9h ngày 11 tháng 6
“Diệp Hinh, em nhìn xem ai đến đây này!” Cô y tá tươi tỉnh gọi Hinh.
“Mẹ, Sảnh ơi! Cả hai cùng đến, sao lại khéo thế này?” Hinh rất vui vì cùng một lúc được gặp hai người thân nhất của mình. Cô ngắm kỹ khuôn mặt của mẹ còn vương lớp bụi đường, chắc là vừa mới đến Giang Kinh, nhưng trông bà rất tươi tắn. Cô lại nhìn Sảnh, Sảnh rất điềm tĩnh.
“Thử đoán xem ai đã nhắn mẹ tới đây?” Bà Kiều Doanh cười hỏi.
Hinh nhìn Sảnh, Sảnh lắc đầu: “Đừng nhìn tớ! Cô ơi, cô đừng dứ nó nữa, cô báo tin vui cho Hinh đi”.
“Con ạ, bác sĩ Đình gọi điện cho mẹ, ông ấy đã quyết định cho con ra viện”.
Hinh ngây người, nét mặt lộ rõ niềm vui vô hạn, nhưng cô vẫn trào lệ, hồi lâu không nói nên lời. Sảnh lặng lẽ nhìn Hinh, cô hiểu rằng không phải Hinh khóc vì quá vui, trong làn nước mắt ấy chứa đựng bao nỗi chua cay, những áp lực về tinh thần cùng bao ảo tưởng về một tình yêu.
Mùi vị của chúng ra sao chỉ có mình Hinh âm thầm chịu đựng.
Đã làm xong các thủ tục ra viện, Sảnh nói với hai mẹ con Diệp Hinh:
“Cháu đã nói chuyện với cha mẹ cháu, từ nay tạm để Hinh ở cùng gia đình cháu ít lâu. Nhà trường cũng đã đồng ý cho chúng cháu tự học là chính, đồng thời cử giảng viên dạy bù cho để chúng cháu khỏi bị lưu ban. Chúng cháu có thể cùng học và cùng giúp đỡ nhau trong sinh hoạt”.
Bà Kiều Doanh vốn định đón Hinh về Giang Nam nghỉ ngơi ít lâu, nhưng nghe Sảnh nói thế bà bèn hỏi ý con gái xem sao. Phải nghỉ học đã lâu, và cũng không muốn bị lưu ban nên Hinh đồng ý ngay, cô sẽ ở lại Giang Kinh để học bù.
Sau khi cùng ăn bữa trưa, cả ba người về nhà Sảnh. Cha mẹ Sảnh đều đang đi làm, bà Kiều Doanh trò chuyện tâm tình với con gái rồi rời khỏi nhà Sảnh đi tìm khách sạn, tiện thể mua ít quả cảm tạ gia đình Sảnh.
Bà Kiều Doanh vừa đi, Sảnh bèn nói ngay với Diệp Hinh: “Điều mà lần trước Hinh đề xuất, tớ đã hỏi cha mẹ tớ xem có nghe nói về nhân vật “Máy kéo” ấy không? Cậu đoán xem, cha mẹ tớ đồng thanh nói là “có biết”. Người ấy tên là Sầm Thiết Trung, một nhân vật nổi tiếng oai hùng ở Đại học Y Giang Kinh thuộc phái “tạo phản” hồi đó. Cha tớ khi còn ở trong trường thường chơi bóng rổ với ông ta, về sau cũng không có liên lạc gì nữa. Ông ta luôn rất sôi nổi, vẫn liên lạc với các bạn học cũ, nghe nói mấy năm trước đã đi khỏi bệnh viện Thâm Quyến mở công ty dược và dụng cụ y tế. Tớ đã nài nỉ mẹ tớ khẩn trương tìm số điện thoại của nhân vật này để chúng ta có thể đến hỏi thăm về các chuyện cũ”.
Sảnh ngừng một lát, cô lại quan sát vẻ mặt và ánh mắt của Hinh, rồi nghiêm túc nói: “Hinh ạ, cậu vừa mới ra viện thật, nhưng mình vẫn muốn đưa cậu đến ngay một nơi, cậu hãy hứa với mình là cậu nhất định sẽ kiên cường”.
Hinh hơi ngạc nhiên, không rõ Sảnh lại bày trò kỳ quái gì đây. Cô cũngnghiêm túc nói: “Cứ yên tâm, nếu hỏi mình đã có thu hoạch gì sau những ngày nằm viện, thì nên nói là mình ngày càng can đảm hơn, mình chỉ e cậu còn phải phục mình ý chứ”. Nói đến câu cuối cùng, Hinh không nhịn được cười.
Sảnh thoáng buồn, rồi cùng Hinh ra khỏi nhà.
