Ánh trăng xuyên qua cửa sổ, nhuộm một lớp sáng bàng bạc vào căn phòng.
Cố Cửu quấn mình như cái kén tằm, tựa đầu vào vai Thiệu Dật.
Tiểu Đệ thì ghé vào bên gối của cậu nằm ngủ, hơi thở đều đều.
Bỗng đâu một trận gió lạnh quét qua làm nhiệt độ trong phòng lập tức hạ thấp xuống thấy rõ.
Tiểu Đệ thoạt nhìn có vẻ ngủ say ấy vậy mà lại ngóc đầu lên nhanh như chớp, nó nhìn vào khoảng không trước mặt, meo một tiếng.
Cố Cửu và Thiệu Dật nghe động cũng lục tục tỉnh dậy.
Bùi Dữ xuất hiện từ thinh không đã ngồi bên bàn từ bao giờ, ung dung thưởng thức trà Cố Cửu chuẩn bị sẵn cho hắn trước khi đi ngủ.
Thấy hai người đã tỉnh, Bùi Dữ cười nói: “Các con vẫn cảnh giác như vậy.”
“Sư cha.”
Cố Cửu khoác quần áo bước xuống giường, gần đây cậu không được ngủ thẳng giấc, khó khăn lắm mới được ngủ có chăn ấm nệm êm, bây giờ trông có vẻ hành động nhanh nhẹn thế thôi chứ thật ra hoàn toàn là theo bản năng mà làm, đầu óc vẫn còn mê li lắm.
Thiệu Dật thì đã tỉnh hẳn rồi, dù sao thì hắn cũng hơn Cố Cửu vài năm kinh nghiệm màn trời chiếu đất.
Bùi Dữ vẫn trẻ tuổi tuấn tú như xưa, chỉ có điều khuôn mặt hắn trắng bệch, nhìn là biết ngay không phải người sống.
Hắn buông chén trà, hỏi thẳng: “Các con tìm ta có việc gì?”
Bùi Dữ là âm sai, thân mang công vụ nên có thể bị gọi đi câu hồn bất cứ lúc nào, lần nào lên gặp cũng phải tranh thủ thời gian, không ở lâu được nên không dài dòng làm gì.
Cố Cửu đưa lá bùa có viết bát tự của Triệu Bản cho Bùi Dữ xem.
“Bọn con cần tìm một con quỷ, định hỏi mượn Tỏa Hồn Liên của sư cha một chút.”
Bùi Dữ cầm lấy bát tự xem qua một lượt rồi nhìn về phía Thiệu Dật: “Sao vậy? Các con gọi không được à?”
Thiệu Dật gật đầu: “Có điều bất thường.”
Bùi Dữ không nói lời nào, nâng tay lên, lập tức một sợi dây xích màu đen xuất hiện trong tay hắn.
Bùi Dữ dán lá bùa vào Tỏa Hồn Liên, ngay sau đó, chữ trên lá bùa như gặp nước nóng bị bốc hơi vậy, từ từ biến mất cho đến khi chỉ còn lại một lá bùa trống.
“Ngũ lôi sứ giả, ngũ đinh đô ty, Huyền Không Đại Thánh, phích lịch oanh oanh, triều thiên Ngũ Nhạc, trấn định Càn Khôn, nếu có không từ, bắt hồn quy phục.
Cấp tốc nghe lệnh!”
Theo từng tiếng niệm của Bùi Dữ, dây xích màu đen vốn đang rũ trên đất đột nhiên động đậy, kêu leng keng rồi uốn uốn lượn lượn trườn đi như một con rắn.
Khẩu lệnh vừa dứt, Tỏa Hồn Liên liền phóng lên cao, lơ lửng giữa không trung.
Tiếp đó, nó bay quanh phòng một vòng rồi mới xuyên qua cửa vụt đi, biến mất vào màn đêm.
Tỏa Hồn Liên có thể đi ngàn dặm trong chớp mắt, chỉ một lúc sau nó đã quay lại, thế nhưng đầu bên kia lại trống rỗng.
