cùng lắc đầu nói: “Cái máy xịn này của tôi hơi khó vận hành, hình như có nghe thấy văng vẳng tiếng lẹt xẹt gì đó nhưng hoàn toàn không có quy luật, cũng không rõ có phải là tiếng cơ của máy mini này không. Nghe lại thì không thấy gì nữa. Càng nghe lại càng mơ hồ.”
“Vậy có phải là chứng tỏ rằng dù có âm thanh, thì cũng ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người?” Vân Côn hỏi.
“Vẫn nên để cho máy móc phát biểu ý kiến vậy” Nghiêm Viêm đứng dậy mời hai vị khách sang phòng thí nghiệm. “Đây cũng là dịp để tôi được khoe với các vị một thiết bị đáng để mơ ước. Nó là một máy thuộc loại đẳng cấp cao để đo âm thanh, rất giàu tính năng, có thể đo được tần số, cường độ và âm phổ, khảo sát các âm siêu trầm hoặc siêu âm, có thể đo dải tần và thang cường độ rất rộng, cũng có thể tách các nguồn âm thanh riêng biệt, tất cả đều được vi tính hóa, và in ra ảnh rất nét. Nếu sự việc giống như ta nhận định – âm thanh ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người – thì dùng thiết bị này khác nào dùng dao mổ trâu để giết gà? Đối với nó chỉ là trò trẻ con thôi!”
Tiếng của Diệp Hinh trong băng cát-set vang lên, trên màn hình của máy “giấc mơ” hiện ra sóng âm rất nét. Câu nói : “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích” vừa dứt thì trên màn hình chỉ còn dấu chữ thập định vị, chứ không có sóng âm nào khác.
Vân Côn thở “phù” một cái, rồi ung dung nói “Thôi nào, bạn Sảnh, nếu bạn còn nhớ lời hứa của mình thì bữa cơm trưa nay tôi khỏi phải nhai băng cát-set! Tuy nhiên, là thầy giáo mà lại để cho học sinh chiêu đãi thì cũng không mấy phải đạo cho lắm!” Trước đó hai thầy trò đã “cá” điều này.
Sảnh thì đang buồn bã, Nghiêm Viêm chỉ tay lên góc màn hình có dòng chữ tiếng Anh nhắc nhở, anh nói hạ giọng: “Chớ vội sớm kết luận, vấn đề không đơn giản thế đâu!” Nghiêm Viêm nhấn vào các lệnh tiếp theo, chuyển đổi cách hiển thị trên màn hình, và trước mắt ba người đã xuất hiện hay dấu cộng định vị, một ở trên một ở dưới, trên moãoi dấu có một đường sóng âm.
Nghiêm Viêm nói rất tự tin: “Quả nhiênlà thế thật!”
Sảnh vội vàng hỏi ngay: “Quả nhiên là gì ạ? Thầy hãy giải thích cho mọi người cùng nghe với”
“Nghĩa là thế này: ở phía trên, là sóng âm thuộc âm vực siêu âm, phía dưới là sóng âm siêu trầm. Nói cách khác, đúng là trong băng này có âm thanh nhưng ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người”
Vân Côn kinh ngạc: “Nghĩa là thế nào? Anh nói là Diệp Hinh đã nghe thấy những âm thanh mà người bình thường không nghe thấy ư?”
Nghiêm Viêm không trả lời, anh chỉ tay vào hai vùng dấu định vị và nói: “Anh hãy nhìn hai sóng âm này: tuy tần số chênh nhau rất lớn nhưng những thay đổi về cường độ đều có chung một quy luật như nhau, nói cách khác, hai loại âm thanh này đều có chung một quy luật như nhau, nói cách khác, hai loại âm thanh này đều có chung một nhịp điệu. Giả sử tai người nghe thấy, thì sẽ giống như nhịp tim đập hoặc giống như nhịp chân đi với tốc độ đều.”
Sảnh kinh ngạc kêu lên: “Nó hệt như Hinh đã miêu tả”
Vân Côn nói: “Anh Viêm hãy nói cho rõ đã: ý anh là trong lúc im lặng ấy đúng là đã có một nhóm âm trầm và một nhóm âm cao cùng xuất hiện? Chúng có cùng nhịp điệu đúng như Diệp Hinh đã miêu tả - giống như tiếng bước chân à?”