Bước đến gần bậu cửa cao cao trước tòa nhà giải phẫu, Hinh hơi sững người, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời bao la không một gợn mây, tâm trạng cô cũng rất thoải mái. Trước kia thường cảm thấy hình như luôn có một nỗi sợ hãi bao trùm lên căn phòng thực nghiệm giải phẫu, nhưng bây giờ thì ánh sáng chan hòa, nào có gì đáng sợ chứ? Nhưng khi nghĩ rằng còn vô số điều bí hiểm khó hiểu vẫn đang tồn tại quanh mình thì cô vẫn thấy hơi rờn rợn. Nhưng cô hiểu rằng phải can đảm tìm tòi khám phá thì mới có thể tìm thấy sự yên ổn thật sự cho tâm hồn và thể xác, cho dù phía trước còn có nhiều nỗi sợ hãi mà ta chưa biết. Thế rồi cô tiến lên trước, bước qua bậu cửa, bước lên thềm, đẩy cửa tiến vào.
Cả hai đi thẳng đến cuối hành lang, Sảnh gọi to: “Bác Phùng, chúng cháu đây mà”.
Tiếng bước chân lệt sệt trong phòng chuẩn bị. Thấy Diệp Hinh, nét mặt ông Phùng tỏ ra thiếu tự nhiên, ông chỉ nói một câu: “Cô đã ra viện à? Tốt, rất tốt”. Rồi ông dẫn hai cô vào căn phòng nhỏ đối diện với phòng chuẩn bị. Hinh vẫn còn nhớ, chính trong căn phòng nhỏ này cô đã từng nhìn thấy cái tiêu bản cơ thể cực kỳ tinh xảo.
Ngoài dãy tủ kê áp tường ra, căn phòng nhỏ này không có thứ gì khác. Hinh đang ngạc nhiên thì ông Phùng đã khom người xuống. Dưới sàn có một cái vòng tròn để làm tay kéo, nó nằm ngang mặt sàn, rất ít gây chú ý. Ông Phùng mạnh tay nhấc lên “kẹt, kẹt”. Mặt sàn được mở ra, phía dưới là một bể chứa rộng đến hai chục mét vuông. Mùi thuốc bốc lên nồng nặc, khi ông Phùng dùng móc sắt móc lên một thi thể rữa nát, Hinh mới nhận ra rằng căn phòng này chính là một nhà kho chứa tử thi.
Lại một thi thể nữa được móc lên, rồi được xếp song song với thi thể kia trên một tấm cao su màu trắng. Ông Phùng thoáng nhìn Hinh, rồi lấy chìa khóa mở một cánh cửa tủ, lấy ra một túi đựng giấy tờ kiểu dáng như một chiếc phong bì. Ông lại nhìn Hinh, rồi nhìn Sảnh. Hình như ông đang có phần do dự. Thấy Sảnh khẽ gật đầu, ông Phùng mới mở túi lấy ra hai cuốn sổ nhỏ bìa đỏ, mở chúng ra rồi đưa đến trước mặt Hinh:
“Đây là thẻ sinh viên của hai người chết, cô nhìn hai tấm ảnh này xem”.
Hinh nhìn hai tấm ảnh, rồi bỗng thấy chóng mặt dữ dội. Cô đau khổ nhắm mắt lại. Một trong hai người chính là Tạ Tốn, nét mặt lộ rõ vẻ ngang tàng, bấy lâu nay vẫn bầu bạn sớm tối cùng cô, quyến luyến không rời. Còn người kia thì trầm tĩnh rắn rỏi, chính là anh chàng thư sinh Lệ Chí Dương lạnh lùng vẫn hay cặp kè bên Tạ Tốn.
Hai tấm thẻ lại ghi rõ họ tên: Tiêu Nhiên, Trịnh Kinh Tùng.
Hinh lại thoáng thấy nhức đầu, ông Phùng nói oang oang bên tai cô, hình như đang giải thích cho cô về những cơn ác mộng bấy lâu vẫn đeo bám cô.
“Hai cái xác này được đưa đến khu nhà giải phẫu sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1967. Sở công an giao việc khám nghiệm tử thi cho phòng nghiên cứu giảng dạy pháp y của trường ta. Thực ra cũng chẳng phải khám nghiệm gì nhiều vì cả hai đều là nhảy lầu, ở hiện trường cũng không có dấu vết vật lộn. Công an đã kết luận là tự sát. Điều chắc chắn là sau khi nhảy lầu, hai thi thể đã được chuyển ngay đến phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẫu, vì trước đó cả hai đều ghi tên đăng ký tự nguyện hiến xác. Phòng chúng tôi luôn có ghi chép về từng thi thể loại này. Nhưng thường chỉ là một vài tư liệu liên quan, nhiều nhất là ghi họ tên. Có một số người nhà còn chọn giải pháp nặc danh. Nhưng hai người này thì không hề có người nhà đến tổ chức lễ tang, cho nên chỗ tôi đây trở thành nơi dừng chân cuối cùng của hai người và lưu giữ giấy tờ của họ. Thật là hết sức thê thảm!”