“Vẫn không câu được?” Cố Cửu ngạc nhiên kêu lên.
Bùi Dữ nhíu mày, giơ tay thu Tỏa Hồn Liên về, sờ lên nó, vuốt ve tỉ mỉ như đang thăm dò, sau đó hắn nói: “Nó dính phải sinh khí.
Có vẻ như con quỷ này bị người giam giữ rồi, sinh khí trong trận pháp ngăn Tỏa Hồn Liên lại nên mới không câu được hồn về.”
Tỏa Hồn Liên chỉ câu hồn người chết, có sinh khí tức là còn sự sống nên nó chẳng làm gì được.
Lần này ngay đến Tỏa Hồn Liên cũng không có tác dụng, Bùi Dữ đành lực bất tòng tâm, không giúp được gì hơn.
Bùi Dữ tạm biệt đi mất rồi, Cố Cửu và Thiệu Dật cũng không ngủ lại được nữa, thế là thức luôn ngồi vẽ bùa, sẵn tiện cùng nhau bàn bạc về chuyện của Triệu Bản.
Việc đã đến nước này, rất có thể y đã bị người còn sống hãm hại.
Kẻ đó hoặc là thuật sĩ muốn dùng hồn phách để luyện loại pháp thuật ác độc, hoặc cũng có thể là kẻ thù lúc y còn sống.
Tuy nhiên, giả thuyết sau có vẻ không hợp lý lắm, bởi vì Trương Ngọc Đường đã khẳng định Triệu Bản là một người hiền lành khiêm tốn, lúc còn sống ai ai cũng quý mến, cho dù có xích mích hay hiểu lầm đi chăng nữa thì cũng không đến nỗi người đã chết rồi mà vẫn chịu không buông tha.
Hai người vẽ được mấy chục lá bùa thì có tiếng gà gáy.
Trời vừa hửng sáng, Trương Ngọc Đường đã chạy qua tìm gặp hai sư huynh đệ với khuôn mặt đầy vẻ mỏi mệt.
Hắn nói đêm qua lại mơ thấy Triệu Bản, trông y rất đau khổ, miệng vẫn luôn mấp máy muốn nói điều gì đó nhưng không thốt lên thành tiếng được.
Cố Cửu hỏi Trương Ngọc Đường: “Quần áo Triệu Bản mặc lúc còn sống có còn?”
Trương Ngọc Đường vội nói: “Còn, còn.
Sau khi A Bản đi tôi có dặn để lại một ít quần áo không được đốt, bây giờ còn cất trong phòng riêng của huynh ấy.
Để tôi cho người đi lấy ngay.”
Trương Ngọc Đường sai người đi lấy vài bộ quần áo của Triệu Bản tới, thế nhưng bọn họ đợi hồi lâu mà chẳng thấy tăm tích quần áo đâu.
Đến khi Trường Ngọc Đường mất kiên nhẫn, đang định gọi thêm người qua đó xem sao thì mới thấy người hầu được sai đi lật đật trở lại, hai tay trống trơn.
Trương Ngọc Đường nhíu mày hỏi: “Quần áo đâu?”
Người hầu nọ đưa tay quẹt mồ hôi trán, thưa: “Bẩm lão gia, trong phòng của Triệu công tử không có quần áo.”
“Sao lại thế được?” Trương Ngọc Đường kinh ngạc.
“Mấy bộ quần áo đó là do ta chính tay xếp lại rồi cất vào kia mà.
Hòm xiểng đã tìm cả chưa?”
Người hầu đáp: “Đã tìm hết rồi lão gia.
Thật sự không có.”
Cố Cửu thấy vậy bèn hỏi: “Trương lão gia, sau khi ngài cất đồ vào có từng ghé qua kiểm tra lần nào không?”