“Đúng thế! Có nhịp, và dường như mỗi lúc một mạnh hơm.. chậm dần, chậm dần rồi lại biến đổi nên không có quy luật nữa. Nhưng cường độ thì lại mạnh lên..”
“ÔI, giống hệt như Hinh đã miêu tả! Thế là đã giải mã được vấn đề” Sảnh phấn chấn kêu lên.
Nhưng không ngờ Nghiêm Viêm lại dùng chuột khoanh vào một đoạn sóng âm, phóng to lên, rồi bình thản nói: “Cô cũng đừng đắc chí quá sớm. Tôi còn có hai điểm nghi vấn rất lớn: một là, xét dạng thức của hình sin, thì hai sóng âm này không hoàn toàn là được truyền qua không khí, theo kinh nghiệm đọc âm phổ của tôi, thì hình như chúng đi qua một môi trường chất dẻo hoặc môi trường chất rắn mật độ cao, rất khó phán đoán. Mà hai vị thì nói rằng lúc đó chỉ có mình Diệp Hinh trong trạm phát thanh, thì tai sẽ nhận tín hiệu âm thanh truyền qua không khí, dù nguồn âm thanh phát ra từ ngoài cửa thì cũng chỉ là cách một tầng cửa – nó sẽ không có dạng hình sin lạ lùng kiểu này.”
“Anh nói là nguồn âm thanh ấy rất kỳ quái à?”
“ Đúng thế, và còn điều lại lùng thứ hai nữa. Tôi tuy không chuyên nhưng cũng biết nguyên lý của việc ghi âm trên băng từ, là thông qua dòng điện âm tần để biến đổi từ trường trên đầu từ của máy ghi âm, sau đó tác động vào các từ tính riêng biệt và sự phân bố của các phân tử bột từ bám trên băng, để ghi lại âm thanh. Cách ghi âm này rất thô, ngay các âm thanh bình thường còn có thể bị mất tín hiệu, thì ghi sao nổi các âm siêu cao và siêu trầm? Có lẽ tôi cũng chưa được hiểu biết nhiều, nhưng tôi đã có lần được nghe nói như thế.”
“Nhưng có điều gần như có thể khẳng định: đúng là Diệp Hinh đã nghe thấy những âm thanh mà những người phàm tục như chúng ta không nghe thấy, phải không ạ?”
Nghiêm Viêm chỉ tay vào Vân Côn “Điều này cô hãy nói với anh Côn! Tôi có “cá” bữa cơm trưa nay với cô đâu”
Vân Côn lắc lắc đầu: “Thật không thể tưởng tượng, không thể tưởng tượng nổi”
Sảnh nói: “Có gì mà không thể tưởng tượng nổi? Em thấy thầy quá máy móc bảo thủ thì có! Cần phải làm gì nữa thì thầy mới chịu tin hẳn?” Sảnh chợt nảy ra một ý, cô lấy ra cuốn băng ghi âm cuộc thi hát đưa cho Nghiêm Viêm: “ Phiền thầy phân tích cuốn băng này nữa vậy, nhất là hai bài hát của Chu Hoa Kiên.”
Khi mở đến đoạn Băng Quân hát hai bài hát karaoke của Chu Hoa Kiện, vì dưới sân khấu khá im ắng, nên màn hình vi tính rất ít hiện ra tạp âm, chỉ nổi lên rõ nhât là sóng âm của tiếng hát Băng Quân. Bỗng Nghiêm Viêm kêu lên: “Đúng là có chuyện đó!” Anh nhấp chuột ngắt ra một đoạn sóng âm rồi phóng to ra, thấy rằng ngoài tiếng nhạc đệm và tiếng hát “Không muốn cô đơn” ra, thì lại xuất hiện một sóng âm khác – cũng lên xuống rõ ràng. Nghiêm Viêm lại dùng máy “giấc mơ” này khảo sát đoạn song âm này bằng âm phổ, anh chăm chú nhìn bản in vừa được in ra, không ngớt trầm trồ: “ Thật là thú vị, quan sát bước đầu của tôi là âm phổ này thể hiện mọi đặc trưng trầm bổng ngừng ngắt của âm phát ra, có thể cơ bản coi là giọng hát nhưng hầu như lại không có cường độ. Nói cách khác, băng cát-set này đồng thời ghi hai bài hát, một giọng là giọng Chu Hoa Kiện, ai cũng nghe thấy còn một bài nữa thì không rõ tên là bài gì, không ai có thể nghe thấy.”