“Tại sao bác vẫn giữ nguyên xác của họ?” Hinh đau khổ ôm đầu mỗi lúc một nhức hơn, cô hỏi một cách khó khăn.
“Hồi đầu tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có người nhà đến nhìn mặt họ lần cuối. Và cũng vì việc giảng dạy năm đó không được bình thường, chưa thật cần đến tiêu bản của hai thi thể này. Về sau nghe nói Trịnh Kinh Tùng vốn là trẻ mồ côi, không có họ hàng thân thích. Tiêu Nhiên cũng không có người thân ruột thịt, chỉ có vợ chồng người bác thì một người đang ở tù, người kia đã qua đời hai năm trước đó. Thế rồi tôi quyết định xử lý hai thi thể này làm tiêu bản giải phẫu. Nhưng đã xảy ra một chuyện kỳ lạ.
Tôi vẫn quen xử lý tiêu bản vào ban đêm, nhưng trước kia thường bật đèn để làm. Giữa đêm hôm đó tôi chuẩn bị cưa xác của Tiêu Nhiên, lúc chuẩn bị cầm dao thì cả năm bóng đèn tuýt và một ngọn đèn rọi của phòng chuẩn bị bỗng tắt ngấm. Cùng lúc đó, một điệu nhạc tuyệt diệu vang lên, sau này tôi mới biết đó là “bản giao hưởng ánh trăng” của Bét-tô-ven. Tôi nhìn về hướng phát ra tiếng nhạc: chẳng biết từ lúc nào, trên sàn căn phòng chuẩn bị có một máy hát đang chầm chậm quay, bên cạnh còn có một chồng đĩa hát nữa. Tôi thận trọng bước đến, thấy một mảnh giấy chèn dưới máy hát, tôi cầm lên. Nhờ có ánh đèn ngoài hành lang, tôi nhìn thấy rất rõ chữ viết: “Rực rỡ dễ tan, thân lạnh dễ nát, hồng nhan dễ tàn, xương cứng dễ gãy. Trên thế gian chỉ có âm nhạc là vĩnh cửu. Xin người hữu duyên hãy nhận kỷ vật vĩnh hằng này”.
Tính tôi không nhút nhát, nếu không đã chẳng làm cái nghề này lâu như vậy. Nhưng đêm đó tôi đã sợ mất vía. Kể từ đó tôi không dám xử lý hai cái xác này nữa, song cũng từ đó tôi thay đổi thói quen – tôi chỉ xử lý các tiêu bản trong bóng tối, hoặc cùng lắm là nhờ ánh trăng hắt vào. Đương nhiên tôi không mê tín, nhưng sự việc đêm hôm đó khiến tôi nhớ đến các lời đồn đại rằng phần lớn các tiêu bản của phòng thực nghiệm giải phẫu là của các thành viên “tổ chức đặc vụ” có tên là “Nguyệt Quang xã” – đều bị chết oan uổng cho nên họ biến thành ma quậy phá, dẫn đến việc ông Tang – sư phụ tôi phải xây một cái bậu cửa cao. Nói là để phòng các chất thuốc ướp tràn ra ngoài, nhưng thực ra là để trấn ma. Về sau nghe nói Tiêu Nhiên chính là thành viên cuối cùng của “Nguyệt Quang xã”.
Cũng vì vậy mà tôi giữ chiếc máy hát đó – thấy mặt ngoài của chiếc máy có khắc chữ Tiêu – tôi đoán có lẽ nó là của anh sinh viên Tiêu Nhiên. Sau thời gian nghe hết chồng đĩa hát ấy, tôi cũng trở thành một người mê nhạc cổ điển, cho nên sau khi cô Sảnh nói với tôi rằng thực ra các thành viên của “Nguyệt Quang xã” chỉ là những người thích nghe nhạc cổ điển, thì tôi không rõ là mình có cảm giác gì nữa.
Nhớ lại những năm trước kia, tôi luôn cảm thấy bầu không khí ở phòng giải phẫu luôn thấp thoáng một cái gì đó không bình thường, cụ thể là gì thì tôi không diễn tả ra được, nhưng nó là một cảm giác mơ hồ luôn khiến tôi phải nơm nớp lo sợ, nhất là sau 12h đêm thì thường có những âm thanh lạ lùng. Tôi tuy hơi thấy sợ nhưng vốn tính tò mò nên tôi vẫn chờ đến sau nửa đêm để biết rõ sự thật. Cứ thế mãi, rồi đâm quen. Nhưng cũng từ sau khi chiếc máy hát xuất hiện thì không có hiện tượng gì khác nữa, hai cái xác vẫn ngâm ở đây, tôi cũng không có ý định xử lý chúng nữa.
