Viên Phi Dương bị kẻ gian hãm hại nên mới liên tục gặp tai ương, cho nên Cố Cửu và Thiệu Dật quyết định dùng thuật thế thân để giúp cô tạm tránh được những kiếp nạn từ trên trời rơi xuống, mà thuật này cần dùng đến bát tự của cô.
Bát tự của một người là sự kết hợp thiên can và địa chi của tứ trụ bao gồm: giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh, tổng cộng có tám chữ nên mới gọi là bát tự.
Viên Phi Dương sinh vào giờ Canh Dần, ngày Ất Mão, tháng Đinh Tị, năm Canh Thìn.
Cố Cửu dựa vào bát tự này tính ra cô cầm tinh con rồng, sinh vào khoảng hơn bốn giờ sáng ngày chín tháng năm năm Canh Thìn.
Sau đó Cố Cửu lại xem xét những màu sắc hợp với bát tự của cô, yêu cầu cô chuẩn bị bốn loại vải màu khác nhau, gồm hai tấm vải đỏ, hai tấm vải trắng, ba tấm vải vàng và một tấm xanh lá.
Sở dĩ chọn những màu này là vì Canh thuộc hành Kim cần màu trắng, Thìn, Ất và Dần thuộc hành Thổ cần màu vàng, Đinh và Tị thuộc hành Hỏa là màu đỏ, còn lại Mão thuộc hành Mộc màu xanh lá.
Sau khi có được đủ số vải, Cố Cửu khâu chúng thành một bộ y phục.
Thiệu Dật lại bảo Viên Phi Dương cho người gom cành cây tùng và rơm khô đưa tới.
Hắn dùng cây tùng làm khung xương rồi nhét vải đỏ tượng trưng cho trái tim vào, phủ thêm rơm rạ bên ngoài, bôi hồ dán dính lại thành một con bù nhìn, cuối cùng mặc bộ đồ Cố Cửu vừa may vào cho nó.
Con bù nhìn này cao gần bằng Viên Phi Dương, đầu trọc lóc, nhưng nếu nhìn kĩ sẽ thấy có vài sợi tóc đen dài được đính trên đỉnh đầu, đó là tóc thật của Viên Phi Dương.
Phần mặt của bù nhìn được dán một tờ giấy trắng, Thiệu Dật vẽ phác vài nét trên đó, ngũ quan đầy đủ, chỉ thiếu mỗi hai mắt, nhưng nhìn qua khá giống chính chủ.
Bởi vì địch ở trong tối, không biết lúc nào chúng sẽ tiếp tục ra tay, cho nên thực hiện thuật thế thân sớm chừng nào tốt chừng nấy.
Ngay đêm đó, Cố Cửu và Thiệu Dật bày pháp đàn, chỉ để Viên Phi Dương và Thanh Nịnh ở lại, những người khác đều dặn tránh đi hết.
Việc hai người thực hiện thuật thế thân này chỉ có hai người họ biết, những người khác đều theo lệnh mà làm, không được tường tận.
Con bù nhìn được đặt nằm thẳng trên bàn tế, nhìn xa không khác gì một người thật đang nằm, lại thêm ánh đèn lồng đỏ chập chờn trong sân càng làm tăng vẻ rùng rợn kì bí cho khung cảnh thi pháp.
Thiệu Dật rút kiếm ra, dùng mũi kiếm ghim một lá bùa châm lửa đốt cháy, sau đó hắn vung kiếm lên, niệm chú: “Kẻ làm thế thân, giấy trắng trở thành mặt, vải dệt biến thành y, ba mươi sáu cành tùng tựa ba mươi sáu đoạn xương, từ đây thành máu thịt, từ đây thành con người, mở thân mở mặt mở tai, nghe cho rõ ràng…”
Trên đàn tế có một chén sứ nhỏ đựng hai giọt máu của Viên Phi Dương.
Thiệu Dật niệm xong một tràng chú, dùng mũi kiếm chấm vào hai giọt máu rồi huơ kiếm ngang dọc ghim các giọt bắn lên tứ chi của bù nhìn, cuối cùng mới điểm mắt cho khuôn mặt bằng giấy.
Con bù nhìn nằm trên bàn vừa có mắt liền lập tức đứng dậy.
Cử động đột ngột của bù nhìn làm Thanh Nịnh đứng phía sau Viên Phi Dương giật thót.
Cô lảo đảo lùi lại phía sau, khẽ kêu lên một tiếng.
Viên Phi Dương vẫn khá bình tĩnh, nhưng cũng nhướng mày lộ ra vẻ kinh ngạc.
“Được rồi.”
Sau khi bù nhìn đứng lên, Cố Cửu thông báo: “Nếu lần sau cô nương lại gặp tai nạn thì thương tổn sẽ được dời lên con bù nhìn này, đảm bảo bình an cho cô một lần.”