“ Ngoài Diệp Hinh! Hinh nghe thấy nó!” Sảnh hào hứng kêu lên.
Hai bài hát “nhại Chu Hoa Kiện” đã hát xong. Nghiêm Viêm nói: “Có hai bài không thể nghe thấy. Có cảm giác là “gặp ma” thật rồi!”
Sảnh thấy trong lòng lâng lâng, đầu cô thoáng hiện vô số ý nghĩ: xem chừng Diệp Hinh không nhầm, Hinh có thể cảm nhận được những sự vật mà người káhc không thể cảm nhận, thì ra, điều gọi là “ảo giác” lại chínhlà cảm giác thật sự. Không có lý gì để Hinh cần phải “điều trị”, Hinh lại có thể trở về sống giữa mọi người.
Nhưng Sảnh vẫn không quên một việc quan trọng, cô cười nhìn Vân Côn đang ngồi ngây ra: “Thầy Côn ạ, đã đến trưa rồi, thầy Viêm và em đều đã đói rồi, sao thầy còn đứng mãi đây làm gì?”
“Anh lại cho em mượn chiếc chìa khóa ấy được không?”
“Chìa khóa nào?” Thấy Sảnh bất chợt đến, Du Thư Lượng biết ngay là có việc lên quan đến Hinh.
“Còn chìa khóa nào nữa? Đương nhiên là chìa khóa phòng hồ sơ. Hồi nọ Hinh đã mượn anh mà!”
“Cái đầu em nghĩ những gì gì thế? Phòng bảo vệ đã khám túi Hinh và lấy mất cái thứ đồ cổ ấy, nó bị coi là công cụ để gây án, đời nào họ lại trả lại tôi! May mà Hinh rât có nghĩa, đã không cung khai tôi ra, mà chỉ nói là tìm thấy nó ở hội sinh viên. Cho nên chỗ tôi không thể có nó được nữa!”
“Tất nhiên là em biết rồi, em chỉ hỏi gọi là cầu may vậy thôi.” Sảnh tinh quái nhìn Lượng.
“Em định làm gì nói xem nào?”
Sảnh bỗng xị mặt: “Anh cứ như là thẩm vấn em! Em đang muốn thẩm vấn anh thì có! Tại sao mấy hôm nay anh toàn đến phòng bảo vệ? Đến đó để nói xấu Diệp Hinh à? Có phải lần trước anh đã tố nó ra không đấy?”
“Gì thế? Em theo dõi anh à?” Lượng đứng bật dậy khỏi ghế, suýt nữa thì rơi cả cặp kính.
“Ai hơi đâu mà theo dõi anh!” Sảnh lại nói với giọng ma mãnh. “Thôi nào, anh đừng ngại! Chuyện là thế này: mấy hôm nay em hay đi loanh quanh gần phòng bảo vệ, nghĩ cách lẻn vào trong đó nhìn xem có hồ sơ “Nguyệt Quang xã” hay không. Nhưng ở đó hoặc là luôn có người hoặc là khóa cửa, nên em hết cách! Nhưng em lại thấy anh ra vào đó mấy lần, có phải anh đã mắc sai phạm gì không? Đánh mạt chược ăn tiền, hoặc là trêu ghẹo nữ sinh gì gì đó…”
“Hồ sơ Nguyệt Quang xã là cái gì?”
“Tức là tập hồ sơ mà cái đêm hôm nọ Diệp Hinh đã đọc trong phòng hồ sơ. Tiếc rằng Hinh vẫn chưa đọc xong. Kìa, sao anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của em?”