Cách đây bảy năm, cô sinh viên Thẩm Vệ Thanh đã đến phòng giải phẫu này vài lần vào lúc nửa đêm, trông cô ta cứ như người mất hồn. Tôi hỏi cô đến đây làm gì, thì cô ấy lại hỏi tôi các câu hỏi kỳ lạ: tôi có từng nghe nói về “Nguyệt Quang xã” không? Có phải các thi thể của thành viên “Nguyệt Quang xã” đều hiến cho phòng giải phẫu không? Bọn họ có còn hay không?…. khiến tôi nhớ ngay đến chiếc máy hát ấy. Tôi cân nhắc mất vài hôm, xem có nên kể với Vệ Thanh những điều tôi đã trải qua không. Tôi lo nhất là nếu tôi nói ra rồi, cô ấy sẽ hoảng hồn, rồi sẽ kể lại lung tung khiến tôi bị mang tiếng là reo rắc mê tín nhảm nhí. Tôi do dự mãi, nhưng rồi vẫn kể cho cô ấy biết câu chuyện về chiếc máy hát. Nào ngờ chỉ sau ít lâu, tôi nghe nói cô ấy đã đi viện tâm thần, rồi về sau lại nhảy lầu. Có người bảo cô ấy đã chết, người thì nói cô ấy vẫn còn sống.
Cho nên hôm cô Hinh gặng hỏi tôi về “Nguyệt Quang xã”, thì trong lòng tôi rất không yên. Tôi chỉ sợ cô ấy lại đi vào con đường cũ của Thẩm Vệ Thanh. Nhưng tôi cũng nghĩ là không nên giấu điều gì, mặc dù tôi không muốn tùy tiện reo rắc những chuyện mê tín gì. Hôm đó coi như tôi đã hạ quyết tâm, nếu hai cô lại đến hỏi thì tôi sẽ kể với cô Hinh mọi chuyện mà tôi đã biết”
Sảnh bỗng kinh ngạc kêu lên: “Hinh ơi, cậu sao thế?”
Chỉ thấy Diệp Hinh người mềm oặt rũ xuống, may mà Sảnh đã kịp đến đỡ cô khỏi bị ngã. Hinh thấy đầu nhức như búa bổ, choáng váng, hình như đang bị quay trong một vùng xoáy nước, chìm nổi vật vã, và hình như hai chữ “ánh trăng” trầm trầm rót vào tai cô như muốn chọc thủng màng nhĩ. Mắt Hinh mờ dần đi, một màn tối đen thẫm bao phủ lên cái kho chứa xác nho nhỏ. Từ màn tối đen ấy, một cô gái áo trắng hiện lên trong làn ánh sáng trắng, và dần bước tới gần, cho tới khi Hinh nhìn rõ mồn một: một khuôn mặt nát đầm đìa máu tươi.
“Để mình đưa Hinh đi viện” Sảnh dìu Hinh ra ngoài.
“Không cần đâu, mình chỉ hơi chóng mặt… có lẽ vì quá ngột ngạt… ngồi nghỉ một lát rồi sẽ ổn mà” Hinh biết phòng y tế chẳng phải là nơi cô có thể giải quyết được vấn đề.
Sảnh dìu Hinh đi đến một phòng học, bảo Hinh ngồi xuống rồi khẽ nói: “Hinh hãy ngồi nghỉ một lát, mình sẽ sang hỏi xin bác Phùng mấy viên nhân đan hoặc lọ dầu gió gì đó để giúp cậu đỡ khổ sở đã!”
Khi Sảnh và bác Phùng quay trở lại, thì không thấy bóng Hinh đâu nữa.
Sau hôm bị trúng gió, bà Uông Lan San được đưa đi điều trị tại khoa tim mạch bệnh viện số 2 trực thuộc đại học Giang Kinh. Bệnh viện này ở cách trường năm bến đỗ xe buýt. Hinh ngồi xe đi đến đó, xin tấm thẻ vào thăm bệnh nhân San. Cô đi thẳng đến khoa tim mạch ở khu nhà 8 tầng, bước vào buồng bà San đang nằm. Bà ta đang nhắm mắt, chẳng rõ đang dưỡng thần hay đang ngủ.
Hinh ngồi lên chiếc ghế kê bên giường, hồi lâu cô vẫn chưa bình tâm lại được. Rõ ràng là có vô số hiện tượng chứng tỏ mình đã nhìn thấy những sự vật mà người khác không thể cảm nhận được. Đó là hình bóng hai con người đã chết. Họ muốn làm điều gì? Và điều khiến Hinh càng không thể tin, là mình và một linh hồn đã yêu nhau, hơn nữa còn yêu nhau rất sâu nặng. Dù đã biết đây là sự thật rất hão huyền thì cô vẫn không đủ sức để bứt ra. Thực hết sức đáng buồn. Nước mắt cô lặng lẽ tuôn trào.
Và cũng thật nực cười. Ngu xuẩn và ấu trĩ nữa. Khỏi cần nghĩ nhiều, Hinh cũng có thể hình dung cuộc sống bốn năm đại học tới đây sẽ có bao nhiêu lời đàm tiếu chê cười sau lưng cô.