Trương Ngọc Đường hổ thẹn đáp: “Mấy năm đầu tôi thường xuyên đi xem xét, nhưng sau đó A Oanh cứ gặp tai nạn liên tục, rồi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, việc làm ăn trong nhà càng ngày càng bận rộn nên không còn nhiều thời gian…” Công việc bận rộn, đương nhiên cũng quên bẵng đi.
Trương Ngọc Đường lại gọi người hầu đang đứng kia: “Ngươi đi hỏi phu nhân xem có phải nàng lấy đồ đi rồi không?”
Người hầu vâng lời chạy thêm một chuyến nữa, một lát sau đã trở về báo quả nhiên là phu nhân lấy.
“Phu nhân nói mấy bộ đồ đó đều là vải tốt cả, để trong tủ cũng bị mối mọt làm hư mà thôi, cho nên phu nhân mới lấy ra đem phát cho mấy người làm trong nhà.
Phu nhân nói nếu lão gia cần cứ tìm mấy người đó hỏi, có thể vẫn còn.”
Trương Ngọc Đường quay lại nhìn Cố Cửu có ý hỏi.
Cố Cửu lắc đầu: “Đã lẫn sinh khí của người sống vào, vô dụng thôi.” Thật ra Cố Cửu vốn không nói hết, Triệu Bản đã qua đời hơn mười năm, chút hơi tàn còn sót lại trên quần áo vốn đã không nhiều nhặn gì, bây giờ đồ còn bị đưa cho người khác mặc thì chắc chắn sinh khí thuộc về Triệu Bản đã sớm không còn.
Cố Cửu muốn xem quần áo chẳng qua là vì thử chút vận may, có còn hơn không mà thôi.
Thiệu Dật nói: “Vật khác cũng được, miễn là từng qua tay Triệu Bản.”
Nghe vậy, Trương Ngọc Đường im lặng một lúc rồi bỗng nhiên biến sắc, vẻ mặt buồn giận đan xen, vô cùng thiểu não.
“Chẳng lẽ không còn gì sao?”
Cố Cửu lấy làm lạ hỏi.
Trương Ngọc Đường và Triệu Bản là huynh đệ lớn lên cùng nhau, chắc hẳn phải có nhiều quà tặng và đồ đạc trao đổi qua lại chứ.
Trương Ngọc Đường chán chường nói: “Không còn nữa rồi, hoặc là thất lạc, hoặc là bị hư hỏng.
Hình như…hình như đồ A Bản từng tặng tôi không còn lại gì cả.”
Đột nhiên phát hiện ra chuyện này, Trương Ngọc Đường bỗng cảm thấy hoảng hốt, cứ như ngoài gian phòng trống hoác và tấm bài vị trên bàn thờ kia thì chẳng còn dấu vết gì chứng minh Triệu Bản từng sống cả đời ở nơi này cả, cứ như y chưa từng tồn tại.”
Cố Cửu nhìn Trương Ngọc Đường buồn bã thê lương, hơi chần chừ mở lời: “Thật ra vẫn còn một cách nữa, nhưng chỉ sợ ngài không đồng ý.”
Trương Ngọc Đường mừng rỡ ngẩng phắt lên: “Cách gì?”
“Đào mồ khai quan.”
…
Đối với tình huống như Triệu Bản gặp phải lần này, có thể lấy đồ vật người đó từng gắn bó lúc sinh thời môi giới để làm phép chiêu hồn, cứu người ra khỏi nơi họ đang bị giam cầm, khả năng thành công sẽ lớn hơn.
Nhưng ngặt nỗi bây giờ đồ đạc của Triệu Bản đã mất sạch, không còn lại gì, vậy thì chỉ còn cách dùng chính xương cốt của y để làm môi giới mà thôi.
Tuy nhiên đối với người xưa, nếu không phải gặp chuyện bất khả kháng thì tuyệt đối không được động chạm đến nơi của người đã khuất, nếu không sẽ bị xem là việc vô cùng bất kính.
Từ ngày hôm qua Cố Cửu và Thiệu Dật đã đoán được chỉ có cách đào mồ là khả thi