Viên Phi Dương gật đầu tỏ ý đã hiểu: “Hai vị vất vả rồi.”
Cố Cửu dọn dẹp đàn tế, bế con bù nhìn lên, ôm vào phòng của cậu và Thiệu Dật.
Viên Phi Dương tạm thời được an toàn nhưng bọn họ vẫn chưa nắm được thế chủ động, không biết kẻ ác đang rình rập sẽ ra tay lúc nào.
Bọn họ chờ được, nhưng sức khỏe của bà nội Viên Phi Dương thì không chờ được.
Sáng nay Cố Cửu và Thiệu Dật vừa mới đến gặp bà, bây giờ lại ghé qua xem lần nữa, thấy tử khí trên người bà không có dấu hiệu tăng lên.
Nhưng đột nhiên, ngay lúc Thiệu Dật vừa lấy một lá bùa ra định giúp bà trừ bớt tử khí thì phát hiện chúng bỗng đậm hơn thấy rõ.
Thiệu Dật đanh mặt hừ lạnh, châm lửa đốt bùa: “Thanh thanh linh linh, nhâm quỷ triều thực.
Tam hồn về thân, bảy phách yên bình.
Đài quang linh u, tinh tốc phụ đồng thể.
Cấp tốc nghe lệnh!”
Thiệu Dật đánh thức hồn phách đã rơi vào trạng thái mê man nhiều ngày của cụ bà, khi sinh cơ đã quay về trong cơ thể thì tử khí vờn quanh người bà cũng bị át đi nhiều.
Trong mắt người thường như Viên Phi Dương thì khi lá bùa trong tay Thiệu Dật cháy hết, bà của cô bắt đầu hồi tỉnh, đôi mắt vốn đã mờ đục bỗng minh mẫn trở lại.
“Bà nội!” Viên Phi Dương quá mừng rỡ, quên béng mất lời Cố Cửu đã dặn, ghé vào mép giường, cầm lấy đôi tay run rẩy đang vươn ra của bà nội.
“Phi Dương…” Bà cụ khó nhọc gọi tên cháu gái.
Vành mắt cô ửng đỏ cả lên khi nghe tiếng gọi thân thương của bà.
Bà cụ thều thào tiếng được tiếng mất mà an ủi cô: “Phi Dương, đừng khóc… ông nội cháu sắp đến đón bà rồi, bà vui lắm…”
Viên Phi Dương nghe đến đó, kìm không nổi nữa khóc thành tiếng.
Bà nội của cô đã yếu lắm, chỉ tỉnh táo được một lúc rồi hôn mê trở lại, nhưng nhờ Thiệu Dật xua bớt tử khí nên không bị hành hạ khổ sở như trước nữa, lần này bà ngủ an ổn hơn hẳn.
Viên Phi Dương lau nước mắt, theo Thiệu Dật và Cố Cửu ra ngoài.
Vừa nãy tuy Cố Cửu đứng xa nhưng cậu quan sát rất rõ những thay đổi trên người bà cụ, cậu nhìn Thiệu Dật đang trầm tư, hỏi: “Sư huynh, có phải huynh phát hiện ra cái gì không?”
Thiệu Dật ngước nhìn cậu, đáp: “Còn chưa xác định được, ta chỉ nghi ngờ có người lập Âm Bia, đốt Âm Hương hại bà ấy.”
Viên Phi Dương hỏi: “Âm Bia và Âm Hương là cái gì?”
Cố Cửu giải thích cho cô: “Âm Bia chính là bia mộ lập cho người đã chết, còn Âm Hương là đốt nhang cúng tế người còn sống.
Hành động này tức là lập bia mộ cho người sống rồi đốt nhang tế bái họ.
Nhang đốt bao nhiêu thì sinh cơ của người sống sẽ mất đi bấy nhiêu, cho đến khi sinh cơ mất hết thì người đó cũng tiêu vong, thực sự trở thành người chết.” Cố Cửu lại nói tiếp: “Ban nãy tử khí trên người lão phu nhân đột nhiên đậm lên thấy rõ, mà lúc đó là giờ Hợi, thuộc âm, Âm Hương phải đốt vào giờ âm mới có tác dụng.”
Viên Phi Dương mím môi: “Thế nhưng tế bái thì phải có bát tự, mà bát tự của bà nội ngoài chính bà và tôi ra chỉ có ông nội và ông bà cố của tôi biết.
Canh thϊếp (1) của bà lúc gả về nhà họ Viên vẫn được khóa lại cất giữ cẩn thận, không hề thất lạc.”
Sinh thần bát tự là thứ cực kì quan trọng, không thể tùy tiện để người ngoài biết được.
Thông thường người ta sẽ