Bốn năm, liệu có bốn năm nữa không đây?
Ngày 16 tháng 6 ngày càng đến gần, và càng thấy rõ ràng mình là nạn nhân được “lựa chọn” cho năm nay. Những nữ sinh bị lựa chọn trong suốt 16 năm qua, không một ai thoát. Mình nào có năng lực đặc biệt gì để mà tránh được cái nạn này đây?
Hy vọng đã mỏng manh như thế, tại sao mình còn dềnh dàng ngồi đây thở dốc, bấm đốt ngón tay xem còn mấy ngày nữa? Sao không tìm cách phá tan điều mê tín này, để sớm từ giã cái vận mệnh bất đắc dĩ này?
Trời dần sẫm lại. Hinh bất giác ngẩng nhìn cánh cửa sổ lớn của buồng bệnh nhân. Hinh bỗng thấy mình có thể hiểu được cái quyết định cuối cùng của Tiêu Nhiên: khi con người ta không thể làm chủ số phận, khi muôn vàn cái tốt đẹp đã tiêu tan, thì tội gì lại không phủi tay để ra đi?
Hinh bước lại gần cửa sổ, dưới kia là cái sân nhỏ để cho bệnh nhân đi dạo. Thấy vài
bệnh nhân, người thì chống nạng, người thì ngồi xe lăn, người thì chân đất… dường như sự sống đang dần rời xa họ.
Sự sống cũng đang rời xa mình.
Hinh mở cửa sổ, đứng lên thềm cửa.
“Cô có cảm thấy rằng càng hiểu biết nhiều thì càng tiến gần đến cái chết không?” Tiếng bà Uông Lan San bỗng từ phía sau vọng đến. Câu nói này bỗng thức tỉnh Diệp Hinh. Cô thấy mình đang đứng trên bậu cửa sổ tầng 8, chơi vơi trước gió, có thể hụt chân rơi xuống bất cứ lúc nào. Toàn thân cô bỗng râm ran sởn da gà, cô vội nhảy ngay xuống, chạy vào căn buồng bệnh nhân, rảo bước đến trước giường bà San hỏi gay gắt:
“Vừa rồi bà làm cái trò gì thế?”
Bà San vẫn nằm trên giường, vì đang phải truyền dung dịch thuốc nên không thể thoải mái cử động. Hinh bỗng mủi lòng, vì thấy bà ta già yếu như thế này không nỡ trách móc. Vẻ mặt bà San hiện rõ nét vừa như vô tội vừa như đang thương hại: “Tôi có làm gì đâu? Tôi chỉ nhắc cô, cô không thoát được đâu!”.
“Bà càng nói cái luận điệu về định mệnh thì cháu càng không tin”. Giọng Hinh lại trở nên gay gắt: “Cháu đến để hỏi bà, có phải bà đã đến tầng dưới của tòa nhà giải phẫu hay không?”
“Đó là một trong những thánh địa của các thế lực thần thánh quái đản, sao lại có thể chưa từng đến? Nhưng tôi thực sự chẳng mấy hứng thú với cái nơi đó, tôi chỉ đến có một lần, vào mùa thu năm 1981 thì phải”.
“Bà hãy nói cho cháu biết, tại sao chỉ có cháu và bà nhìn thấy Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng?”
Bà San nghển người dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt vừa bi thương vừa giận dữ của Diệp Hinh, lắc đầu: “Tôi không biết, tôi có thể nhìn thấy rất nhiều thứ mà người khác không nhìn thấy, nhiều bác sĩ đã nói đó là ảo giác, tôi nghĩ, chắc chắn đó là ảo giác. Những thứ cô nhìn thấy cũng là ảo giác. Cho nên, không phải tôi và cô có thể nhìn thấy họ, mà là tôi và cô tự cho rằng mình có thể nhìn thấy họ”.
“Cháu không hiểu”.
“Cô rất thông minh kia mà, sao lại không hiểu chứ? Cái mà chúng ta nhìn thấy là hình ảo ảnh. Cô nói xem, hình ảnh ảo – ấy từ đâu ra?” Bà San khéo léo dẫn dắt.
Hinh ngây người, rồi giơ ngón trỏ chỉ vào trán mình.
“Đúng, họ ở trong đầu cô hay có thể nói là trong lòng cô, tôi không dám khẳng định. Tôi chỉ suy luận lôgic mà thôi”. Bà San lại nằm xuống “Bây giờ đến lượt cô cho tôi biết anh ta tên là gì?”
“Cháu vẫn chưa dám khẳng định, có lẽ tên là Tiêu Nhiên”. Hinh thấy mũi cay cay. Anh ta đã trở thành một nỗi ám ảnh trong cô.
“Không sao, tên chỉ là một thứ tín hiệu”.
“Nhưng tại sao cháu lại nhìn anh ta thành Tạ Tốn chứ không phải ai khác?”