Lượng gật gù: “Thì ra là thế. Tôi xin nói, tôi đến phòng bảo vệ, đúng là có việc liên quan đến Diệp Hinh. Hôm đó Hinh bị tóm cổ ở phòng hồ sơ, bị phòng bảo vệ tịch thu chìa khóa cửa và cuộn phim. Họ biết Hinh đã vào đó, thì cũng chỉ là chụp các nội dung của hồ sơ mà thôi, nhưng muốn chứng minh thì phải rửa phim in ảnh xem rõ là chụp cái gì. Thầy giáo Kim phụ trách công tác học tập cũng thm gia với phòng bảo vệ, thầy Kim nói “Đưa ra hiệu ảnh thì tốn thì giờ, tốn tiền, chi bằng hãy để cho hội nhiếp ảnh giải quyết. Nhà trường vẫn tài trợ một phần kinh phí cho họ kia mà.” Thế là việc đó rơi vào tay tôi. ”
Sảnh thích quá nhẩy cẫng lên: “Thì ra là anh đã nhìn thấy ảnh rồi! Sao anh không nói ra cho sớm? Chắc anh đã giữ lại một tập, đúng không?”
Lượng bình thản nói: “Coi như em đã đóan đúng. Tôi có giữ lại một tập.” Lượng lại lặng lẽ mở ngăn kéo tủ bàn làm việc lấy ra một xấp ảnh đưa cho Sảnh.
Sảnh không nén nổi hào hứng, cúi đầu xem, nhưng cô chợt biến sắc: “Cái gì thế này? Toàn là mờ ảo cả lũ.”
“Trước khi in tráng mấy tấm ảnh này, tôi đã đoán được kết quả này rồi. Nguyên nhân rất đơn giản, máy ảnh của Hinh chưa phải là cấp độ tinh xảo, khả năng bắt ánh sáng cũng chỉ có hạn, kỹ thuật chụp thì chưa cao, muốn chụp ảnh đẹp trong bóng tối thì đâu có dễ.”
“Thế thì phải làm sao đây? Đúng là của trời cho mà vẫn không ăn đựơc!” Sảnh ngán ngẩm thở dài, chiếm ngay cái ghế của Lượng ngồi luôn.
“Nhưng vẫn còn chuyện đáng ngán hơn thế nữa kia. Khi tôi bàn giao kết quả cho phòng bảo vệ thì họ chẳng mấy bận tâm, mà họ còn bám riết tôi, bảo tôi phải rửa ảnh cho họ mấy lần, thế là tôi biến thành đầy tớ của họ. Sảnh nhìn thấy tôi đến, là vì tôi phải giao ảnh cho họ.”
Sảnh nghe Lượng nói thế, cô lập tức nảy ra một ý tưởng: “Em có một cách này: lần sau còn đến giao ảnh cho họ, anh cố ngồi nán lại một lúc, nhìn xem có thấy “Hồ sơ Nguyệng Quang xã” cất ở phòng bảo vệ không. Tuy vụ việc Diệp Hinh “bị bắt” đã trôi qua một quãng thời gian thật, nhưng nếu họ sơ suất, thì rât có thể vẫn chưa chuyển tập hồ sơ ấy trở lại phòng hồ sơ cũng nên.”
“Nếu vẫn thấy nó ở phòng bảo vệ thì sao?”
“Em xin trả lại anh câu nói lúc nẫy: thật không biết cái đầu anh nghĩ những gì! nếu cẫn còn, thì tất nhiên sẽ tìm cách để lấy trộm nó! Nếu không, em cần anh đến trinh sát làm gì?” Sảnh đã thấy trong lòng dễ chịu hơn.
Lượng lắc đầu như cái máy rung trong phòng thí nghiệm vật lý: “Lấy trộm? Làm thế sao được? Tôi là một thanh nên biết tôn trọng luật pháp”
“Thế thì không gọi là “trộm” nữa. Đổi cách nói khác. Khổng Ất Kỷ đã nói: “thó sách không bị coi là trộm cắp”.”
“Cô em này thật to gan! Diệp Hinh đã lây thói xấu của em rồi”
Sảnh lại thở dài, hơi ngẩn người: “Đúng thế còn gì! Hình như mọi người cũng đều nói thế. Thôi vậy, xem ra, anh Lượng cứ như là A Đẩu, khó mà vực lên được, em cũng không muốn phí sức nữa. Em để lại số máy nhắn tin, nếu nhìn thấy tập hồ sơ ấy thì anh báo ngay cho em, được không ạ?”