“Cô nghĩ kỹ xem, trước khi Tiêu Nhiên xuất hiện thì cô có ấn tượng về Tạ Tốn thật không?”
Hinh cố tập trung nghĩ ngợi. Nếu theo lý luận của bà San thì nên giải thích ra sao? Cùng học chung với lớp C, thường xuyên nhìn thấy hai anh chàng ấy thân nhau cứ như Giả bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc thì đám nữ sinh không xì xào bình phẩm sao được? Quan sát mãi đôi “tình nhân” ấy, tiềm thức của mình sẽ lưu giữ ấn tượng về Tạ Tốn và Lệ Chí Dương. Thậm chí chỉ nghe người khác nhắc đến, dù mình đã quên tên họ rồi, thì các thông tin ấy vẫn lưu lại trong đầu.
“Những hình ảnh ảo trong đầu cô cùng tồn tại với cái ấn tượng này, thế là nó tận dụng luôn hai cái tên Tạ Tốn và Lệ Chí Dương. Quan hệ của hai người này song đôi và trùng khít với tình cảm giữa Tiêu Nhiên và Kinh Tùng”. Bà San tiếp tục phân tích. “Vì những hình ảnh ảo ấy tồn tại, nên cô mới liên hệ chúng với Tạ Tốn và Lệ Chí Dương, nên cô mới nghe thấy tiếng hát của Tiêu Nhiên, nên cô mới nghe thấy những âm thanh rùng rợn ở trạm phát thanh, rồi cô lại nhìn thấy ông kỹ thuật viên ở phòng giải phẫu bị cưa thây làm tám khúc, và cô cùng hò hẹn với Tiêu Nhiên cùng đi dạo ở vườn hoa bệnh viện tâm thần”
Tuy thế, Hinh vẫn phải cố giữ cho tỉnh táo để suy nghĩ.
“Theo như bà nói, thì tại sao hai người kia lại xuất hiện trong đầu hoặc là trong lòng cháu? Bà cũng từng đến nhà giải phẫu của trường cháu, xác của họ cất trong đó, vậy cháu có thể suy luận rằng linh hồn của họ đang ở trong nhà giải phẫu, bà và cháu đến đó, họ đã chui vào trong lòng chúng ta – nhưng tại sao lại là cháu?”
“Vì cô là một tín đồ. Cũng như tôi. Cho nên chúng ta mới gán ghép cho những linh hồn này”.
“Không đúng, xưa nay cháu chưa từng tin điều này. Rõ ràng là những điều kỳ dị xảy ra quanh mình đã thôi thúc cháu đi tìm hiểu”.
“Nhưng cô luôn tin rằng mình có liên quan đến “vụ án mưu sát 405”, đúng không? Cho nên cô là một tín đồ, niềm say mê với các vụ án nhảy lầu đã khiến cô mở rộng lối vào não bộ để cho các điều dị thường thoải mái xâm nhập”.
Hinh trầm ngâm nghĩ ngợi, soi xét kỹ các câu nói của bà San: “Bà nói cũng hơi có lý, vậy bà cũng là một tín đồ, cho nên bà có thể nhìn thấy họ, họ cũng cư trú trong lòng bà, đúng không? Nhưng chẳng lẽ họ đã nói gì với bà à? Tại sao bà nói cháu không thể tránh thoát? Lúc nãy cháu đứng lên bậu cửa sổ, chẳng lẽ cũng là do họ bày trò hay sao?”
“Cô hỏi nhiều quá, cũng oái oăm nữa. Tôi chẳng biết trả lời ra sao. Nhưng cô không thể thoát, mỗi bước đi của cô đều phải theo kế hoạch của họ”. Bà San bỗng lên cơn ho dữ dội.
Hinh sửng sốt: “Tại sao lại nói thế? Chẳng lẽ bà biết cả những ý nghĩ của họ? Kế hoạch của họ là gì? Là bắt cháu trở thành nạn nhân thứ 13 hay sao? Để cháu nghĩ xem nào… Phải chăng chính họ đã tạo ra những hình ảnh ảo, khiến mọi người đều coi cháu là bệnh nhân tâm thần phân liệt? Chính họ đã tạo cho cháu hy vọng bỏ trốn khỏi trường, rồi lại cho cháu nghe nhiều thứ âm thanh khủng khiếp, để cháu phát điên thực sự? Phải chăng chính họ đã để cho bà nhiều lần nói với cháu những lời đe dọa, khiến cháu phải đi viện tâm thần làm một bệnh nhân thực sự? Và ngày 16 tháng 6 sắp đến gần, phải chăng họ… Trời đất ạ, phải chăng họ đã thông qua bà, để trừ bỏ bác sĩ Đằng Lương Tuấn – người đang cản trở cháu ra viện? Và, khi bà đột ngột trúng phong cũng là vì bà đang vẽ ra hình hài của họ, họ trừng phạt bà đã tiết lộ nhiều bí mật về họ?”
Bà San gật đầu, nhưng lại lắc đầu lia lịa, và thở gấp gáp: “Sao cứ phải hỏi lắm thế? Đã biết là có nhiếu sự việc không thể cưỡng lại, thì sao cô không tranh thủ hưởng thụ những ngày ít ỏi còn lại?”
Hinh lại sửng sốt. Đúng thế, bà San hầu như thừa nhận những điều suy đoán này, xem ra mình nằm trong “kế hoạch” của họ thật.
Lẽ nào đây là số phận thật ư?
“Đúng, cô không thể thoát được”. Bà San khẽ nói
Có lẽ, cách phá vỡ kế hoạch ngày 16 tháng 6 chính là: Mình phải kết liễu vào giờ phút này.
Hinh gần như vội vã trèo lên bậu cửa sổ, phía dưới kia vẫn là những bệnh nhân không có mấy sức sống, thêm một người nữa thì đã sao?
Hinh xác định rõ ràng trong đầu, cô sắp nhảy xuống thì phía dưới sân bỗng xuất hiện một bóng người thân quen với bộ váy trắng, cô nhận ra chính là Âu Dương Sảnh.
Hình như đã biết Hinh đang đứng ở bậu cửa sổ, Sảnh nhìn lên, lắc đầu.
“Diệp Hinh, cậu mau xuống ngay”. Bỗng có tiếng Sảnh gọi từ phía buồng bệnh nhân.
Hinh kinh hãi, cúi nhìn xuống dưới: bóng Âu Dương Sảnh đã biến mất. Cũng như ý định nhảy lầu của cô đã vụt tan biến.
Trên đường trở về trường, Sảnh ai oán: “Hinh ạ, suýt nữa thì bà già ấy đã hại cậu. Theo mình thì việc này phải báo công an, tại sao cậu lại tha cho bà ta?”
Hinh nói chầm chậm: “Báo công an thì có ích gì? Đúng là bà San hành động hết sức quái dị lạ lùng, nhưng mình quan sát thấy rằng những khả năng khác thường của bà San không phải của chính bà ấy. Nói cách khác, chính bà ấy không thể kiểm soát được bản thân”.
“Ý cậu là, có kẻ đang điều khiển bà San? Hoặc là có ma nhập vào người bà ấy? Cũng hơi có lý đấy”. Sảnh có vẻ phấn chấn
“Gì mà ma nhập? Tớ chẳng tin những chuyện như thế! Nếu có thì là do ở đây” Hinh chỉ tay vào trán. “Cậu còn chưa cho tớ biết tại sao cậu lại đến đây? Nếu cậu không đến đúng lúc ấy thì có lẽ tớ đã thành tiên rồi. Từ nay tớ mắc nợ cậu một mạng sống rồi đấy”.
“Đừng nói thế, nghe sợ chết khiếp. Tớ yêu cầu cậu đừng chạy lung tung nữa, kẻo mẹ cậu sẽ không đồng ý cho cậu ở nhà tớ nữa. Thực ra là, bỗng nhiên không thấy cậu đâu, tớ ngẫm nghĩ thì biết ngay là cậu đi tìm bà San, vì cậu từng nói là bà ấy có thể nhìn thấy hai bóng người trong đầu cậu, cũng có thể nói là Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng. Cậu chưa từng liên hệ hai bóng người ấy với các nhân vật trong cuốn nhật ký kia, cho nên khi nhìn thấy hai thi thể ấy cậu sẽ nghĩ đến. Hai “người” này định làm gì? Họ có liên quan đến “vụ án mưu sát 405” hay không? Có lẽ chỉ bà San mới có thể giải đáp được các vấn đề này cho cậu.
Tớ đoán rằng việc bà San bỗng nhiên bị trúng phong khá nặng ở bệnh viện tâm thần, thì sẽ được điều trị tại bệnh viện trực thuộc số 1 hoặc số 2. Tớ bèn gọi điện cho mẹ tớ đang làm ở bệnh viện số 2, mẹ tớ tra ngay ra bà San đang nằm ở buồng nào”. Sảnh nói hơi có phần đắc ý.
“Kể cũng kỳ lạ, lúc tớ đứng trên bậu cửa sổ thì thấy cậu đang ở dưới sân, và còn lắc đầu với tớ. Nhưng – gần như là đồng thời – tiếng cậu lại vang lên ở trong buồng bệnh. Tình huống này giống như cảnh tớ đã gặp trong một giấc mơ. Có lẽ tớ lại có ảo giác mất rồi! Sảnh hãy mau đưa tớ vào viện tâm thần đi thôi!”. Nói đến câu cuối, Hinh tủm tỉm cười, rõ ràng là cô đang đùa.
“Tớ không làm! Mà dù có đưa cậu vào, thì họ cũng phải cần cậu đã chứ. Tớ cho rằng đúng là có một số chuyện kỳ lạ không dễ mà giải thích bằng các lý lẽ thông thường đã xảy ra với cậu, có lẽ đều do Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng gây ra cũng nên. Tớ còn chưa kịp cho cậu biết: hồi cách mạng văn hóa, ký túc xá số 13 dành cho sinh viên nam ở. Mẹ tớ bảo thế”.
Hinh bỗng dừng bước: “Thật à? Vậy thì có thể Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng đã ở phòng 405. Xem ra nếu chúng ta tin rằng những chuyện lạ không dễ giải thích bằng các lý lẽ thông thường ấy là có thật, thì có lẽ hai người này thấy mình bị chết oan nên mới không ngớt quậy phá trêu ngươi. Cách chết của các nữ sinh trong bao năm qua cũng trùng với họ, đều là nhảy lầu”.
“Dù sao nó cũng không cho phép tớ không tin. Trước tiên hãy nói về các chuyện khó mà giải thích nổi ấy có tồn tại hay không? Thầy Chương Vân Côn vốn nhất định không tin, nhưng sau khi tìm hiểu cuốn băng ghi âm ở trạm phát thanh, đã tin đến tám phần rồi. Chính thầy Côn và sư phụ Từ Hải Đình đã nói chuyện với nhau rất lâu, rồi mới chính thức quyết định cho cậu ra viện. Tớ thấy giả thiết vừa rồi của cậu là quá hợp lý, nếu không làm gì có chuyện trùng hợp đến thế? Thầy Côn đã nghiên cứu thấy rằng các nữ sinh ngày trước nhảy lầu, trước đó đều đã từng đến khu nhà giải phẫu lúc nửa đêm. Cuốn nhật ký của Tiêu Nhiên cho thấy đã từng có chuyện oan hồn của “Nguyệt Quang xã” gây rối. Tiếp tục suy luận, thấy rằng anh ta là đệ tử cuối cùng của “Nguyệt Quang xã”, sau khi chết gây rối cũng không có gì là lạ!”.
“Nói như thế, kết hợp với các lý luận kỳ cục của bà San, thì cách gây rối của anh ta là thâm nhập lòng người, thao túng họ, khiến cho họ nảy sinh ảo giác rồi có các hành vi trái lẽ thông thường. Cách trực tiếp nhất, có hiệu quả nhất là để cho các nữ sinh phải đối mặt với hàng loạt ảo giác, cảm thấy mình là nạn nhân đã được “lựa chọn”, thực ra chỉ là bị ám thị hoặc thôi miên. Giống như vừa nãy tớ ở trong buồng bệnh của bà San, tớ đã mất tự chủ để đi đến chỗ tự hủy diệt”. Hinh thấy rùng mình ớn lạnh.
“Này, luận điệu của cậu hơi giống với thầy Côn, tớ thấy hơi có lý đấy”.
“Muốn lần ra gốc rễ, có lẽ vẫn phải tìm hiểu xem sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1967 đã xảy ra những chuyện gì?”
“Suy đoán từ đoạn nhật ký ghi ngày cuối cùng, thì Tiêu Nhiên muốn gặp Y Y, nếu chị ta đến, hai bên thành thực giãi bày, thì anh ta sẽ có ý chí mạnh mẽ để tiếp tục sống. Chúng ta đã biết anh ta lựa chọn cái chết, thì rõ ràng là Y Y không đến”.
Hinh thở dài, ánh mắt cô hơi thẫn thờ “Thực ra tớ cũng đoán là thế. Rành rành là cái bài hát “Chờ đợi, chờ đợi” đã ghi lại câu chuyện đó. Tại sao tớ lại có thể nghe thấy bài hát này? Và nếu đúng là anh ta ngầm thể hiện rằng sẽ giết người thì thực ra anh ta muốn đạt được cái gì? Nếu giết người để trả thù, thì các nữ sinh kia và cả tớ nữa, nào có oán thù gì với anh ta? Anh ta làm thế sẽ là không hợp tình hợp lý” Hinh không muốn đánh đồng Tạ Tốn trong tâm trí cô và cái linh hồn có dã tâm sát nhân kia.
“Có lẽ anh ta bụng dạ dẹp hòi, cho rằng chị Y Y kia bán đứng mình, cho nên anh ta mới tạo ra thêm các oan hồn để truyền thông tin phẫn nộ”.
“Nếu đúng là thế thì hành vi ấy cực kỳ xấu xa. Giờ đây điều mình suy nghĩ nhiều hơn cả là phải hóa giải cái vận hạn khó tránh này như thế nào?”
Sảnh ngẫm nghĩ, rồi nói: “Muốn tháo chuông, hãy tìm người treo chuông. Theo mình thì phải tìm ra nhân vật Y Y, có thể sẽ được việc cũng nên. Lúc nãy mẹ mình gọi điện, nói là đã hỏi được số điện thoại của nhân vật Máy Kéo. Chúng mình sẽ gọi cho ông ta”.